Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Tích hợp giáo dục dân số kế hoạch hóa gia đình vào giảng dạy kiến thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.23 KB, 47 trang )

Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang trên con đường đổi mới, sự phát triển như vũ bão của cách
mạng khoa học kỹ thuật trong thập kỷ vừa qua đã đưa nước ta thốt khỏi
đói nghèo lạc hậu. Nước ta đang trên con đường hội nhập, đời sống của con
người đang thay đổi một cách chóng mặt, thế nhưng một thách thức lớn đối
với nước ta vẫn chưa được giải quyết, đó là sự tăng dân số.
Hiện nay, dân số nước ta tăng quá nhanh, tính từ năm 1993 đến nay bình
quân mỗi năm tăng thêm khoảng 1,5 triệu người. Sự gia tăng dân số như vậy là
nguyên nhân chủ yếu cản trở tốc độ phát triển trí tuệ, thể lực nịi giống.
Mặt khác, trong tầng lớp nhân dân tư tưởng lạc hậu chưa được xoá bỏ,
thêm vào đó là sự kém hiểu biết về kiến thức di truyền đã làm dân số tăng
nhanh chóng, chất lượng dân số giảm dần. Một vấn đề lớn đặt ra cho nước ta
là phải làm giảm tỷ lệ tăng dân số và đảm bảo chất lượng dân số.
Để làm được điều này cần phải củng cố những tri thức về mối quan hệ qua lại
giữa chất lượng dân số - môi trường và chất lượng cuộc sống. Trên cơ sở đó
hình thành ở người học những hành vi đúng đắn đối với các vấn đề sinh
đẻ có kế hoạch, quy mơ gia đình hợp lý, phát triển dân số hợp lý, hiểu biết, tự
giác, chấp hành chính sách, chủ trương của quốc gia về dân số.
Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề này, ngay từ những
năm đầu thập kỷ 80, Bộ giáo dục và đào tạo đã tiến hành thí điểm đưa các nội
dung giáo dục dân số do Quỹ Dân Số Liên Hợp Quốc (UNFPA) tài trợ.
Tiếp theo đó từ năm 1994, với tinh thần bước đầu thể chế hố cơng tác giáo dục
dân số, các nội dung giáo dục dân số được tiếp tục tăng cường, giới thiệu trong
các trường phổ thông bằng cách tích hợp, lồng ghép các nội dung giáo dục dân
số trong một số môn học ở các cấp học trong hệ thống giáo dục phổ thơng chính
quy. Việc làm này nhằm giáo dục cho học sinh ngay từ khi

1



ngồi trên ghế nhà trường đã hiểu và ý thức được dân số - KHHGĐ giúp cho
học sinh có một hành trang tốt cho mình bước vào tương lai.
Trong năm bộ mơn được lựa chọn để tích hợp giáo dục dân số thì mơn
sinh học có điều kiện rất thuận lợi để tiến hành kết hợp giáo dục dân số. Trong
đó phần kiến thức di truyền có nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục dân số vì
nó giúp cho học sinh nhận thức đựơc do đâu sinh con trai hay con gái, tại sao
con lại giống bố mẹ hoặc khác bố mẹ, những tính trạng, loại bệnh nào là
khơng di truyền được, tại sao anh chị em họ hàng thân cận lấy nhau lại xảy ra
nhiều hậu quả xấu…?
Tuy nhiên, việc kết hợp giảng dạy kiến thức di truyền với giáo dục dân số cho
học sinh THPT vẫn còn hạn chế. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến chính sách dân
số của Đảng và Nhà nước. Xuất phát từ tình hình đó tơi tiến hành nghiên cứu đề
tài "Tích hợp giáo dục dân số - KHHGĐ vào giảng dạy kiến thức di truyền
cho học sinh THPT".
2. Mục đích nghiên cứu đề tài:
Nghiên cứu việc tích hợp giáo dục dân số - KHHGĐ vào giảng dạy kiến thức di
truyền ở trường THPT.
3. Nội dung nghiên cứu:
Xây dựng thành phần kiến thức di truyền trong chương trình THPT để
giáo dục dân số - KHHGĐ.
Xây dựng phương pháp tích hợp giáo dục dân số trong giảng dạy kiến thức di
truyền ở THPT.
Hướng dẫn giảng dạy: Tích hợp giáo dục dân số vào phần kiến thức di truyền cụ
thể trong chương trình di truyền học ở trường THPT.
4. ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
Việc nghiên cứu đề tài nhằm thử nghiệm phương pháp giảng dạy theo phương
thức tích hợp giáo dục dân số - KHHGĐ vào giảng dạy kiến thức di truyền ở
trường THPT.



Qua những bài học có tích hợp giáo dục dân số, học sinh không những nắm
được kiến thức di truyền ở trường THPT mà còn cung cấp cho học sinh các
kiến thức, sự hiểu biết về dân số, kế hoạch hố gia đình từ đó hình thành ở học
sinh thái độ, ý thức thực hiện luật hơn nhân gia đình Việt Nam, chính sách
dân số Việt Nam.


Phần 1
Tổng quan về các vấn đề nghiên cứu
1. Lược sử nghiên cứu di truyền học người và dân số
1.1. Lược sử nghiên cứu di truyền học người.
Mặc dù sự gia tăng dân số quá nhanh là vấn đề đau đầu không phải của riêng
quốc gia nào và làm sao để làm giảm được tỷ lệ tăng dân số không phải là
nhiệm vụ của riêng ai. Thế nhưng có một ngành khoa học mà mọi nghiên cứu
của các nhà khoa học về di truyền đều nhằm mục đích tìm kiếm phát minh
ra các phương thuốc, nguyên nhân xuất hiện bệnh di truyền… đó chính là di
truyền y học. Di truyền y học là một môn khoa học kỹ thuật mà chủ yếu là tế
bào học và sinh học phân tử. Những tiến bộ đó đã tạo khả năng chuẩn
đốn chính xác, tìm ra nguyên nhân và cơ chế phát sinh ra nhiều bộ máy di
truyền mà trước đây chỉ được mô tả dưới dạng các triệu chứng hoặc hội chứng.
Bệnh di truyền ở người không phải sau này khi khoa học phát triển người
ta mới biết đến, ngay từ trước cơng ngun (460-370) Hypocrat đã nói một số
tính trạng và bệnh tật của người hay xảy ra trong một gia đình và khơng
hay xảy ra trong những gia đình khác. Người cổ Hy Lạp đã ghi nhận xét và
tính trạng của người có liên quan đến giới tính, có tính trạng xuất hiện ở bố
nhưng không xuất hiện ở con rồi lại xuất hiện ở cháu trai.[9]
Người đầu tiên đặt nền móng cho ngành di truyền học đó chính là
Gregor Menđen (1865) với cơng trình nghiên cứu trên đậu Hà Lan. Các
nguyên lý của Menđen không những đúng với thực vật mà còn đúng với con
người và các sinh vật khác. Các nguyên lý đó sau này được phát triển thành

các quy luật di truyền của sinh vật.
Sự nghiên cứu về di truyền học người địi hỏi phải có sự kết hợp tham
gia của các ngành khoa học khác và một nhà khoa học đã thành công khi đem
thành tựu của khoa học toán học vào nghiên cứu trong sinh học đó là G.N.
Hardy.


Năm 1908 nhà toán học G.N. Hardy và nhà y học W. Weinberg đã độc lập
nghiên cứu về di truyền học quần thể và đã cùng đi đến một hệ thức tốn học
nổi tiếng:
(p +q)2 = 1
Trong đó
p: Tần số tương đối cảu Alen trội q: Tần số tương đối Alen lặn
Đó là định luật Hardy - Weinberg biểu thị cho trạng thái cân bằng di truyền của
quần thể. Cùng với sự phát triển của kỹ thuật, di truyền học quần thể đã mở
rộng nghiên cứu về các đặc điểm di truyền hình thái sinh lý, sinh hố, nhiễm
sắc thể… của các quần thể người.[3]
Trong một thời gian dài trước đây con người chưa biết đến vật chất di truyền
trong tế bào có chứa bao nhiêu nhiễm sắc thể. Mãi đến năm 1956 Tleo và
Levan dùng kỹ thuật nuôi cấy tế bào của bào thai và dùng số nhược trương
đã đếm chính xác số lượng nhiễm sắc thể của người là 46.
Nhờ có thành cơng này 3 năm sau Lejerne, Gauber và Turpin đã phát hiện
thấy ở người có hội chứng Down có 47 nhiễm sắc thể, mở đầu cho một chiều
hướng nghiên cứu mới, đó là nghiên cứu bản chất, hiện tượng di truyền của các
bệnh nhiễm sắc thể (NST). Ngày nay, hàng trăm bệnh NST đã được mô tả
trong đó hàng chục bệnh đã được tập hợp thành các hội chứng. Đồng thời sự
nuôi cấy thành công tế bào trong dịch ối đã mở ra khả năng thực hiện chuẩn
đốn bệnh bào thai khi cịn trong bụng mẹ, chủ yếu các bệnh NST của bào thai
và một số bệnh phân tử.[9]
Năm 1902 trên cơ sở những hiểu biết về bệnh alcap ton viện Garrod đã xây

dựng quan niệm về các sai lệch bẩm sinh của chẩn đoán. Dựa trên quan niệm
này các nhà khoa học khác đã nghiên cứu và phát hiện ra rất nhiều bệnh chuyển
hoá mở ra hướng giải quyết cho y học về các bệnh này. Năm 1919
Pauling đã nghiên cứu và nhận thấy hemoglobin của người bệnh hồng cầu
hình lưỡi liềm khác hemoglobin người bình thường ở tính chất điện ly. Sau đó


Ingram đã nghiên cứu trong 2 năm (1975 - 1979) đã chứng minh rằng sự khai
thác về tính chất điện ly của các hemoglobin và bệnh lý phụ thuộc vào thành
phần của các axit amin khác nhau trong chuỗi polipeptit của phân tử globin.
Từ đó y học bắt đầu đi sâu vào sự phân tích các phân tử bệnh lý và đã phát
hiện ra hàng trăm bệnh của các loại phân tử protein, các phân tử men, xác
định cơ chế sinh bệnh và phương pháp điều trị các bệnh đó.[9]
Mặc dù những năm đầu thập kỷ XX, di truyền học người và di truyền y học đã
phát hiện ra rất nhiều bệnh di truyền. Nhưng hiện tượng di truyền và cơ sở khoa
học của nhiều căn bệnh di truyền trong đó vẫn cịn nằm trong màn bí mật.
Những thành tựu nghiên cứu về hiện tượng di truyền của vi khuẩn, virut
đã mở ra hướng mới trong phòng và chữa bệnh ở người như: Chế tạo vacxin,
nghiên cứu hiện tượng miễn dịch, tính kháng thuốc của vi khuẩn.
Năm 1900 Landsteiner phát hiện ra nhóm máu A, B, O và một số nhóm máu
khác đã đặt nền móng cho mơn di truyền học miễn dịch. Cho đến nay bệnh
di truyền vẫn là một thách thức lớn không chỉ đối với y học mà với tất cả các
ngành khoa học, đòi hỏi phải có sự góp sức của cả xã hội. Di truyền học
đã có những thành cơng trong việc điều trị các bệnh di truyền cụ thể: Năm
1962-1970 Okada và cộng sự đã hồ nhập thành cơng hai tế bào từ hai cơ thể
cùng loài hay khác loài tạo nên tế bào lai. Nhờ thành cơng này có thể chuyển
ghép ghen từ tế bào này sang tế bào khác. Việc chuyển gen đã thực hiện trên
nhiều đối tượng động vật và thực vật và đem lại hiệu quả cao song chưa thực
hiện trên người do hệ thống thần kinh và hệ thống bảo vệ của con người vô
cùng phức tạp và mẫn cảm, bất cứ một sự thay đổi nhỏ nào trong cơ thể cũng

có thể gây tác hại rất lớn. Gần đây thành công này đã được áp dụng để chữa
bệnh di truyền cho người. Năm 1971 Merril đã đưa gen galactotransferaza
(quy định tổng hợp enzim chuyển hoá gluco) từ thể thực khuẩn vào tế bào
invitro của người bệnh gen này hoạt động tổng hợp được enzim trong tế bào
người. Như vậy đã bổ xung được enzim chuyển hố glucơ đang thiếu của


người bệnh. Hoặc như bệnh đái tháo đường, khơng cịn là "Bản án tử hình" đối
với người bệnh. Ngày nay người ta đã chuyển ghép gen tổng hợp hocmon
insulin vào vi khuẩn Ecoli dựa vào đặc điểm sinh sản nhanh chóng của vi
khuẩn này đã sản xuất ra hàng loạt hocmon insulin sử dụng trong chữa bệnh
đái tháo đường.[9]
Những thành tựu trên mở ra tương lai điều trị tận gốc các bệnh liên quan
đến bộ máy di truyền hoặc bổ xung gen sớm trở thành hiện thực.
1.2. Lược sử nghiên cứu của ngành dân số học
1.2.1. Lịch sử hình thành của ngành dân số học.
Xã hội lồi người có hai dạng hoạt động sản xuất cơ bản: Một là: Sản xuất ra
của cải vật chất
Hai là: Tái sản xuất ra con người
Hoạt động tái sản xuất ra con người diễn ra trong từng gia đình, liên quan
đến mọi người, vì vậy lồi người khơng thể khơng nghiên cứu, khơng quan
tâm đến vấn đề này.
Mặt khác, từ khi nhà nước xuất hiện, dân cư trở thành đối tượng quản lý
đối tượng cai trị của nó, do vậy việc thống kê dân số, tư duy về dân số ngày
càng phát triển.
ở Trung Quốc cách đây hơn 4000 năm, nhờ quan sát ghi chép người ta
đã phát hiện ra số cháu trai chiếm khoảng 50% tổng số trẻ sơ sinh. Các nhà tư
tưởng cổ đại như Khổng Tử (551-479 TCN), Lão Tử (570-490 TCN), Platon
(528-347 TCN), Aristor (484-322 TCN)… đều đã phát triển quan điểm của
mình về vai trị của yếu tố dân số đối với sự phát triển của xã hội, quan hệ dân

số - đất đai, quy mô dân số hợp lý, chính sách dân số…[8]
Khổng Tử cho rằng: "Vi phạm dù là nhỏ nhất sự cân bằng lý tưởng giữa
đất đai - dân số sẽ dẫn đến hoặc là bỏ hoang đất đai, hoặc là khơng đủ sống",
cịn Lão Tử cho rằng :"Sẽ có hạnh phúc nếu quốc gia nhỏ bé, dân cư ít". Mạnh
mẽ hơn Platon khẳng định quy mô quốc gia bằng dân số thật ra phải chú ý


chất lượng hơn số lượng. ở một đoạn khác ông nhấn mạnh: "Cường quốc và
quốc gia đông dân không phải là một".
Dưới chế độ phong kiến người nông dân quan tâm hơn đến đồng ruộng, mỗi gia
đình là một đơn vị sản xuất cần thiết lao động. Chi phí ni trẻ ít lại sớm sử
dụng được sức lao động của trẻ nên họ đẻ nhiều là hợp lý. Về phía Nhà nước
phong kiến thì dân cư là nguồn bổ xung binh lính cho những cuộc chiến tranh,
bổ xung của cải để nuôi giai cấp thống trị và nhà nước phong kiến. Do vậy nhà
nước khuyến khích đẻ.[8]
Sự nảy sinh và phát triển của chủ nghĩa tư bản (CNTB), cuộc cách mạng công
nghiệp diễn ra vào nửa cuối thế kỷ XVIII cùng với sự xuất hiện của hệ thống
máy móc là nạn thất nghiệp trầm trọng, dân số tăng nhanh đạt 1 tỷ người
đầu tiên vào năm 1830. Bên cạnh đó là nạn di dân với quy mô lớn: Từ năm 1820
- 1914 có 31,1 triệu người di cư vào Mỹ… Tất cả hiện tượng đó đã lơi cuốn
mạnh mẽ sự chú ý của các nhà khoa học đến vấn đề dân số. Nhưng học thuyết
có tiếng vang lớn vào thế kỷ XVIII và đến tận bây giờ là học thuyết I.R Malthus
giáo sư sử học và kinh tế học người Anh theo đạo tin lành - Nội dung học thuyết
đã trả lời 3 vấn đề:
- Bản chất của quá trình dân số là sinh học chứ khơng mang tính xã hội.
- Nạn nhân khẩu thừa là tự nhiên, vĩnh cửu khơng thể bị xố bỏ.
- Đói nghèo có nguồn gốc là dân số tăng.
Theo Manthus: Dân số tăng theo cấp số nhân còn lương thực thực phẩm lại tăng
theo cấp số cộng.
Ơng rút ra hai định đề:

- Lồi người chỉ sung sướng khi giữ lại một lượng người nhất định.
- Lương thực, thực phẩm là muôn đời cần thiết cho con người như tình dục phải
giữa hai phái nam và nữ.
Để giải quyết lượng người dư theo Manthus nên dùng biện pháp tự nhiên:
nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh hoặc dùng biện pháp hành chính….


Học thuyết này đã bị Cacmac và Enghen phê phán. Tuy nhiên lần đầu tiên các
quan điểm dân số học đã được trình bày một cách có hệ thống.
Cùng với việc hình thành ngày càng đầy đủ, sâu sắc những tư tưởng về
dân số từ góc độ triết học, xã hội học, thành tựu về thống kê mơ hình hố các
quá trình dân số cũng thu được kết quả mới về chất so với giai đoạn trước.
Như vậy là ngay từ thế kỷ XVII và đặc biệt trong thế kỷ XVIII những tri thức
về dân số trên nhiều phương diện không những đã vượt qua giai đoạn thu thập
thông tin, giải quyết những vấn đề mà đã đạt được tới trình độ hệ thống hố.
Nội dung của khoa học về tái sản xuất dân số tích luỹ hàng ngàn năm đã
tương đối hoàn chỉnh vào cuối thế kỷ XVIII. Năm 1985 lần đầu tiên tên gọi
của mơn khoa học đó là Dân số học đã xuất hiện.
ở Việt Nam nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển dân số có ảnh
hưởng đến nền kinh tế quốc dân. Ngày 26/12/1961 Thủ tướng chính phủ đã
ra quyết định đầu tiên (Số 216/CP ngày 26/12/1961) về việc sinh đẻ có kế
hoạch, thể hiện sự sớm quan tâm của Đảng và nhà nước ta tới vấn đề dân số với
sự phát triển của đất nước và chủ trương rất sớm của nhà nước khi đề ra chương
trình dân số - KHHGĐ.[9]
Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được cũng như ý nghĩa và tầm quan
trọng của vấn đề này. Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định 326/TTg ngày
19/5/1977 lấy ngày 26/12 hàng năm là ngày dân số Việt Nam.[9]
1.2.2. Hậu quả của sự tăng dân số quá nhanh.[12]

10



Dân số tăng quá nhanh

Kinh tế, văn hóa kém phát triển

Dư thừa lao động

Tệ nạn xã hội tăng rối loạn trật tự an ninh
Năng xuất lao động thấp

Mức sống thấp

Bệnh tật nhiều

Sức khoẻ thể lực kém

* Gia tăng dân số và thu nhập bình quân đầu người.
Ta thấy ở các nước phát triển có GDP: 10.000 USD/người/năm
ở các nước đang phát triển có GDP: 1.000 USD/người/năm, ở Việt Nam là
240USD/người/năm.
Sở dĩ như vậy vì các nước phát triển người dân phải chi tới 70% thu
nhập cho việc ăn ở, học hành.
Tuy vậy GDP chỉ mang tính chất ước lệ vì Việt nam có nền kinh tế tự cung tự
cấp. Vì dân số tăng cao nên các nước bị nợ đầu tư để khắc phục tình trạng tăng
dân số.
- Năm 1995 số nợ các nước đang phát triển là 1500 tỷ USD.
Có những nước khơng đủ khả năng để trả nợ. Sự khủng hoảng kinh tế ở châu á
trong thời gian qua đã giúp chúng ta chứng minh điều đó.
Gần đây, Sharon L. Camp và J Joseph Speidel (1987) đã đưa ra chỉ số về

11


sự nghèo khổ cho các nước dựa trên 10 chỉ tiêu về phúc lợi của con người. Khi
so sánh chỉ số này với mức tăng dân số hàng năm, người ta thấy có quan hệ
tương quan chặt chẽ giữa chúng.

12


Các số liệu cho thấy.
- 30 nước có mức nghèo khổ nhất đều thuộc châu Phi và châu á với
RNI = 2,8%.
- 27 nước có mức nghèo khổ thấp nhất đều thuộc về châu Âu, Bắc Mỹ với
RNI=0,4%.
* Gia tăng dân số và lương thực, thực phẩm
Đây là nhu cầu không thể thiếu của con người thể hiện ở số lượng và chất
lượng. Nhu cầu năng lượng cần cung cấp cho cơ thể con người hàng ngày và
khả năng đáp ứng ở từng nước khác nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
Trình độ sản xuất của xã hội, năng lực lao động của từng người, quy mơ gia
đình và sự phát triển dân số.
- Trên thế giới: Theo FAO nếu RNI tăng thêm 10% thì lương thực, thực phẩm
phải tăng 3 lần mới đủ duy trì sản xuất, có quỹ an tồn thực phẩm. Trung
bình trên thế giới hàng năm sản xuất là 1,7 tỷ tấn lương thực/6 tỷ người
= 300 kg/người. Mỗi quốc gia coi là an toàn thực phẩm khi có bình
qn/người = 300 kg/người trở lên.
RNI của thế giới là 1,4% dân số tăng mỗi năm là 77 triệu người nên
mỗi năm thế giới phải sản xuất thêm 25 triệu tấn lương thực mới đủ đảm bảo
cho cuộc sống.
- ở Việt Nam

Việt Nam đã đạt được an toàn lương thực, thực phẩm. Hiện nay mỗi năm
nước ta sản xuất được khoảng 40 triệu tấn lương thực và đứng đầu thế giới
về xuất khẩu gạo. Tuy nhiên ở Việt Nam điều kiện sống quá chênh lệch giữa
thành thị và nông thôn. Đời sống của nông dân quá nhọc nhằn. Theo điều tra
mới đây nhất nông thôn vẫn là nơi có tỷ lệ phụ nữ và trẻ em suy dinh
dưỡng cao nhất. Gần 20% số hộ nơng thơn có mức ăn <2000 calo/ngày.


Tóm lại 1/3 số người trên trái đất đói ăn trong đó có 500 triệu người đói thường
xuyên. Đói ăn, suy dinh dưỡng làm sức khoẻ kém, bệnh tật nhiều, tuổi thọ trung
bình thấp…
Nếu RNI vẫn tiếp tục tăng thì bình qn lương thực thực phẩm sẽ khơng
đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
* Gia tăng dân số và công ăn việc làm
Thất nghiệp do nhiều nguyên nhân, song chủ yếu là dân số tăng quá
nhanh. Việt Nam là nước có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất châu á. Theo kết quả
điều tra mới đây nhất nước ta có khoảng 30 triệu người trong lứa tuổi lao động
nhưng một nửa chưa có việc làm.
Hiện cịn 2,4 triệu người thất nghiệp, 6 triệu lao động nông thôn thiếu
việc làm. Bên cạnh đó mỗi năm có từ 1,2 đến 1,5 triệu người đến tuổi lao
động, đó là sức ép khá căng thẳng và bức xúc.
* Gia tăng dân số và giáo dục
Giáo dục là một trong những chỉ số cơ bản nói lên chất lượng cuộc sống.
Trình độ học vấn là điều rất quan trọng để con người phát triển toàn diện, dễ
thích ứng với điều kiện phát triển của cả xã hội và khoa học kỹ thuật.
Tác động tiêu cực của phát triển dân số nhanh đến giáo dục thể hiện ở khía cạnh
- Tăng dân số khơng cân đối với tỷ lệ phát triển của nền khoa học kỹ thuật
của đất nước. Xã hội khơng có khả năng đầu tư thích đáng cho giáo dục nên tình
trạng dân trí thấp.
+ ở những nước phát triển: Chi phí đầu tư cho giáo dục từ 5-7% GNP

+ ở những nước đang phát triển: Chi phí đầu tư cho giáo dục chỉ
khoảng 3% GNP.
Dân số tăng nhanh ảnh hưởng đến giáo dục cả về chất lượng. Trên thế giới hiện
nay có 26,8% số dân từ 18 tuổi trở lên mù chữ. Các nước đang phát triển có số
dân trên 15 tuổi chiếm 36,9 % số người mù chữ tập trung chủ yếu


ở châu Phi, châu á. Nếu không đáp ứng nhu cầu cần thiết cho giáo dục, một
bộ phận lớn thanh thiếu niên không đến trường sẽ là nguồn gốc cho tệ nạn xã
hội dẫn đến suy vong nền văn hoá của dân tộc.
* Gia tăng dân số và môi trường sống.
Hiện nay dân số tăng hơn 6 tỷ người đã trở nên quá tải với khả năng cung
ứng của môi trường tự nhiên. Con người phải khai thác tự nhiên để phục vụ
cho cuộc sống hàng ngày tạo ra chất thải ngày một nhiều. Thơng qua hoạt
động của mình con người đã làm cho môi trường sống bị ô nhiễm nặng nề.
Trong quá trình sản xuất lương thực, thực phẩm con người đã làm giảm đi sự
đa dạng sinh học, dẫn đến mất cân bằng sinh thái. RNI càng tăng ô nhiễm môi
trường càng nhiều.
Dân số tăng quá nhanh nhu cầu về nhà ở, nhu cầu về các cơng trình công
cộng như trường học, bệnh viện cũng tăng theo dẫn đến lấn chiếm đất trồng trọt
làm cho diện tích đất canh tác giảm. ở nước ta có RNI cao nên diện tích nhà ở
bình qn theo đầu người chỉ đạt 4,42m2, ước tính khoảng 1/3 số dân đang
ở mức 2,2m2/người. ở nơng thơn diện tích nhà ở rộng hơn là
9 m 2 /người nhưng chất lượng nhà ở thấp, có đến 40% số hộ gia đình phải ở nhà
tạm, thiếu các điều kiện sinh hoạt tối thiểu. Tất cả các điều kiện nói trên đã
ảnh hưởng đến cuộc sống của nhân dân thành thị cũng như nơng thơn. Thêm
vào đó hệ thống cống rãnh, rác thải, bụi bẩn làm cho môi trường sống bị ô nhiễm
nặng nề.
2. Cơ sở khoa học của việc tích hợp giáo dục dân số vào giảng dạy kiến
thức di truyền.

Giáo dục dân số (population education) là quá trình phát triển nhận thức
và hiểu biết về tình hình phát triển nhận thức và hiểu biết về tình hình dân số,
thái độ, hành vi hợp lý đối với những tình huống để có được cuộc sống có chất
lượng đối với mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng, dân tộc và thế giới.


Việc nghiên cứu dân số và giáo dục dân số có sự tham gia của nhiều mơn
khoa học. Đối với việc tích hợp giáo dục dân số, Bộ giáo dục và đào tạo
đã đưa vào thí điểm trong năm bộ môn học ở trường phổ thông: Sinh học, địa
lý, giáo dục cơng dân, văn học, và hoạt động ngồi giờ lên lớp. Trong đó bộ
mơn sinh học chứa đựng những vấn đề gần gũi với giáo dục dân số. Đặc biệt
là di truyền học đóng vai trị quan trọng. Hiện nay, những tư tưởng lạc hậu
trong mọi tầng lớp nhân dân vẫn chưa được xố bỏ. Một số ít vẫn cịn quan
niệm "trọng nam, khinh nữ" vì mục đích "kiếm mụn con trai" mà có những
cặp vợ chồng sinh rất nhiều con, bỏ qua chính sách của Đảng và Nhà nước,
bất chấp hậu quả về kinh tế và chất lượng cuộc sống. Vì vậy, vấn đề chủ động
sinh con trai hay con gái theo ý muốn là một vấn đề hợp với nguyện vọng của
nhiều người. Có thể nói di truyền học có khả năng giúp chủ động sinh con trai
hay con gái theo ý muốn. Tuy nhiên cuộc vận động kế hoạch hóa gia đình vẫn
phải làm thay đổi tâm lý xã hội "coi trọng con trai" nếu không thì quy mơ gia
đình 1-2 con sẽ làm thay đổi tương quan giới tính cấu trúc dân số.
Theo các nhà di truyền học thế giới, nếu tương quan này thay đổi trong trẻ sơ
sinh tới mức 15-20% sẽ đe doạ khả năng duy trì nịi giống.
ở nhiều quốc gia đã ban hành xắc lệnh nghiêm cấm việc xác định giới tính
của thai nhi trong những tuần đầu mang thai.
Trên cơ sở những thành tựu về di truyền học đã hình thành chuẩn đoán
gọi là di truyền y học tư vấn. Di truyền y học tư vấn giúp người nghi ngờ mình
ở trạng thái dị hợp tử đối với một số bệnh di truyền, tự giải quyết một số câu
hỏi: Tại sao không nên kết hôn gần? Tại sao không nên sinh nhiều con và tuổi
sinh đẻ liên quan đến vấn đề di truyền như thế nào?

Di truyền học và vấn đề tư vấn hôn nhân mấy năm gần đây cho chúng ta những
lời khuyên về mặt di truyền học khi quyết định hơn nhân, sinh đẻ nhằm dự đốn,
đề phịng, ngăn ngừa khả năng xuất hiện một số bệnh tật di truyền bẩm sinh
và góp một phần nào đó phương hướng điều trị. Di truyền học đã chỉ


rõ hậu quả của việc kết hôn gần là làm cho các đột biến lặn có hại được biểu
hiện trên cơ thể đồng hợp. Theo một số nghiên cứu ở Hoa Kỳ trên 2778 đứa
trẻ của các cặp kết hôn gần thì tỷ lệ chết là 22,9% tỷ lệ này mắc bệnh di
truyền là 16,5%. Điều này chứng tỏ luật hơn nhân và gia đình cấm kết hơn
gần là hồn tồn hợp lý.
Ngày nay đã biết ở người có khoảng 2.500 bệnh di truyền.Bằng cách chọc ối
lấy máu xét nghiệm khi bào thai cịn trong bụng mẹ có thể chuẩn đốn
đựơc giới tính và kiểm tra bộ NST về số lượng cấu trúc và tỷ lệ các chất trao
đổi để qua đó biết đựơc phơi bình thường hay mắc bệnh.
Bằng phương pháp này đã có thể xác định hơn 100 bất thường về gen và NST ở
người, qua đó quyết định để thai phát triển hoặc phá bỏ. Nếu bệnh di truyền
thuộc loại có nhiều tác hại thì y học sẽ giúp phát hiện những người dị hợp
mang gen bệnh, khuyên họ không nên kết hôn để hạn chế lan truyền gen bệnh,
hoặc chọn đối tượng kết hôn trong những gia đình khơng có gen đó. Nếu
người mang gen bệnh đã kết hơn thì giúp họ dự đốn khả năng mắc bệnh của
những đứa con của họ.
Ngoài ra di truyền học cịn giải thích được tại sao khơng nên sinh con khi tuổi
đã cao, không nên sinh nhiều con và khoảng cách giữa hai lần sinh không gần
nhau. Đồng thời cũng khơng nên sinh con khi tuổi cịn ít (cơ thể chưa phát
triển hoàn chỉnh). Liên hệ với chủ trương phụ nữ nên sinh con đầu lòng từ 22
tuổi, mỗi cặp vợ chồng chỉ có từ 1-2 con, cách nhau giữa hai lần sinh là 5
năm. Ví dụ hội chứng Down cho biết tỷ lệ xuất hiện bệnh này ở con tăng lên với
tuổi của mẹ. Điều đó chứng tỏ khi tuổi đã cao thì sinh lý tế bào dễ bị rối loạn. Vì
vậy khơng nên sinh con khi tuổi đã cao. Không chỉ thể 3 nhiễm ở NST số 21

gây hội chứng Down liên quan tới tuổi của mẹ mà thể 3 nhiễm ở NST số 18
cũng thường thấy ở các con của những bà mẹ lớn tuổi. Di truyền học tư vấn
cho những lời khuyên trong kết hôn và sinh đẻ để đề phòng và hạn chế các hậu
quả xấu do rối loạn di truyền. Bên cạnh đó, dựa vào các định luật


di truyền người ta có thể dự đốn đựơc khả năng biểu hiện các bệnh di truyền
do đột biến lặn. Tuy nhiên tác hại của các đột biến sinh ra cũng khơng phải là
tuyệt đối, đột biến có hại trong điều kiện này nhưng có thể có lợi trong điều
kiện khác. Cụ thể, trong khi các cơ thể đồng hợp về gen chi phối bệnh tế bào
hồng cầu hình lưỡi liềm thường khơng sống được thì các cơ thể dị hợp về gen
ấy lại gặp nhiều ở các vùng có bệnh sốt rét. Nếu các cặp vợ chồng dị hợp với
gen này đẻ con thường chết mất 1/4 số con. Hiện tượng có nhiều đột biến ở
trạng thái dị hợp cũng giải thích cả sự lấy nhau cận huyết.
Như vậy, di truyền học và giáo dục dân số có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Do đó, trong giảng dạy kiến thức di truyền ở trường phổ thông cần phải
kết hợp giữa giảng dạy kiến thức với giáo dục dân số - KHHGĐ. Bởi vì dân số
khơng chỉ là số lượng dân số mà quan trọng là chất lượng dân số. Hơn nữa,
mục tiêu của giáo dục dân số là ngồi việc trang bị kiến thức cịn phải xây
dựng thái độ, hành vi cho học sinh. Hiệu quả của giáo dục dân số được thể
hiện ở sự chuyển biến của người học về thái độ, hành vi trước vấn đề dân số.
Sự chuyển biến này phải tự giác mới vững chắc, người học phải được thơng tin
đầy đủ về tình hình thực tế dân số, về cơ sở khoa học của các chủ trương,
chính sách dân số mơi trường. Trên cơ sở đó được gợi mở, tranh luận để tự lựa
chọn thái độ và quyết định hành vi hợp lý.


Phần 2
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu


2.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Kiến thức di truyền liên quan đến giáo dục dân số và kế hoạch hóa gia
đình.
- Phương pháp tính hợp giáo dục dân số vào dạy học kiến thức di
truyền
ở trường THPT.
- Học sinh 12A1 và 12A6 của Trường THPT Việt Trì - tỉnh Phú Thọ.
2.2. Phương pháp nghiên cứu:
2.2.1. Lý thuyết
- Thu thập các tài liệu về di truyền học liên quan đến giáo dục dân số và
kế hoạch hóa gia đình.
- Xây dựng phương pháp tích hợp giáo dục dân số và kế hoạch hóa gia
đình vào giảng dạy kiến thức di truyền.
2.2.2. Thực nghiệm sư phạm
- Tiến hành giảng dạy bài: " Phương pháp nghiên cứu di truyền người và ứng
dụng trong y học" có tích hợp giáo dục dân số - di truyền sinh học lớp 12 tại
lớp 12A3 và 12A6 của trường THPT Việt Trì - Phú Thọ.
- Xây dựng 10 câu hỏi trắc nghiệm MCQ để kiểm tra khả năng nhận


thức, tiếp thu kiến thức liên quan đến giáo dục dân số sau khi học xong bài
Phương pháp nghiên cứu di truyền người và ứng dụng trong y học" có tích hợp
giáo dục dân số - di truyền sinh học lớp 12.


Phần 3
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
1. Các thành phần kiến thức di truyền để giáo dục dân số và kế hoạch
hóa gia đình trong trường THPT:
1.1. Kiến thức về vật chất di truyền

1.1.1. Mối liên hệ giữa gen - prơtêin - tính trạng - kiểu hình
Vật chất di truyền của tế bào có chức năng điều khiển tổng hợp prơtêin, prơtêin
biểu hiện thành tính trạng của cơ thể. Nhưng bản thân ADN (gen) không
phải là khuôn trực tiếp để tổng hợp prôtêin. Thông tin di truyền của ADN
trước hết được chuyển sang các phân tử ARN trong quá trình phiên mã. Khn
mARN sau đó được sản sinh ra các axitamin xếp theo một trình tự xác
định trên phân tử prơtêin trong q trình dịch mã. Mối quan hệ ADN và
prôtêin:
ADN

Prôtêin
phie 
dic
nma  
hma
ARN


Mối liên hệ này đảm bảo cho prơtêin giữ vững cấu trúc đặc thù của nó theo đúng
mẫu đã được quy định trong ADN (gen). Đây là cơ chế của hiện tượng di truyền
ở cấp độ phân tử.
Song song với việc giảng dạy cần tích hợp những nội dung giáo dục dân số và
kế hoạch hóa gia đình như sau:
Bố mẹ khơng truyền cho con những tính trạng đã hình thành sẵn có mà truyền
một hệ gen trên ADN quy định sự tổng hợp prôtêin đặc thù tạo nên những
tính trạng. Chính vì vậy, khi người phụ nữ có thai nên đi khám và xét nghiệm
ngay trong mấy tuần đầu sau khi thụ thai để có cách xử lý thích hợp. Trường
hợp bệnh di truyền có nhiều tác hại, nếu người mang gen bệnh ở trạng thái dị
hợp tử thì khơng nên kết hơn để hạn chế lan truyền gen bệnh hoặc chọn
đối tượng kết hôn trong những gia đình khơng có bệnh đó.

1.1.2. Mối liên hệ giữa tái bản nhiễm sắc thể - nguyên phân - giảm phân - thụ
tinh.


Nhiễm sắc thể là vật chất di truyền ở cấp độ tế bào. Nhiễm sắc thể chứa thông
tin di truyền đặc trưng cho loài, được ổn định qua các thế hệ nhờ các cơ chế sinh
học chặt chẽ, qua các quá trình: nguyên phân, giảm phân, thụ tinh. Các quá
trình đó đảm bảo cho bộ nhiễm sắc thể của lồi được duy trì từ thế hệ này sang
thế hệ khác.
- Vật chất di truyền của hợp tử là tổ hợp một nửa vật chất di truyền từ mẹ và
một nửa vật chất di truyền từ bố. Như vậy khi bố mẹ mang gen bệnh sẽ truyền
lại cho con những gen bệnh đó.
Do vậy giáo viên cần phải giải thích cho học sinh: Do bộ nhiễm sắc thể
của con là tổ hợp bộ nhiễm sắc thể của cả bố và mẹ nên con cái mang nhiều
đặc điểm giống bố và mẹ.
1.2. Kiến thức về quy luật di truyền.
- Ngoài việc cung cấp cho học sinh hiểu rõ cơ chế và các quy luật di truyền của
Menđen và sau Menđen. Giáo viên cần phải cho học sinh thấy
được sự di truyền của các gen lây bệnh bằng cách vận dụng các quy luật di
truyền.
Bên cạnh việc thông báo cho học sinh biết: Các tính trạng di truyền của gen có
thể nằm trên nhiễm sắc thể thường hoặc nằm trên nhiễm sắc thể giới tính.
Giáo viên cần cho học sinh biết - ngày nay đã phát hiện ra 2.500 bệnh di truyền.
Các quy luật và cơ chế cơ bản về sự di truyền cũng như biểu hiện của
các gen ra kiểu hình là đặc điểm cho sinh giới nói chung và lồi người nói
riêng.
Tuy nhiên, nếu như các lồi sinh vật mà người ta quan tâm đến yêu cầu về sự
di truyền và biểu hiện của một số gen quy định các tính trạng của vật nuôi
cây trồng nhằm nâng cao năng suất, chất lượng thu hoạch thì đối với lồi người
điều quan tâm nhất là quy luật và cơ chế di truyền các tính trạng bất thường, di

tật, các bệnh di truyền.

20


1.2.1. Các bệnh tật do gen quy định nằm trên nhiễm sắc thể thường.
Nếu các bệnh di truyền nằm trên nhiễm sắc thể thường thì cả nam và nữ
đều có khả năng mắc bệnh như nhau và có vai trị như nhau trong việc truyền
gen bệnh cho con cháu của họ.
* Các bệnh tật do gen trội quy định nằm trên nhiễm sắc thể thường
Các bệnh tật di truyền do gen trội nằm trên nhiễm sắc thể thường do 1 gen
trội. Thực tế ở quần thể người, nếu gặp bố hoặc mẹ mang gen bệnh ở trạng
thái dị hợp tử, còn người kia là đồng hợp tử về gen lành, thì một nửa số con
sinh ra sẽ mắc bệnh:
P
:
Aa(bệnh) x
aa(lành)
GP

:

A, a

F1

:

1Aa


(bệnh)

a
:

1aa

(lành)

- Nếu cặp vợ chồng dị hợp tử về gen gây bệnh thì 3/4 số con sẽ mắc
bệnh:
Sơ đồ:
F1
benh

:

P

:

Aa(bệnh)

x

Aa(lành)

 :1aa
1AA : 2 Aa


lanh

Những người bị mắc bệnh nếu sinh con thì nguy cơ bị mắc bệnh của con cái
họ sẽ rất cao. Do vậy những người mắc bệnh không nên kết hôn và sinh con.
* Các bệnh và tật di truyền do gen lặn nằm trên nhiễm sắc thể thường:
Theo Mc. Kusick (1985) con người đã phát hiện 1321 bệnh di truyền lặn theo
kiểu Menden do gen lặn trên nhiễm sắc thể thường quy định, trong đó có 611
bệnh tật và tính trạng đã xác định.
Trong quần thể người, đối với bệnh tật di truyền lặn nếu cả bố và mẹ
21


đều mang gen bệnh ở trạng thái dị hợp tử thì thế hệ con của họ sẽ mắc bệnh
theo sơ đồ sau:

22


P

:

F1

:

Aa(lành)

x


Aa(lành)
1

AA
:
lan
h

2 Aa
: 1aa
lanhnhung benh
manggenbe
nh

Trong số con cái sinh ra, xác suất người bị bệnh là 1/4 còn 3/4 số người con
không mắc bệnh, nhưng trong số 3/4 người lành bệnh có 2/3 số người lành bệnh
nhưng mang gen gây bệnh.
Xác xuất biểu hiện bệnh như nhau ở cả nam và nữ.
Trong quần thể khả năng biểu hiện các bệnh, tật di truyền do đột biến lặn
thường gặp ở hai người dị hợp tử kết hôn với nhau. Chẳng hạn bệnh bạch tạng
(tóc và lơng trắng, mắt hồng), do đột biến lặn nhiễm sắc thể thường làm mất khả
năng tổng hợp sắc tố Melanin. Nếu bố và mẹ đều di hợp tử về gen này thì xác
xuất bị bệnh ở con là 25%.
Theo thống kê, số người mang gen lặn lớn hơn số người mắc bệnh rất
nhiều. Những người dị hợp tử về gen gây bệnh vẫn khỏe mạnh và có khả năng
kết hôn làm gen bệnh lặn sẽ phát tán rộng rãi trong dòng họ và trong quần thể.
Sự kết hôn đồng huyết sẽ làm tăng khả năng đẻ con mắc bệnh và tăng số
người mắc bệnh trong quần thể vì các gen lặn di truyền tiềm ẩn sinh ra con bị
bệnh. Chính vì vậy, đối với các bệnh di truyền lặn thì tránh kết hơn cùng dịng
họ.

1.2.2. Di truyền liên kết giới tính.
Di truyền liên kết giới tính là hiện tượng các bệnh và tật do gen quy
định nằm trên nhiễm sắc thể X hoặc nằm trên nhiễm sắc thể Y. Tuy nhiên, khi
nói về gen liên kết với giới tính thì chủ yếu nói về các gen liên kết trên nhiễm
sắc thể X vì nhiễm sắc thể này có kích thước lớn mang nhiều gen cịn nhiễm
sắc thể Y rất ngắn và mang rất ít gen. Nhiễm sắc thể X ngồi việc mang các
gen kiểm sốt giới tính nó cịn chứa đựng gen kiểm sốt tính trạng khác khơng
thuộc về giới tính. Đến nay gần 300 bệnh và tính trạng liên kết giới tính đã
được phát hiện. Tất cả các tính trạng và bệnh tật di truyền liên kết với nhiễm


sắc thể Y (trội và lặn) là khơng có sự di truyền từ nam sang nam, vì con trai
ln nhận nhiễm sắc thể Y từ bố.
Bố và mẹ có vai trò khác nhau trong sự di truyền gen bệnh vào bệnh cho
con thuộc nam và nữ giới, gen bệnh trên nhiễm sắc thể X từ bố chỉ di truyền
cho con gái. Con trai bị bệnh nhận nhiễm sắc thể X của mẹ khi người mẹ
mang gen gây bệnh.
Trong trường hợp bố lành và mẹ lành nhưng mang gen bệnh có thể sinh ra các
con theo tỷ lệ: một con gái lành, 1con gái lành nhưng mang gen bệnh, 1 con trai
lành, 1 con trai bệnh.
Sơ đồ:
P
:
♂ XAY (lành)
x
♀XAXa (lành) F1
:
1♀XAXA
1♀XAXa
1♂XAY


:
:
: 1♂XaY

Con gái lành
Con gái lành mang
gen bệnh

Con trai lành
bệnh

Con trai

- Trường hợp: Bố bệnh và mẹ lành nhưng có mang gen bệnh thì sinh ra con có
tỷ lệ: 1 con gái lành mang gen bệnh, 1 con gái bệnh, 1 con trai lành, 1 con trai
bệnh.
Sơ đồ lai:
P

:
1♀XAXa
1♀XaXa
1♂XAY

♂ XaY (bệnh)

x

♀XAXa (lành) F1


:

:
:
: 1♂XaY

Con gái
lành có
gen
bệnh

Con gái bệnh
Con trai bệnh

Con trai lành


×