Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

“Định hướng phát triển nông nghiệp hàng hoá tại huyện Sơn Động Bắc Giang trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế ”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.97 KB, 85 trang )

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong báo cáo này
là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện báo cáo này đã
được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong báo cáo đã được chỉ rõ nguồn
gốc.
Ngày 10 tháng 12 năm 2018
Người cam đoan

Nguyễn Thị Thơ

2


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành báo cáo thực tập này em xin chân thành cảm ơn toàn
thể các thầy, cô khoa kinh tế - tài chính, Trường Đại nông lâm Bắc Giang
đã nhiệt tình truyền đạt cho em những kiến thức cơ bản quí báu về các
mặt chuyên môn cũng như về mặt xã hội để giúp em ngày càng hoàn thiện
bản thân và vững vàng hơn trong công tác.
Để hoàn thành được chuyên đề này, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân.
Đặc biệt với sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc em xin chân thành cảm ơn
PGS.TS. Nguyễn Quang Hà hiệu trưởng trường Đại học Nông lâm Bắc
Giang người đã định hướng, chỉ bảo và hết lòng dìu dắt cho em trong suốt quá
trình thực hiện đề tài này. Em xin bày tỏ lòng biết ơn đến các đồng chí lãnh
đạo huyện Sơn Động, các đồng chí lãnh đạo Đảng ủy, UBND xã An Châu,
bạn bè, đồng nghiệp đã tận tình giúp đỡ, cổ vũ và tạo điều kiện cho em được
hoàn thành báo cáo thực tập tốt nghiệp.


Nếu không có những sự giúp đỡ này thì chỉ với sự cố gắng của bản thân
em sẽ không thu được kết quả như mong đợi.
Xin trân thành cảm ơn /
An Châu, ngày 10 tháng 12 năm 2018
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Thơ

3


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC BIỂU BẢNG- ĐỒ THỊ
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT, KỲ HIỆU
1. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
* Mục tiêu chung
* Mục tiêu cụ thể
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài
4. Kết cấu báo cáo
CHƯỢNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA

2
3

4- 5
6
7
8
8
10
10
10
11
11
11
11
11

PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HÀNG HOÁ TẠI HUYỆN
SƠN ĐỘNG
1. Cơ sở lý luận
1.1. Cơ sở lý luận về vông nghiệp
1.2. Cơ sở lý luận về nông nghiệp hàng hoá
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Phát triển nông nghiệp của một số nước trên thế giới
2.2. Phát triển nông nghiệp của Việt Nam
CHƯỢNG 2: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG

12
12
17
25
25
39

46

PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
I. Điều kiện tự nhiên
1. Vị trí địa lý
2. Đặc điểm khí hậu
3. Đặc điểm địa hình
4. Thuỷ văn
5. Tiềm năng tài nguyên
5.1.Tài nguyên đất
5.2. Tài nguyên nước
5.3. Tài nguyên rừng
2.2.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
2.2. Phương pháp nghiên cứu
.2.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu
2.2.2. Phương pháp điều tra thu thập thông tin

46
46
46
46
46
48
48
49
49
50
50

51
55
55
55

4


2.2.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
3.2.4. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thực trạng phát triển nông nghiệp hàng hoá trên địa

57
58
60
60

bàn huyện Sơn Động qua 3 năm 2015- 2017
3.1.1. Thực trạng phát triển nông nghiệp hàng hoá trên địa bàn

60

huyện Sơn Động
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
* Kết luận
*. Kiến nghị

81
81

82

DANH MỤC BIỂU BẢNG - ĐỒ THỊ
STT

Tên bảng biểu

Trang

Bảng 4.1

Tình hình kinh tế huyện Sơn Động qua 3 năm (2015 –
2017)

54

Bảng 4.2

Bảng tình hình nhân khẩu của huyện Sơn Động qua 3
năm (2015 – 2017)

55

Bảng 4.3

Giá trị sản xuất và tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất

63

Bảng 4.4


Hiện trạng diện tích, năng suất, sản lượng đất lúa
huyện Sơn Động

65

Bảng 4.5

Hiện trạng diện tích, năng suất, sản lượng đất lạc huyện
Sơn Động

67

Bảng 4.6

Hiện trạng diện tích, năng suất, sản lượng đất ngô
huyện Sơn Động

67

Bảng 4.7

Tình hình phân bổ cây công nghiệp trên các xã điều tra

68

Bảng 4.8

Diện tích năng suất, sản lượng cây ăn quả và cây chè.


69

Bảng 4.9

Tình hình phân bổ cây Vải, cây chè trên các xã điều tra.

70

Bảng 4.10 Diện tích năng suất, sản lượng cây thực phẩm của
5

71


huyện
Bảng 4.11

Quy mô ngành chăn nuôi huyện Sơn Động

72

Bảng 4.12 Tình hình phân bổ đất đai của hộ điều tra

75

Đồ thị 4.1 Tình hình lao động của hộ nông dân ( cơ cấu %)

76

Đồ thị 4.2 Cơ cấu đất đai huyện năm 2015, 2017


77

Đồ thị 4.3 Cơ cấu đất sản xuất của huyện năm 2017.

78

DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
GDP

Thu nhập bình quân

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

PGS.TS

Phó Giáo sư tiến sĩ

NN & PTNT

Nông nghiệp và phát triển nông thôn

TN&MT

Tài Nguyên và Môi trường

GS.TS


Giáo sư, tiễn sỹ

TS

Thạc sỹ

WTO

Tổ chức thương mại quốc tế

GAP

Nông nghiệp an toàn, nông nghiệp tốt

GMO

Nguồn gốc giống

USD

Đồng đô la

HĐH

Hệ điều hành

HTX

Hợp tác xã


DTTS

Dân tộc thiểu số

6


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng trong quá trình phát triển
của mỗi Quốc gia. Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp
lạc hậu, Khoảng 70% dân số nước ta đang sống ở khu vực nông thôn, lao
động nông thôn hiện chiếm 75% tổng lực lượng lao động cả nước (Tổng cục
thông kê năm 2009) . Vì vậy, phát triển nông nghiệp - nông thôn là vấn đề
có tầm chiến lược quan trọng cả về kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường
sinh thái.
Sau hơn hai mươi năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo, đất nước ta đạt được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa rất
quan trọng, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội; nền kinh tế
liên tục phát triển, đạt được mức tăng trưởng cao, đời sống nhân dân được cải
thiện. Trong sự chuyển biến tích cực chung đó, có sự chuyển biến rõ nét của
nông nghiệp và nông thôn; từ chỗ thiếu lương thực phải nhập khẩu, đến nay
nước ta đảm bảo được an toàn, an ninh lương thực, sản phẩm nông nghiệp ngày
càng đa dạng và phong phú, đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của xã hội và xuất
7


khẩu...
Tuy nhiên trong nông nghiệp - nông thôn nước ta hiện nay vẫn còn nhiều
vấn đề tồn tại cần phải được giải quyết. Đó là sản xuất nông nghiệp vẫn chưa

bền vững còn phân tán và tự phát, bình quân ruộng đất ở Việt Nam khoảng
0,14 ha/đầu người, một hộ thường có 6-7 thửa ruộng nên đã cản trở rất lớn
việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật, giống mới và phát triển sản xuất hàng
hoá. (Báo Cáo “Chương trình hỗ trợ Ngành nông nghiệp”, ASPS, 2007).
Cơ cấu kinh tế nông nghiêp và nông thôn chuyển dịch chậm, chưa theo sát với
thị trường, giá trị nông nghiệp so với GDP cả nền kinh tế từ 26,62%
năm 1995 xuống 20,4% năm 2006; nhưng chuyển dịch cơ cấu lao động lại
hết sức chậm chễ, có tới hơn 70% dân số làm nông nghiệp và 78% dân số vẫn
sống dựa vào nghề nông.(Bốn hướng đột phá chính sách nông nghiệp, nông
thôn và nông dân trong giai đoạn hiện nay,PGS.TS Nguyễn Chí Mỳ ,TS.
Hoàng Xuân Nghĩa).
Trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay thì sản xuất nông
nghiệp theo hướng hàng hóa chất lượng cao, phát huy tốt lợi thế về đất đai,
lao động, ngành nghề gắn với huy động các nguồn khả năng đầu tư có trọng
tâm trọng điểm nhằm kiện toàn kết cấu hạ tầng nông thôn và các dịch vụ phục
vụ tốt sản xuất để từng bước nâng cao mức sống nông dân các vùng nông
thôn vùng sâu, vùng xa là chủ trương lơn của Đảng và nhà nước ta hiện nay.
Đối với Bắc Giang, từ một tỉnh thuần nông xuất phát điểm thấp, diện
tích tự nhiên không lớn 3.828 km²(Hiện trạng sử dụng đất phân theo địa
phương, Tính đến 01/01/2009,Tông cục thông kê) nhưng trong những năm
qua tỉnh luôn chú trọng phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa
và đã xây dựng được một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung. Ngoài vùng
cây ăn quả có quy mô lớn nhất miền Bắc khoảng 45 nghìn ha với sản phẩm
vải thiều được khách hàng trong và ngoài nước biết đến còn có các vùng sản
xuất quy mô nhỏ hơn là lúa, lạc, rau và chăn nuôi lợn, bò… Năm 2009, Diện
tích rau đậu các loại 23.329 ha, trong đó diện tích rau các loại 20.900 ha, sản
8


lượng đạt gần 300.000 tấn. Đáng chú ý, diện tích rau chế biến đạt trên 800 ha

(tăng 4 lần so năm 2005), năng suất 15,5 tạ/ha, sản lượng đạt gần 13.000 tấn.
Lĩnh vực chăn nuôi – thủy sản tiếp tục phát triển, chăn nuôi chiếm trên 46%
trong cơ cấu nông nghiệp, cao hơn bình quân chung cả nước (29%). Tổng đàn
lợn đạt 1,11 triệu con (đứng thứ 6 toàn quốc); tổng đàn gia cầm 14,4 triệu con
(đứng thứ 3 cả nước) tổng đàn bò trên 150,3 nghìn con.( Tình hình thực hiện
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và công tác kế hoạch năm 2009,Sở kế
hoặch và đầu tư Bắc Giang)
Sơn Động là huyện miền núi của tỉnh Bắc Giang, người dân chủ yếu
sống dựa vào sản xuất nông nghiệp chiếm 92,9%, trong những năm qua tình
hình sản xuất nông nghiệp của huyện đã có những chuyển biến tích cực, giá
trị và giá trị sản lượng nông nghiệp liên tục tăng, chủng loại cây trồng, vật
nuôi đa dạng hơn, cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ
trọng trồng trọt, trồng trọt giảm từ 58,27% năm 2010 xuống còn 55,0% năm
2015, sản phẩm ngành chăn nuôi tăng từ 22,07% năm 2010 lên 37,7% năm
2015, giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích đất nông nghiệp đạt 30 triệu đồng/
năm.(Báo cáo tình hình sản xuất nông nghiệp năm 2015, Phòng NN& PTNT
huyện Sơn Đông). Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp của huyện vẫn chưa thoát
khỏi tình trạng manh mún, nhỏ lẻ,bình quân 1,2 sào/khẩu, hệ số sử dụng
ruông đất mới chỉ đạt 1,02 lần,( hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp năm
2015,Phòng TN&MT huyện Sơn Động), chưa xác định được cây trồng mũi
nhọn năng, suất cây trồng, vật nuôi và năng suất lao động chưa cao,năm 2016
năng suất lúa mới chỉ đạt 42,2 tạ/ha, năng suất ngô đạt 32 ta/ha. Đứng trước
tình hình đó việc định hướng quy hoạch sản xuất nông nghiêp theo hương
hàng hóa, hình thành những vùng sản xuất tập trung, nông sản hàng hóa đáp
ứng cho nhu cầu của xã hội và nhân dân trong huyện đang đặt ra nhiều vấn đề
cần giải quyết. Xuất phát từ thực tế trên chúng tôi tiến hanh nghiên cứu đề tài:
“Định hướng phát triển nông nghiệp hàng hoá tại huyện Sơn Động- Bắc
Giang trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế ”
9



2. Mục tiêu nghiên cứu
* Mục tiêu chung:
Trên cơ sở nghiên cứu tình hình sản xuất nông nghiệp tại huyện đưa ra
định hướng phat triển nông nghiệp hàng hoá trong thời kì hội nhập kinh tế
quốc tế.
* Mục tiêu cụ thể:
Qua nghiên cứu có thể tra lời các câu hỏi sau:
-

Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội tại huyện ra sao?

- Tình hình phát triển sản xuất nông nghiệp tại huyện giai đoạn 2008- 2010
ra sao? Còn tồn tại những hạn chế nào? Nguyên nhân của những hạn chế đó?
- Đặc thù, thế mạnh và những tiềm năng của huyện để phát triển nông
nghiệp theo hướng hàng hóa trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế là gì?
- Định hướng phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hóa trong thời kì hội
nhập kinh tế quốc tế trên địa bàn huyện như thế nào ?
- Giải pháp thực hiện và những kết quả dự kiến khi thực hiện các định
hướng đó như thế nào?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Cây trồng vật nuôi, kinh tế, chính sách và các chủ thể kinh tế hoạt động
trên địa bàn huyện liên quan đến phát triển nông nghiệp của huyện
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Phạm vi nội dung: Thực trạng phát triển nông nghiệp hàng hoá trên địa
bàn huyện Sơn Động
Phạm vi không gian: Đề tài thực hiện trên địa bàn huyện SơnĐộng, tỉnh
Bắc Giang
- Phạm vi thời gian của số liệu: Nghiên cứu đề tài phát triển nông

nghiệp hàng hoá trên địa bàn huyện Sơn Động qua 3 năm ( 2015-2017)
-

Thời gian nghiên cứu đề tài: Từ ngày 01/10/2018 đến ngày

10/12/2018
10


4. Kết cấu báo cáo:
- Đề tài tiến hành nghiên cứu sự phát triển nông nghiệp hàng hoá
trên địa bàn huyện Sơn Động, tỉnh bắc Giang trong thời kỳ hội nhập kinh
tế quốc tế
- Đánh giá hiệu quả phát triển triển nông nghiệp hàng hoá trên địa bàn
huyện Sơn Động nhằm nâng cao nhận thức và hiểu biết về lĩnh vực nông lâm
nghiệp. Nâng cao năng lực, rèn luyện kĩ năng và phương pháp nghiên cứu cho
sinh viên để từ đó đưa ra các phương hướng và giải pháp nhằm phát triển để
nâng cao hiệu quả sản xuất trên địa bàn.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA PHÁT
TRIỂN NÔNG NGHIỆP HÀNG HOÁ TẠI HUYỆN SƠN ĐỘNG

TRONG THỜI KÌ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Cơ sở lý luận:
Hiện nay vẫn chưa có định nghĩa rõ ràng về thuật ngữ định hướng theo
từ điển tiếng việt thì “Định” có nghĩa là tự đặt ra cho mình việc gì đó sẽ làm
trong thời gian sắp tới, đưa ra một cách chính xác, rõ ràng, sau khi đã có
suy nghĩ, tìm hiểu, cân nhắc. “Hướng” có nghĩa là làm cho đi về một
phía,vào một muc tiêu nào đó.
Như vậy, thuật ngữ “Định hướng” có thể hiểu là việc đưa ra một hướng
đi, hướng vào một muc tiêu nhất định nào thông qua một quá trình nghiên cứu

nhất định.
Vậy, căn cứ để hình thành định hướng nói chung và định hướng nông
nghiệp nói riêng như thế nào chúng ta sẽ tìm hiểu điều này thông qua các cơ
sở sau:
1.1. Cơ sở lý luận về nông nghiệp.
- Khái niệm nông nghiệp: Nông nghiệp (agriculture) theo nghĩa hẹp
được hiểu là các hoạt động liên quan đến việc trồng cấy và đầu tư canh tác
trên đất nhằm mục đích sản xuất ra sản lượng lương thực, thực phẩm phục vụ

11


nhu cầu của con người. Như vậy đối tượng chính của của nông nghiệp theo
nghĩa hẹp chỉ bao gồm loại cây trồng được thuần hóa canh tác trên đất. Tuy
nhiên, ở nước ta khái niệm nông nghiệp thường được hiểu theo nghĩa rộng
hơn bao gồm: Nông lâm, ngư nghiệp, các hoạt động chăn nuôi (cattlebreeding) bao gồm cả nuôi trồng thủy sản. Vì thế đối tượng của nông nghiệp
được mở rộng sang cả các loại vật nuôi trên cạn và dưới nước. Các đối tượng
này là những sinh vật sống, tiến hóa trong lịch sử đa phần được con người
chọn lọc và cải tạo theo mục đích mà con người mong muốn. Khác với ngành
sản xuất khác, các đối tượng của ngành nông nghiệp cần phải được cấy và
phát triển trên đất trong điều kiện sinh trưởng phát triển của các quuy luật tự
nhiên. Vì thế mà nông nghiệp luôn gắn chặt với điều kiện về đất đai và khí
hậu thời tiết ở mỗi vùng, địa phương cụ thể.
- Những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp.
Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã
hội.Sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm riêng mà các ngành sản xuất
khác không thể có đó là:
1- Sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên địa bàn rộng lớn, phức tạp,
phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nên mang tính khu vực rõ rệt. Đặc biệt trên
cho thấy ở đâu có đất và lao động thì có thể tiến hành sản xuất nông nghiệp.

Thế nhưng ở mỗi vùng mỗi quốc gia có điều kiện đất đai và thời tiết - khí hậu
rất khác nhau. Lịch sử hình thành các loại đất, quá trình khai phá và sử dụng
các loại đất ở các địa bàn có địa hình khác nhau, ở đó diễn ra các hoạt động
nông nghiệp cũng không giống nhau. Điều kiện thời tiết khí hậu với
lượng mưa, nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng v.v... trên từng địa bàn gắn rất
chặt chẽ với điều kiện hình thành và sử dụng đất. Do điều kiện đất đai khí
hậu không giống nhau giữa các vùng đã làm cho nông nghiệp mang tính khu
vực rất rõ nét. Đặc điểm này đòi hỏi quá trình tổ chức chỉ đạo sản xuất nông
nghiệp cần phải chú ý các vấn đề kinh tế - kỹ thuật sau đây:
- Tiến hành điều tra các nguồn tài nguyên về nông - lâm - thuỷ sản trên
12


phạm vi cả nước cũng như tính vùng để qui hoạch bố trí sản xuất các cây
trồng,vật nuôi cho phù hợp.
- Việc xây dựng phương hướng sản xuất kinh doanh, cơ sở vật chất kỹ thuật
phải phù hợp với đặc điểm và yêu cầu sản xuất nông nghiệp ở từng vùng.
- Hệ thống các chính sách kinh tế phù hợp với điều kiện từng vùng, từng
khu vực nhất định.
2- Trong nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể
thay thế được. Đất đai là điều kiện cần thiết cho tất cả các ngành sản
xuất,nhưng nội dung kinh tế của nó lại rất khác nhau.Trong công nghiệp, giao
thông v.v... đất đai là cơ sở làm nền móng, trên đó xây dựng các nhà máy,
công xưởng, hệ thống đường giao thông v.v...để con người điều khiến các
máy móc, các phương tiện vận tải hoạt động.
Trong nông nghiệp, đất đai có nội dung kinh tế khác, nó là tư liệu sản
xuất chủ yếu không thể thay thế được. Ruộng đất bị giới hạn về mặt diện tích,
con người không thể tăng thê, theo ý muốn chủ quan, nhưng sức sản xuất
ruống đất là chưa có giới hạn, nghĩa là con người có thể khai thác chiều sâu
của ruộng đất nhằm thoả mãn nhu cầu tăng lên của loài người về nông sản

phẩm.Chính vì thế trong quá trình sử dụng phải biết quí trọng ruộng đất, sử
dụng tiết kiệm, hạn chế việc chuyển đất nông nghiệp sang xây dựng cơ bản,
tìm mọi biện pháp để cải tạo và bồi dưỡng đất làm cho ruộng đất ngày càng
màu mỡ hơn, sản xuất ra nhiều sản phẩm trên mỗi đơn vị diện tích với chi phí
thấp nhất trên đơn vị sản phẩm.
3- Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cơ thể sống - cây trồng và vật
nuôi. Các loại cây trồng và vật nuôi phát triển theo qui luật sinh học nhất định
(sinh trưởng, phát triển và diệt vong).Chúng rất nhạy cảm với yếu tố ngoại
cảnh, mọi sự thay đổi về điều kiện thời tiết, khí hậu đều tác động trực tiếp đến
sự phát triển của cây trồng, vật nuôi, đến kết quả thu hoạch sản phẩm cuối
cùng. Cây trồng và vật nuôi với tư cách là tư liệu sản xuất đặc biệt được sản
xuất trong bản thân nông nghiệp bằng cách sử dụng trực tiếp sản phẩm thu
13


được ở chu trình sản xuất trước làm tư liệu sản xuất cho chu trình sản xuất
sau. Để chất lượng giống cây trồng và vật nuôi tốt hơn, đòi hỏi phải thường
xuyên chọn lọc, bồi dưỡng giống hiện có, nhập nội những giống tốt,tiến hành
lai tạo để tạo ra những giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt thích hợp
với điều kiện từng vùng và từng địa phương.
4- Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao. Đó là nét đặc thù điển
hình nhất của sản xuất nông nghiệp, bởi vì một mặt sản xuất nông nghiệp là
quá trình tái sản xuất kinh tế xoắn xuýt với quá trình tái sản xuất tự nhiên,
thời gian hoạt động và thời gian sản xuất xen kẽ vào nhau, song lại không
hoàn toàn trùng hợp nhau, sinh ra tính thời vụ cao trong nông nghiệp. Tính
thời vụ trong nông nghiệp là vĩnh cửu không thể xoá bỏ được, trong quá trình
sản xuất chỉ tìm cách hạn chế nó. Mặt khác do sự biến thiên về điều kiện thời
tiết - khí hậu, mỗi loại cây trồng có sự thích ứng nhất định với điều kiện đó,
dẫn đến những mùa vụ khác nhau.Như vậy, tính thời vụ có tác động rất quan
trọng đối với nông dân. Tạo hoá đã cung cấp nhiều yếu tố đầu vào thiết yếu

cho nông nghiệp, như: ánh sáng, ôn độ, độ ẩm, lượng mưa, không khí. Lợi thế
tự nhiên đã ưu ái rất lớn cho con người, nếu biết lợi dụng hợp lý có thể sản
xuất ra những nông sản với chi phí thấp chất lượng. Để khai thác và lợi dụng
nhiều nhất tặng vật của thiên nhiên đối với nông nghiệp đòi hỏi phải thực hiện
nghiêm khắc những khâu công việc ở thời vụ tốt nhất như thời vụ gieo trồng,
bón phân, làm cỏ, tưới tiêu v.v... Việc thực hiện kịp thời vụ cũng dẫn đến tình
trạng căng thẳng về lao động đòi hỏi phải có giải pháp tổ chức lao
động hợp lý, cung ứng vật tư - kỹ thuật kịp thời, trang bị công cụ, máy móc
thích hợp, đồng thời phải coi trọng việc bố trí cây trồng hợp lý, phát
triển ngành nghề dịch vụ, tạo thêm việc làm ở những thời kỳ nồng nhàn.
- Phát triển nông nghiệp: thuật ngữ phát triển nông nghiệp được dùng
nhiều trong đời sống kinh tế và xã hội. Theo GS.TS Đỗ Kim Chung cho rằng:
“ phát triển nông nghiệp thể hiện quá trình thay đổi của nền nồng nghiệp ở
giai đoạn này so với giai đoạn trước đó và thương đạt ở mức độ cao hơn cả về
14


lượng và về chất.nền nông nghiệp phát triển là nền sản xuất vật chất không
những có nhiều hơn về đầu ra ( sản phẩm và dịch vụ) đa dạng hơn về chủng
loại và phù hợp hơn về cơ cấu, thích ứng hơn về tổ chức và thể chế, thỏa mãn
tốt hơn nhu cầu xã hội về nông nghiệp. Trước hết, phát triển nông nghiệp là
một quá trình, không phải trong trạng thái tĩnh. Quá trình thay đổi của nền
nông nghiệp chịu sự thay đổi của thị trường, chính sách can thiệp vào nền
nông nghiệp của Chính phủ, nhận thức và ứng sử của người sản xuất và người
tiêu dùng về các sản phẩm và dịch vụ tạo ra trong lĩnh vực nông nghiệp. Nền
nông nghiệp phát triển là kết quả của quá trình phát triển nông nghiệp.phát
triển nông nghiệp khác với tăng trưởng nông nghiệp: “ tăng trưởng nông
nghiệp chỉ thể hiện rằng ở thời điểm nào đó,nền nồng nghiệp có nhiều đầu ra
so với giai đoạn trước, chủ yếu phản ánh sự thay đổi về kinh tế tập trung nhiều
về mặt lượng. Tăng trưởng nông nghiệp thường được đo bằng mức tăng thu

nhập quốc dân trong nước của nông nghiệp, mức tăng về sản lượng và sản
phẩm nông nghiệp, số lượng diện tích, số vật nuôi. Trái lại, phát triển nông
nghiệp thể hiện cả về lượng và về chất. Phát triển nông nghiệp không những
bao hàm cả tăng trưởng mà còn phản ánh các thay đổi cơ bản trong cơ cấu của
nền nông nghiệp, sự thích ứng của nông nghiệp với hoàn cảnh mới, sự tham
gia của người dân trong quản lý và sử dụng nguồn lực, sự phân bổ của cải, tài
nguyên giưa các nhóm dân cư trong nội bộ nông nghiệp và giữa nông nghiệp
với các ngành kinh tế khác. Phát triển nông nghiệp còn bao hàm cả kinh tế, xã
hội, tổ chức, thể chế và môi trường. Tăng trưởng và phát triển nông nghiệp có
quan hệ với nhau. Tăng trưởng là điều kiện cho sự phát triển nông nghiệp, Tuy
nhiên, cần thấy rằng do chiến lược phát triển nông nghiệp chưa hợp lý mà có
tình trạng ở một cuốc gia có tăng trưởng nông nghiệp nhưng không có phát
triển nông nghiệp”.
-Phát triển nông nghiệp bền vững: Theo GS.TS Đỗ Kim Chung, GS.TS
Phạm Vân Đình,1997,cho rằng: “ Phát triển nông nghiệp bền vững là quá
trình quản lý và duy trì sự thay đổi về tổ chức, kĩ thuật và thể chế cho nông
15


nghiệp phát triển nhằm đảm bảo thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của con
người về nông phẩm và dịch vụ vừa đáp ứng nhu cầu của mai sau”. Sự phát
triển của nền nông nghiệp ( bao gồm cả lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản )
sẽ đảm bảo không tổn hại tới môi trường, không giảm cấp tài nguyên, sẽ phù
hợp về kĩ thuật và công nghệ, có hiệu quả về kinh tế và được chấp nhận về
mặt phương diện xã hội (FAO,1992).phát triển nông nghiệp bền vững là quá
trình đảm bảo hài hòa ba nhóm mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường, thỏa
mãn nhu cầu về nông nghiệp hiện tại mà không tổn hại đến khả năng đáp ứng
nhu cầu của tương lai.
Nông nghiệp bền vững là kết quả của quá trình phát triển nông nghiệp
bền vững. Nền nông nghiệp thỏa mãn được yêu cầu của thế hệ hiện tại, mà

không làm giảm khả năng thỏa mãn yêu cầu của thế hệ mai sau ( Định hướng
chiến lược phát triển bền vững ở việt nam, chương trình nghị sự 21, 2004).
Nền nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp phải đáp ứng được hai yêu cầu
cơ bản: Đảm bảo đáp nhu cầu hiện tại về nông sản và các dịch vụ liên quan và
duy trì được tài nguyên thiên nhiên cho các thế hệ mai sau( bao gồm gìn giữ
quý đất, nước, rừng, khí hậu và tính đa dạng sinh học…). Nông nghiệp bền
vững là phạm trù tổng hợp, vừa đảm bảo các yêu cầu về sinh thái, kĩ thuật,
vừa thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
1.2. Cơ sở lý luận về nông nghiệp hàng hóa.
Kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hóa, là hai hình thức kinh tế - xã hội đã
hình thành và tồn tại trong lịch sử nhân loại.hai hình thức này được hình
thành và phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, trình độ
phân cồng lao động xã hội, trình độ phát triển và phạm vi của quan hệ trao đổi
khác nhau.
Kiểu tổ chức kinh tế đầu tiên của loài người, là kinh tế tự nhiên, với đặc
trưng chủ yếu là tự cung tự cấp- tức sản phẩm lao động được sản xuất chỉ
nhằm thỏa mãn nhu cầu của người sản xuất hoặc chỉ trong nội bộ đơn vị kinh
tế. Nền kinh tế tự nhiên do nhiều đơn vị kinh tế thuần nhất hợp lại. Kinh tế
16


nông dân kiểu gia trường, công xã nông thôn nguyên thủy, các điền trang thái
ấp của địa chủ. Và mỗi đơn vị kinh tế ấy làm đủ các loại ngành nghề, sản xuất
sản phẩm để tiêu dùng, sản xuất chủ yếu hướng vào giá trị sử dụng mang tính
tự cung tự cấp.
Trong nền kinh tế tự nhiên, con người dựa chủ yếu vào tự nhiên và khai
thác tự nhiên, do đó có thể nói rằng trong nền kinh tế này, ruộng đất là tư liệu
sản xuất chủ yếu của người lao động và nông nghiệp là ngành sản xuất chính,
kĩ thuật công cụ lao động, phương thức canh tác lạc hậu và thô sơ.
Xã hội loài người đã tồn tại, phát triển trong nền kinh tế tự nhiên hàng

nghìn năm rồi mới phát triển lên kinh tế hàng hóa.
Kinh tế hàng hóa là loại hình tổ chức kinh tế- xã hội cao hơn kinh tế tự
nhiên. Phân công xã hội là cơ sở chung của mọi nền kinh tế hàng hóa. Song,
chỉ riêng phân công xã hội thì chưa đủ cho sự xuất hiện của kinh tế hàng hóa.
Tính tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất là điều kiện
thư hai, cần và đủ cho sự ra đời kinh tế hàng hóa.
Như vậy rõ ràng là cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội,
của sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản xuất và tính độc lập
tương đối về kinh tế của các chủ thể sản xuất, xã hội loài người bước vào giai
đoạn phát triển kinh tế mới,cao hơn – kinh tế hàng hóa.
Có nhiều quan niệm khác nhau về kinh tế hàng hóa do cách tiếp cận và
khái quát không giống nhau nhưng đều biểu đạt những đặc trưng bản chất của
nó như: kinh tế hàng hóa là nền kinh tế sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ để
trao đổi, mua bán trên thị trường; tức là sản xuất theo nhu cầu của xã hội thể
hiện trên thị trường; là hình thức tổ chức kinh tế - xã hội trong đó các mối
quan hệ kinh tế cơ bản được thể hiện thông qua quan hệ mua bán trên thị
trường; chi phối các mối quan hệ kinh tế cơ bản ấy là các quy luất của kinh tế
hàng hóa: quy luật giá trị quan hệ cung - cầu, quan hệ cạnh tranh…Kinh tế
hàng hóa có nhiều ưu thế như: thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, mở
rộng phân công lao động xã hội, thúc đẩy tăng năng xuất lao động xã hội; là
17


hình thức thể hiện và thực hiện xã hội hóa lao đông và sản xuất; kích thich
việc nâng cao số lượng, chất lượng hàng hóa và dich vụ; kích thich tính năng
động sáng tạo của các chủ thể sản xuất – kinh doanh và có tác dụng khai thác
có hiệu quả các tiềm năng kinh tế của xã hội…
Tuy nhiên, kinh tế hàng hóa cũng có những hạn chế của nó như: do
cạnh tranh dấn đến tính tự phát mất cân đối trong kinh tế, phân hóa người sản
xuất, do chạy theo lợi nhuận tối đa nên có thể dấn tới sự tàn phá hủy hoại môi

trương, môi sinh… Do đó đòi hỏi phải có sự quản lý của Nhà nước để khắc
phục hạn chế của kinh tế hàng hóa.Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã khẳng
định rõ ràng: “ sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là
thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết
cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã xây
dựng xong”.
Kinh tế hàng hóa, nếu xét theo phạm vi hoạt động và tính chất khu vực
thì ở mỗi quốc gia đều bao gồm các bộ phận hợp thành là kinh tế hàng hóa
thành thị và kinh tế hàng hóa nông thôn.
Kinh tế hàng hóa nông thôn bao gồm toàn bộ các hoạt động sản xuất
hàng hóa nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ diễn ra trên địa bàn nông thôn.
Nông nghiệp hàng hóa là một bộ phận của nền kinh tế hàng hóa nói
chung, nó sản xuất ra nông sản phẩm (nông, lâm, ngư nghiệp) không phải để
tự tiêu dùng của người sản xuất, mà là để trao đổi, để bán trên thị trường, nó
là hình thức tổ chức kinh tế - xã hội, trong đó có mối quan hệ giữa người với
người giữa các chủ thể với nhau được thể hiện thông qua trao đổi, mua bán
trên thị trường, quan hệ hàng hóa – tiền tệ, quan hệ thị trường, quan hệ hạch
toán…là những quan hệ chủ yếu của loại hình này, chịu sự chi phối bởi trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, của quan hệ sản xuất, thiết chế kinh tế xã
hội, phong tục tập quán, văn hóa… trong đó trực tiếp và khách quan là các tác
động của cac quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh.
Nền nông nghiệp hàng hóa ra đời đối lập với nền nông nghiệp tự cung
18


tự cấp. Nó có nhiều ưu thế so với nông nghiệp tự túc tự cấp. Vì vậy, trong lịch
sử phát triển kinh tế của xã hội loài người thì sự ra đời và phát triển của nông
nghiệp hàng hóa được coi là một bước tiến bộ của lịch sử, một nấc thang phát
triển của nền văn minh nhân loại.
- Những nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp theo hướng

hàng hóa:
- Những nhân tố thuộc về điều kiện tự nhiên của sản xuất nông nghiệp.
Trong các nhân tố thuộc về điều kiện tự nhiên, thông thường,
nhân tố đầu tiên mà người ta phải kể đến đó là điều kiện đất đai. Các tiêu
thức của đất đai cần được phân tích, đánh giá về mức độ thuận lợi hay khó
khăn cho sản xuất nông nghiệp hàng hoá là: Tổng diện tích đất tự nhiên, đất
nông nghiệp; đặc điểm về chất đất; đặc điểm về địa hình, về cao độ của đất
đai. Điểm cơ bản cần lưu ý khi đánh giá mức độ thuận lợi hay khó khăn của
đất đai là phải gắn với từng loại cây trồng cụ thể. Rất có thể một đặc điểm nào
đó của đất đai là khó khăn cho phát triển loại cây trồng này, nhưng lại là thuận
lợi cho phát triển loại cây khác. Đồng thời cũng cần xem xét trong từng thời
vụ cụ thể trong năm về ảnh hưởng của đất đai đối với sản xuất một loại cây
trồng cụ thể.
- Những thông số cơ bản của khí hậu như: nhiệt độ bình quân
hàng năm, hàng tháng; nhiệt độ cao nhất, thấp nhất hàng năm, hàng
tháng; lượng mưa hàng năm, hàng tháng; lượng mưa bình quân cao
nhất, thấp nhất trong thời kỳ quan trắc; độ ẩm không khí; thời gian chiếu
sáng, cường độ chiếu sáng; chế độ gió; những hiện tượng đặc biệt của khí hậu
như sương muối, mưa đá, tuyết rơi, sương mù... đều phải được phân tích,
đánh giá về mức độ ảnh hưởng đến phát triển của từng loại cây trồng cụ thể.
Ngoài đất đai và khí hậu, nguồn nước cũng cần được xem xét. Nguồn
nước bao gồm cả nước mặt và nước ngầm, hoặc khả năng đưa nước
từ nơi khác đến vùng sản xuất mà chúng ta đang xem xét.
Đối với sản xuất nông nghiệp hàng hoá các yếu tố thuộc về điều kiện tự
19


nhiên được xem như cơ sở tự nhiên của phân công lao động trong nông
nghiệp. Đa phần những chuyên môn hoá theo vùng trong nông nghiệp cho
đến thời đại ngày nay, đều xuất phát từ sự khác biệt về điều kiện tự nhiên,

trong đó chủ yếu xuất phát từ sự khác biệt về khí hậu và nguồn nước. Sự
chuyên môn hoá giữa vùng này và vùng khác trong một quốc gia, hoặc
giữa quốc gia này với quốc gia khác trên phạm vi thế giới, cơ bản đều xuất
phát từ sự khác biệt của điều kiện khí hậu. Đó là cơ sở tự nhiên cho sự phân
công lao động quốc tế.
Những nhân tố thuộc về điều kiện kinh tế - xã hội.
Do sản xuất nông nghiệp hàng hoá có mục đích chính là sản xuất ra nông
sản hàng hoá, nên điều kiện về thị trường, tuy là nhân tố bên ngoài của nông
nghiệp, nhưng lại giữ vị trí quyết định đến sự tồn tại và phát triển của người
sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp. Điều kiện về thị trường bao gồm cả
thị trường các yếu tố đầu vào của sản xuất nông nghiệp và thị trường
sản phẩm đầu ra. Không thể chỉ coi trọng thị trường sản phẩm đầu ra,
mà coi nhẹ thị trường các yếu tố đầu vào của vùng chuyên môn hoá
sản xuất nông nghiệp.
Thực tiễn cho thấy rằng, nếu sản xuất ra những nông sản không đạt yêu
cầu về chất lượng, sản phẩm có giá thành cao, thì dù công tác tiếp thị được
tiến hành hoàn hảo đến mấy cũng là vô ích. Do vậy, khi đặt vấn đề giải quyết
thị trường cho các vùng sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa, cần đặt
nó trong toàn bộ quá trình sản xuất để xem xét và giải quyết. Sự phân
tích, đánh giá thị trường sản phẩm đầu ra của vùng sản xuất nông nghiệp
cũng cần có sự phân tổ để có thể giải quyết vấn đề mạch lạc. Chẳng hạn, cũng
là sản phẩm đầu ra của vùng sản xuất nông nghiệp, nhưng đó là sản phẩm để
tiêu dùng trực tiếp của dân cư, hay là sản phẩm làm nguyên liệu đầu vào của
công nghiệp chế biến.Hoặc đó là sản phẩm dễ vận chuyển đi xa hay khó vận
chuyển đi xa... Những phân tích đó giúp cho sự định hướng của mỗi
vùng nông nghiệp đạt hiệu quả cao nhất trong sản xuất, cũng như trong bảo
20


vệ các tài nguyên nông nghiệp.

Cũng do mục đích của sản xuất là sản xuất ra sản phẩm hàng hoá, hơn
nữa là sản xuất hàng hoá với trình độ cao và qui mô lớn hơn nên điều kiện
giao thông vận tải cũng có tác động quan trọng đến sự tồn tại và phát triển của
vùng sản sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp. Đây là nhân tố bên ngoài
của các vùng sản xuất hàng hoá nông nghiệp. Nói chung các vùng sản
xuất đều phải thích ứng với điều kiện giao thông vận tải. Tuy nhiên, sự thích
ứng ở đây không mang tính bất biến như đối với điều kiện tự nhiên. Vì rằng,
điều kiện giao thông vận tải ngày càng được giải quyết tốt hơn, nhờ khả năng
đầu tư để xây dựng hệ thống giao thông ngày càng tăng.
Ngoài những nhân tố trên, trong nhóm nhân tố thuộc về điều kiện kinh
tế - xã hội còn phải kể đến các nhân tố như sự phát triển của công nghiệp chế
biến; loại sản phẩm sản xuất; cơ chế quản lý của nền kinh tế... Đối với các
vùng sản xuất sự phát triển của công nghiệp chế biến một mặt giúp tiêu thụ dễ
dàng các sản phẩm của vùng, mặt khác còn làm tăng dung lượng tiêu thụ sản
phẩm nói chung của vùng sản xuất. Sự tác động làm tăng dung lượng không
chỉ thể hiện ở chỗ, bên cạnh lượng sản phẩm tiêu dùng trực tiếp, còn có
một lượng lớn sản phẩm được tiêu thụ bởi công nghiệp chế biến, mà sự tăng
lên còn thể hiện ở khả năng kéo dài thời vụ tiêu thụ sản phẩm của vùng sản
xuất nhờ tác động của công nghiệp. Do đó, vai trò của công nghiệp chế biến
ngày càng tăng đối với sự tồn tại và phát triền của các vùng sản xuất nông
nghiệp. Có thể coi các doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông sản như
những hạt nhân tạo vùng sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, cơ chế quản
lý nền kinh tế cũng có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của vùng sản
xuất nông nghiệp.
- Các yếu tố thuộc về điều kiện kỹ thuật.
Trong thời đại ngày nay, các nhân tố thuộc về điều kiện kỹ thuật có vai
trò ngày càng quan trọng đối với sự hình thành và phát triển của các
vùng sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hoá. Nhận định đó được thể
21



hiện trên một số khía cạnh chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, đó là những tiến bộ trong khâu sản xuất và cung ứng giống cây
trồng, vật nuôi mới. Các loại giống cây, con có năng suất cao, chất lượng sản
phẩm tốt cho phép tăng qui mô sản lượng hàng hoá của vùng sản xuất mà
không cần mở rộng diện tích của vùng. Các loại giống mới có sức kháng chịu
dịch bệnh cao giúp ổn định năng suất cây trồng, vật nuôi; ổn định sản lượng
sản phẩm hàng hoá. Đặc biệt, trong công nghệ ghép mắt của cây trồng đã
trưởng thành vào gốc cây trồng non đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho các
vùng chuyên canh cây trồng dài ngày mau chóng cho sản phẩm, rút ngắn thời
kỳ kiến thiết cơ bản của vườn cây, ổn định tính năng di truyền những phẩm
chất tốt của cây cung cấp mắt ghép, đồng thời lại có sức sinh trưởng cao của gốc
cây non. Với công nghệ mới đó, các loại cây ăn quả lâu năm, cây công nghiệp
dài ngày đang có những bước tăng trưởng cao trong những năm gần đây.
Bên cạnh những tiến bộ trên về công tác giống, còn phải kể đến
xu hướng lai tạo, bình tuyển các giống cây trồng cho sản phẩm phù hợp với
kinh tế thị trường: chịu được va đập trong quá trình vận chuyển, giữ được độ
tươi ngon dài hơn trong quá trình vận chuyển. Có thể nói xu thế tuyển tạo các
loại giống phù hợp với yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
không thể không lưu ý đến khả năng chịu được những tác động của sự vận
chuyển sản phẩm đi xa, trong thời gian ngày càng dài hơn.
Thứ hai, bên cạnh tiến bộ công nghệ trong sản xuất cây con
mới, hệ thống qui trình kỹ thuật tiên tiến cũng được hoàn thiện và phổ biến
nhanh đến người sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, nhờ sự phối hợp ngày càng
hiệu quả giữa các cơ quan khuyến nông với các tổ chức truyền thông, nên đã
rút ngắn được thời gian chuyển tải kỹ thuật mới từ nơi nghiên cứu đến người
nông dân.
Thứ ba, đó là sự phát triển của qui trình công nghệ bảo quản và chế biến
sản phẩm đang tạo ra những điều kiện có tính cách mạng để vận chuyển sản
phẩm đi tiêu thụ tại những thị trường xa xôi. Điều đó cũng đã có ý nghĩa to

22


lớn để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của từng vùng chuyên canh, xét
về không gian. Thay vì nông sản chỉ được tiêu thụ tại chỗ, hoặc ở vùng lân
cận quanh vùng sản xuất, thì nay sản phẩm được đưa đi tiêu thụ tại những thị
trường cách vùng sản xuất hàng ngàn, hàng vạn ki lô mét nhờ công nghệ bảo
quản và chế biến nông sản tiên tiến. Đồng thời, cuộc cách mạng trong lĩnh
vực này cũng tạo điều kiện để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của vùng
sản xuất xét về thời gian. Thay vì nông sản chỉ được tiêu dùng trong một
khoảng thời gian ngắn vào thời vụ thu hoạch, thì nay, ngày càng có điều kiện
để tiêu thụ nông sản loại nào đó ngày càng dài hơn, thậm chí là
quanh năm.
Ngoài ra, các điều kiện khác như: hệ thống tưới, tiêu nước của vùng
chuyên môn hoá; công nghệ phòng trừ dịch bệnh; trình độ của người
nông dân...cũng là những điều kiện kỹ thuật ảnh hưởng đến sản xuất hàng hoá
và chuyên môn hoá trong nông nghiệp.
- Yếu tố về hợp tác trong sản xuất nông nghiệp
Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, để cạnh tranh có hiệu quả
các hộ nông dân càng cần có sự hợp tác để có thêm vốn, thêm nhân lực, thêm
kinh nghiệm sản xuất và tiến hành sản xuất hàng hóa có hiệu quả cao hơn, tự
vệ chống lại sự chèn ép( ép cấp, ép giá) của tư thương. Thực tế thời gian qua
cho thấy để đáp ứng yêu cầu của thị trường về nông sản hàng hóa, các hộ
nông dân phải liên kết hợp tác lại với nhau để sản xuất, hỗ trợ nhau về vốn, kĩ
thuật và điều quan trọng là giúp nhau tiêu thu nông sản phẩm. nhờ có các hình
thức liên kết hợp tác mà các hộ nông dân có điều kiện áp dụng các thành tựu
khoa học kĩ thuật mới vào sản xuất nhằm nâng cao năng xuất cây trồng, vật
nuôi và nâng cao năng xuất lao động của mình.
- Phát triển nông nghiệp trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập tổ chức Thương mại thế giới

(WTO) Việt Nam sẽ có cơ hội mở rộng thị trường và đẩy mạnh xất khẩu
những mặt hàng có tiềm năng, đặc biệt là hàng hóa nông sản.Nhưng đứng
23


trước một “sân chơi” khổng lồ như vậy Việt Nam phải đối diện với “luật
chơi” đầy khó khăn trong sản xuất nông nghiệp:
+ “Luật chơi” về an toàn thực phẩm: Trong suốt quá trình sản xuất, trái
cây và rau quả Việt Nam phải có chứng chỉ “ nông nghiệp an toàn” hay
“nông nghiệp tốt” (Good Agricultural practices, GAP) để chứng minh mặt
hàng này luôn an toàn vệ sinh.
+ “Luật chơi” về chất lượng: mặt hàng nông sản Việt Nam cần rất nhiều
chứng chỉ, chẳng hạn như chứng chỉ xác nhận nguồn gốc giống (GMO),
chứng chỉ báo cáo chất lượng ( hàm lượng protein, chống õy hóa,
vitamine, đồng bộ về giống, độ chín, kích cỡ và mầu sắc)…để chứng
minh mặt hàng có chất lượng cao và bổ dưỡng.
+ “Luật chơi” về số lượng: lượng hàng hóa lưu hành trong thị trường
nông sản thế giới ngày nay vừa lớn về số lượng ( trăm tấn, ngàn tấn…)
vừa đồng bộ (giống kích cỡ,mầu sắc, bao bì) và chính xác về thời gian
giao hàng…
+ “Luật chơi” về giá cả: Để yểm trợ cho cạnh tranh, giá cả trở thành một
yếu tố quyết định. Đây là một thứ luật “bất thành văn” của bất cứ cơ sở
sản xuất hay một quốc gia nào trên thế giới muốn tham dự cuộc chơi.
Nông dân phải hết sức quan tâm đến điều này để mặt hàng luôn có giá rẻ
vốn là lợ thế của việt nam trong mấy năm qua.
Hiện nay cái khó nhất cho nông nghiệp Việt Nam là chu trình “ nông
nghiệp an toàn” hay “nông nghiệp tốt”. Đây là chương trình kiểm tra an toàn
thực phẩm xuyên suốt của dây chuyền sản xuất bắt đầu từ khâu chuẩn bị nông
trại cho tới khâu sau thu hoặch và tồn chữ hay các yếu tố liên quan tới môi
trường, các chất hóa học và thuốc bảo vệ thực vật, bao bì và ngay cả điều kiện

làm việc và phúc lợi của người làm việc trong nông trại. Trước kia chúng ta
sản xuất ra nông sản đa số là để phục vụ thị trương trong nước thì nay chung
ta phải sản xuất ra những nông sản phải cạnh tranh được với những sản phẩm
nông sản ở các nước khác ngay trên sân nha chúng ta cũng như đem đi xuất
24


khẩu. Như vậy, nông dân không phải muốn sản xuất cái gì cũng được, mà
phải hướng đến sản xuất cái gì thị trường cần, bán có giá, có hiệu quả kinh tế.
Do đó nông dân phải sản xuất theo tiêu chí thị trường và được thị trường lớn
này chấp nhận.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. phát triển nông nghiệp của một số nước trên thế giới.
Trong những thập kỉ qua có nhiều nước trên thế giới và điển hình là
khu vực châu Á quan tâm đến phát triển kinh tế nông thôn và họ đã đạt được
những thành tựu to lớn. Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong khu
vực cho thấy, trong quá trình phát triển kinh tế nông thôn ở mỗi nước có
những điều kiện và đặc điểm riêng, ở vào những thời điểm lịch sử khác nhau
nhưng ở các nước đó đều coi trọng sản xuất nông nghiệp.vậy việc phát triển
nông nghiệp của các nước này ra sao, chúng ta sẽ đi tìm hiểu về nền nông nghiệp
của một số nước ở châu Á có điều kiện tự nhiên gần giống với Viêt Nam.
2.1.1 phát triển nông nghiệp của Trung quốc.
Kết quả phát triển nông nghiệp Trung Quốc sau 5 năm gia nhập WTO:
Nhìn chung, sau 5 năm gia nhập WTO, sản lượng nông nghiệp không
giảm, giá nông sản phẩm không giảm, thu nhập của nông dân không giảm,
sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu tăng mạnh, hạn ngạch thuế quan đối với sản
phẩm nông nghiệp chưa sử dụng hết; tình trạng nhập khẩu ồ ạt nông sản đã
không diễn ra. Theo Uỷ ban Cải cách và Phát triển, một số kết quả 5 năm gia
nhập WTO như sau:
- Tăng trưởng xuất khẩu các nông sản có lợi thế so sánh: Sản xuất rau

quả và thịt tăng nhanh. Từ nhiều năm đã là một trong những nước sản xuất
lớn nhất cho các mặt hàng như thịt heo (46% sản lượng thế giới), bông sợi
(24%), trà (23%). Trung Quốc đã chiếm vị trí hàng đầu đối với lê (70%), táo
(48%), đào (32%), cà chua (30%). Trong năm 2003, trị giá xuất khẩu rau đã
tăng 43% và quả 80%. Trung Quốc hiện đứng đầu thế giới về xuất khẩu rau
25


×