Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Vấn đề sử dụng biểu tượng, sản phẩm linh vật không phù hợp với văn hóa việt nam trên báo điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.62 MB, 130 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------------------------------

CAO LỆ QUYÊN

VẤN ĐỀ SỬ DỤNG BIỂU TƢỢNG, SẢN PHẨM
LINH VẬT KHÔNG PHÙ HỢP VỚI VĂN HÓA
VIỆT NAM TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ

LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Báo chí học

Hà Nội - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------------------------------

CAO LỆ QUYÊN

VẤN ĐỀ SỬ DỤNG BIỂU TƢỢNG, SẢN PHẨM
LINH VẬT KHÔNG PHÙ HỢP VỚI VĂN HÓA
VIỆT NAM TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ

Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60320101


LUẬN VĂN THẠC SỸ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS.BÙI HOÀI SƠN

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Bùi Hoài Sơn -Viện trưởng
Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam.
Các số liệu, kết quả nghiên cứu được nêu trong luận văn này là trung thực và
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.
Tác giả luận văn

Cao Lệ Quyên


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến quý thầy, cô giảng viên Trường Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn - ĐHQG Hà Nội đã giúp đỡ tác giả trong suốt
quá trình theo học chương trình Cao học Báo chí, niên khóa 2014-2016.
Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo - PGS.TS Bùi Hoài Sơn đã tận
tâm hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình thực hiện hoàn thành luận văn này.
Xin gửi lời cảm ơn đến quý lãnh đạo và các anh chị phóng viên của báo điện
tử Vnexpress, Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, Tổ Quốc, Đài Tiếng nói Việt Nam;
Lãnh đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Cục Mỹ thuật Nhiếp ảnh và Triển lãm
cảm ơn các anh/chị giúp tôi trong quá trình nghiên cứu, khảo sát.
Xin gửi lời cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn động viên, chia sẻ khó khăn và

tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành tốt luận văn của mình.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 11 năm 2017
Tác giả luận văn

Cao Lệ Quyên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu liên quan đến đề tài .............................................................4
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .....................................................................7
5. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................8
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài ..................................................8
7. Kết cấu luận văn .................................................................................................9
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU BÁO ĐIỆN
TỬ VỀ VẤN ĐỀ SỬ DỤNG BIỂU TƢỢNG, SẢN PHẨM LINH VẬT KHÔNG
PHÙ HỢP VỚI VĂN HÓA VIỆT NAM ...............................................................10
1.1 Báo điện tử .....................................................................................................10
1.1.1 Khái niệm .................................................................................................10
1.1.3 Vai trò và chức năng của báo điện tử .....................................................16
1.2. Một số khái niệm về văn hóa và biểu tƣợng, sản phẩm linh vật không phù hợp với
văn hóa Việt Nam .......................................................................................................18
1.2.1. Khái niệm về Văn hóa Việt; Di sản văn hóa Việt ...................................18
1.2.2 Khái niệm về biểu tượng, sản phẩm linh vật phù hợp với văn hóa Việt ........20
1.3 Vai trò của báo điện tử trong việc thông tin về vấn đề văn hóa ...............23
Tiểu kết ..................................................................................................................30
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG BÁO ĐIỆN TỬ VỚI VẤN ĐỀ SỬ DỤNG BIỂU

TƢỢNG, SẢN PHẨM, LINH VẬT KHÔNG PHÙ HỢP VỚI VĂN HÓA VIỆT
NAM Khảo sát 03 báo điện tử VnExpress, Tổ Quốc và Tuổi trẻ TP. Hồ Chí Minh
...................................................................................................................................32
2.1 Khái quát về các báo điện tử khảo sát ........................................................32
2.2 Thực trạng báo điện tử với vấn đề sử dụng biểu tƣợng, sản phẩm linh
vật không phù hợp với văn hóa Việt Nam ........................................................36
2.2.1 Hình thức .................................................................................................37
2.2.2 Nội dung ..................................................................................................46


2.2.3 Đánh giá của công chúng ........................................................................54
2.3 Ðánh giá hiệu quả của BĐTvới việc thông tin về vấn đề sử dụng biểu
tƣợng, sản phẩm linh vật không phù hợp với văn hóa Việt............................60
Tiểu kết ..................................................................................................................74
CHƢƠNG 3: KHUYẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP CHO BÁO ĐIỆN TỬ TRONG
VIỆC THÔNG TIN VỀ VẤN ĐỀ SỬ DỤNG BIỂU TƢỢNG, SẢN PHẨM,
LINH VẬT KHÔNG PHÙ HỢP VỚI VĂN HÓA VIỆT NAM ..........................76
3.1 Một số vấn đề đặt ra đối với BĐT trong việc thông tin về vấn đề sử dụng
biểu tƣợng, sản phẩm linh vật không phù hợp với văn hóa Việt Nam ..........76
3.2 Khuyến nghị và giải pháp ............................................................................77
3.2.1 Giải pháp cho ngành văn hóa và các làng nghề trong việc sử dụng biểu
tượng, sản phẩm, linh vật không phù hợp với văn hóa Việt Nam ....................77
3.2.2 Về hình thức thể hiện ...............................................................................80
3.2.3 Về nội dung ..............................................................................................88
Tiểu kết .........................................................................................................90
KẾT LUẬN ..............................................................................................................91
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................94
PHỤ LỤC .................................................................................................................98



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Stt

Ký hiệu, viết tắt

Tên đầy đủ

1

ĐHQG

Đại học Quốc gia

2

NXB

Nhà xuất bản

3

PGS.TS

Phó giáo sư, Tiến sỹ

4

BĐT

Báo điện tử


5

VH, TT & DL

Văn hóa, Thể thao và Du lịch


DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH VÀ BIỂU ĐỒ
Hình 1.1 Nghê Việt tại đình Lâu Thượng - Phú Thọ thế kỷ XVIII ..........................22
Hình 1.2 Sư tử đá Trung Quốc tại Viện kiểm sát Hạ Long, Quảng Ninh .................23
Hình2.1 Giao diện Báo điện tử Vnexpress................................................................32
Hình2.2 Giao diện Báo điện tử Tuổi trẻ ....................................................................34
Hình2.3 Giao diện Báo điện tử Tổ Quốc ..................................................................35
Hình2.4 Sư tử đá tạo hình của Trung Quốc được đặt trước vườn tháp ở di tích chùa
cổ Chân Tiên (phố Bà Triệu, Hà Nội). Ảnh: Quý Đoàn. ..........................................39
Biểu đồ 2.5. Khảo sát độc giả về hình thức thể hiện tác phẩm báo chí ....................40
Hình2.6 Hình thức đọc báo online của tuoitre.vn ....................................................41
Hình2.7 Tag được sử dụng trên báo Tuổi trẻ ...........................................................42
Hình2.8 Tag được sử dụng trên báo Tổ Quốc..........................................................42
Hình2.9 Công chúng tương tác với công chúng trên báo Vnexpress ......................45
Biểu đồ 2.10 Khảo sát độc giả về nội dung thông tin liên quan đến vấn đề sử dụng
biểu tượng, sản phẩm linh vật không phù hợp với văn hóa Việt ..............................46
Hình 2.11 Ý kiến bạn đọc trên BĐT Vnexpress .......................................................48
Hình 2.12. Công ty Vạn Bảo Ngọc (Ninh Bình) sản xuất các sản phẩm lưu niệm
qua hình tượng linh vật Việt .....................................................................................51
Hình 2.13. Tượng Khỉ bộ “tam không” thời Lý thế kỷ thứ 1 -13 ............................52
Hình 2.14 Tượng rồng bằng vàng thời Nguyễn, thế kỷ 19-20 .................................52
Hình 2.1.5 Hình sư tử ngoại lai được bứng ra khỏi di tích ......................................52
Hình 2.16. Linh vật nghê cổ bằng đá đen ở Cửa Hiển Nhơn của hoàng thành Huế. 53

Hình 2.17 Sư tử đá trước điện Thiên An Môn, Bắc Kinh, Trung Quốc ...................53
Biểu đồ 2.18 Khảo sát độ tuổi độc giả ......................................................................55
Biểu đồ 2.19 Khảo sát nghề nghiệp của độc giả .......................................................56
Biểu đồ 2.20. Khảo sát trình độ văn hóa của độc giả ...............................................56
Biểu đồ 2.21 Khảo sát về hiểu biết của độc giả về khái niệm biểu tượng, sản phẩm
linh vật không phù hợp với văn hóa Việt ..................................................................57
Biểu đồ 2.22 Khảo sát mức độ quan tâm của độc giả ..............................................58


Biểu đồ 2.23 Khảo sát mức độ truy cập thông tin của độc giả .................................59
Biểu đồ 2.24 Về nội dung thể hiện các thông tin trên báo điện tử ............................60
Hình 2.25 Tượng sư tử bằng đá của Việt Nam thế kỷ 11-12 tại chùa Bà Tấm,
Dương Xá, Gia Lâm, Hà Nội. ...................................................................................63
Hình 2. 26 Website mô phỏng những linh vật Việt được 3D ...................................65
Hình 2.28 Thứ hạng của báo điện tử Vnexpress ......................................................66
Biểu đồ2.29 Số lượt truy cập báo điện tử Vnexpress 6 tháng gần nhất ...................67
Biểu đồ 2.30 Nguồn truy cập đến từ các site liên kết của vnexpress.net .................67
Biểu đồ 2.31 Nguồn đem lại truy cập đến website vnexpress.net ............................68
Biểu đồ 2.32 Nguồn truy cập đến từ mạng xã hội vnexpress.net ............................68
Hình 2.33 Thứ hạng của báo điện tử tuoitre.vn .......................................................69
Biểu đồ 2.34 Số lượng truy cập vào website Tuoitre.vn ..........................................69
Biểu đồ 2.35 Nguồn đem lại truy cập đến website Tuoitre.vn ................................69
Hình 2.36 Nguồn truy cập đến từ site liên kết Tuoitre.vn .......................................70
Biểu đồ 2.37 Nguồn truy cập đến từ mạng xã hội Tuoitre.vn...................................70
Hình 2.38 Thứ hạng của website toquoc.vn ..............................................................72
Biểu đồ 2.39 Số lượt truy cập website toquoc.vn 6 tháng gần nhất.........................73
Biểu đồ 2.40 Nguồn đem lại truy cập đến website toquoc.vn ..................................73
Hình 2.41 Nguồn truy cập đến từ site liên kết Toquoc.vn .......................................73
Biểu đồ 2.42 Danh mục quan tâm của người truy cập website toquoc.vn ...............74
Biểu đồ 3.1 khảo sát về cải thiện hình thức thể hiện bài viết....................................80

Biểu đồ 3.2 Khảo sát về cải thiện nội dung của bài viết ...........................................87


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Báo chí là một loại hình truyền thông đại chúng có vai trò vô cùng quan
trọng trong xã hội hiện đại. Chức năng cơ bản của báo chí là cung cấp thông tin một
cách nhanh chóng, chính xác, khách quan về mọi mặt của đời sống tới mọi tầng lớp
công chúng. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu về thông tin càng tăng lên cũng như đa
dạng, phong phú hơn. Có thể thấy, chủ thể nào kiểm soát được thông tin, sử dụng truyền
thông một cách hợp lý thì sẽ đạt được hiệu quả tốt nhất trong hoạt động của mình.
Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế, sự phát triển của công nghệ khoa
học đã phá vỡ khái niệm về không gian, thời gian, góp phần vào việc thúc đẩy xã
hội phát triển trên nhiều lĩnh vực. Bởi vậy những giá trị về văn hóa dân tộc là “món
ăn tinh thần” không thể thiếu đối với xã hội đương đại và cũng là một trong những
nội lực to lớn để phát triển đất nước. Tuy nhiên, một thực trạng đáng báo động là
việc nghiên cứu, tìm tòi và phát triển văn hóa dân tộc đang bị xem nhẹ và đặc biệt là
thế hệ trẻ. Các vấn đề văn hóa dân tộc càng cần phải hiểu rõ và truyền thông đúng
mực nhất đến với công chúng qua quá trình lâu dài cùng cái nhìn khách quan đa
chiều. Cần có sự nghiên cứu đồng bộ, cụ thể từ kiến thức nền đến định hướng và dự
báo cho công chúng.
Theo thống kê chưa đầy đủ của Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du Lịch năm 2014
trên 6000 di tích Việt đều tồn tại những hiện vật lạ là sản phẩm, biểu tượng, linh vật
không đúng với văn hóa Việt và vi phạm nghiêm trọng luật Di sản. Riêng địa bàn
Hà Nội có 538 di tích thì 538 đều có linh vật sư tử đá.
Trong khi thu thập tài liệu, tìm hiểu và nâng cao hiểu biết để chuẩn bị cho đề
tài luận văn này về linh vật ngoại lai, tôi đã tìm về tỉnh Ninh Bình nơi có làng đá
Ninh Vân. Cùng với làng đá Non Nước, Đà Nẵng thì làng đá Ninh Vân nổi tiếng là
một trong những cái nôi sản xuất sư tử đá kiểu Trung Quốc lớn nhất Việt Nam. Vài
năm trở lại đây, sư tử đá kiểu Trung Quốc và một số mẫu linh vật ngoại lai bán chạy

nhất. Người ta mua về cung tiến vào đình chùa, đặt trước cửa cơ quan, công sở, nhà
riêng. Nhiều người quản lý chùa, người cung tiến hoặc thợ tạc đá khi được hỏi thì
khẳng định sư tử đá kiểu Trung Quốc là con Nghê của Việt Nam. Cùng trong
chuyến đi, tôi đến thăm đền Vua Đinh, có thể nói đây là “vương quốc” của Nghê những linh vật Việt tuyệt đẹp, Nghê chầu phía ngoài lăng, chầu trong lăng, Nghê ở
1


trên mái, ở trên trụ cao… Hiện hữu rất nhiều nhưng khách tham quan không biết và
không để ý đến, hướng dẫn viên cũng không thấy giới thiệu cho du khách. Hỏi một
du khách trẻ có biết đó là con gì, bạn ấy cũng không biết.
Một linh vật mang trong mình những gửi gắm sâu sắc về triết lý nhân sinh
của cha ông, có lịch sử tồn tại hàng thế kỷ và đến nay vẫn tồn tại, “hữu hình” mà
không khác nào “vô hình”. Nghê - linh vật vô cùng đặc biệt của văn hóa Việt Nam
bị chính người Việt không những lãng quên mà còn bị nhầm lẫn. Là người làm
trong lĩnh vực báo chí, tôi gọi đây là một ví dụ điển hình của việc bị “cắt đứt” phũ
phàng thông điệp truyền thông, một sự đứt đoạn đáng “báo động” của sự tiếp nối
văn hóa truyền thống giữa các thế hệ, giữa lịch sử và hiện tại. Bởi vì sự cắt đứt với
văn hóa truyền thống khiến người ta không hiểu được những thông điệp của quá
khứ. Đây chính là một trong những nguyên nhân lớn tạo ra sự mất bản sắc văn hóa.
Nguyên nhân nào khiến cả một cộng đồng cùng lãng quên một biểu tượng văn hóa
quan trọng trong truyền thống dân tộc?
Tuy nhiên, trước thực trạng ở nhiều địa phương trưng bày, sử dụng biểu
tượng, vật phẩm, linh vật (sư tử bằng đá và một số vật phẩm khác) theo tạo hình,
hình thức không phù hợp với văn hóa Việt Nam ở cổng, cửa, khu di tích, đình, chùa,
công sở cơ quan, đơn vị gây phản cảm về thẩm mỹ, văn hóa, tâm linh ở những nơi
công cộng. Qua quá trình truyền thông đa chiều và nhiều khía cạnh về những hiện
vật lạ. Ngày 08 tháng 8 năm 2014, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành
công văn số 2662/BVHTTDL-MTNATL về việc không sử dụng biểu tượng, sản
phẩm, linh vật không phù hợp với thuần phong mỹ tục Việt Nam. Lần đầu tiên, sự
hưởng ứng mạnh mẽ của dư luận và xã hội đối với một chủ trương của Bộ

VHTT&DL lại trở thành một sự kiện nổi bật trong năm và được bình chọn là top 10
sự kiệnvăn hóa thể thao du lịch năm 2014.
Trong bảng xếp hạng 10 sự kiện nổi bật năm 2014 thì “việc dư luận ủng hộ
chủ trương của Bộ VHTT&DL trong việc khuyến cáo, ngăn chặn và loại bỏ các
hiện vật ngoại lai không phù hợp tại các di tích lịch sử văn hóa, công sở, nơi công
cộng” chỉ đứng sau Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương
Khóa 11 (Nghị quyết 33-NQ/TW) về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam và Quần thể danh thắng Tràng An (Ninh Bình) cùng Dân ca Ví, Giặm
Nghệ Tĩnh được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa nhân loại. Điều đó thêm một
2


lần nữa khẳng định rằng, một chủ trương đúng đắn hợp lòng dân thì sẽ luôn được
dư luận và truyền thông báo chí đón nhận. Chúng ta không nên chần chừ trước
những điều tốt đẹp vì lợi ích chung của dân tộc, của đất nước.
Đây cũng là công văn được báo chí ủng hộ. Hầu hết các báo đều ưu ái dành
đất cho các bài viết liên quan đến việc thực hiện công văn 2662, đăng tải nhiều ý
kiến của các chuyên gia và vẻ đẹp của linh vật Việt cũng như đóng góp những
thông tin hữu ích cho cơ quan chức năng để việc thực thi được hiệu quả hơn.
Qua đó càng khẳng định hơn được mối quan hệ chặt chẽ giữa báo chí và văn
hóa. Từ thời cận đại đến hiện đại nhất là phương tiện truyền thông như báo chí đã
truyển tải, phổ cập và nâng cao văn hóa cho quần chúng. Nếu phương tiện này
truyền thông một cách đúng đắn sẽ nâng cao giá trị văn hóa cho cộng đồng; một
cộng đồng có nền tảng văn hóa chắc chắn có thể chống lại được văn hóa ngoại lai
và văn hóa suy đồi và đặc biệt hơn cả là báo chí cách mạng.
Cùng với chặng đường phát triển của nền văn hóa, báo chí cách mạng Việt
Nam đã thể hiện vai trò to lớn trong việc tuyên truyền, phổ biến kiến thức về bảo
tồn và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc. Nhiều báo, đài đặc biệt là các BĐT
đã có các chuyên trang, chuyên mục về văn hóa để người dân có những kiến thức
nhất định cho việc ứng xử có văn hóa với các sản phẩm, biểu tượng, linh vật Việt.

Hơn các loại hình báo chí khác, báo điện tử đã mạnh dạn phản ánh tất cả những biểu
hiện của vấn đề sử dụng biểu tượng, sản phẩm linh vật không phù hợp với văn hóa
Việt. Những tờ BĐT đã nêu lên những hạn chế, thiếu sót, thậm chí là yếu kém, tiêu
cực còn tồn tại trong công tác quản lý, năng lực của cán bộ ngành văn hóa tự nhìn
nhận, đánh giá và tìm những giải pháp khắc phục, đấu tranh đẩy lùi tiêu cực, nâng
cao hơn nữa giá trị nhân văn sâu sắc và yếu tố tâm linh.
Tuy BĐT là loại hình báo chí ra đời muộn nhất trong hệ thống báo chí nước
ta nhưng báo điện tử đã nắm giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong hệ thống các
phương tiện truyền thông đại chúng. BĐT với sự kế thừa sức mạnh kết hợp của tất
cả những loại hình báo chí truyền thống, tích hợp với công nghệ mới đã tạo ra
những đột phá trong quá trình truyền tin và tiếp nhận thông tin.
Xuất phát từ tình hình thực tế và những nguyên nhân nêu trên tác giả với
mong muốn làm rõ mối liên hệ giữa vai trò của báo chí trong tuyên truyền để ngành
văn hóa có thái độ quan tâm đúng mực hơn trong việc chấn chỉnh giúp giảm thiểu,
3


khắc phục vấn đề sử dụng biểu tượng, sản phẩm linh vật không phù hợp với văn hóa
Việt nhằm góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc. Đồng thời
cũng nâng cao hơn nữa nhận thức, hiểu biết và trách nhiệm của những người làm
báo về văn hóa dân tộc trong thời kỳ hội nhập. Đề tài tập trung vào việc khảo sát
các bài viết liên quan đến sử dụng biểu tượng, sản phẩm linh vật không phù hợp với
văn hóa Việt trọng tâm là thông tin về linh vật Việt và sư tử đá Trung Quốc trên 3
BĐT Vnexpress, Tổ Quốc và Tuổi trẻ thời gian từ tháng 8 năm 2014 đến tháng 12
năm 2016.
2. Lịch sử nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tại Việt Nam, nghiên cứu về biểu tượng, sản phẩm linh vật không phù hợp
với Văn hóa Việt Nam trong công tác truyền thông và hoạt động báo chí từ khoảng
10 năm trở lại đây đã trở thành mối quan tâm của rất nhiều học giả. Có thể tìm thấy
rất nhiều công trình nghiên cứu, luận văn, khóa luận, bài báo khoa học, tham luận

hội nghị…tập trung vào các vấn đề liên quan. Các nghiên cứu có liên quan tới đề tài
này thường nằm trong hai nhóm: Nhóm các nghiên cứu về văn hóa và nhóm các
nghiên cứu về báo chí với văn hóa.
Một số tác phẩm như: Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa Việt Nam Các Con Vật Linh (Tập 3), Nxb Tri thức, Hà Nội của PGS.TS Đinh Hồng Hải
(2012). Khái quát nội dung về quá trình giao lưu với các nền văn minh lớn trên thế
giới như Trung Hoa, Ấn Độ và phương Tây, nền văn hóa Việt Nam đã tích hợp
thêm nhiều giá trị văn hóa từ các quốc gia đó và Việt hóa các con vật linh có nguồn
gốc bên ngoài thành các biểu tượng của riêng mình. Qua đó, chúng ta có thể định
danh các con vật linh là những con vật linh thiêng (có thực hoặc hư cấu) gắn với
truyền thống văn hóa và tín ngưỡng của một cộng đồng dân cư, được thiêng hóa
thành những biểu tượng của cộng đồng đó hay nền văn hóa đó...
Còn cuốn sách Phác họa Nghê gã linh vật bên rìa (nhìn từ đền Vua
Đinh,Vua Lê) Nxb Thế giới của nhóm tác giả Trần Hậu Yên Thế - Nguyễn Đức Hòa
- Hồ Hữu Long (2017) cung cấp tư liệu hình ảnh, những bản đạc họa, sơ đồ, phác
thảo ban đầu chân dung một linh vật quan trọng bậc nhất của người Việt.
Bên cạnh đó, nhiều đề tài luận văn, khóa luận tốt nghiệp trong nước nghiên
cứu về đề tài văn hóa và báo điện tử liên quan đến văn hóa như:

4


Đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu phân loại linh vật Việt trong các di tích tôn giáo tín ngưỡng xếp hạng quốc gia trên địa bàn thành phố Hà Nội” do PGS.TS. Nguyễn
Văn Tiến chủ trì. Đề tài cung cấp cho người đọc thực trạng sử dụng các biểu tượng,
sản phẩm linh vật không phù hợp với văn hóa Việt tại các di tích xếp hạng quốc gia
trên địa bàn Hà Nội.
Bài viết chuyên đề của PGS.TS Đinh Hồng Hải (2014), Biểu tượng“con
Nghê” trong văn hóa Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu Tôn giáo, số 138, trang 110124. Phần nào cho độc giả hiểu được linh vật Nghê trong văn hóa Việt Nam.
Đề tài “Báo điện tử với vấn đề xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam
hiện nay”. Luận án tốt nghiệp Tiến sỹ của Nguyễn Sơn Minh năm 2014, Trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn hướng đến tìm hiểu phương pháp, cách thức

tổ chức và thực hiện quy trình truyền thông hiệu quả nhất cho báo điện tử Việt Nam
về vấn đề xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam hiện nay.
Đề tài “Thông tin đối ngoại về văn hóa trên báo chí (Khảo sát báo Vietnam
News, Báo Ảnh Việt Nam và báo Thế giới&Việt Nam từ tháng 01/2012 đến
06/2012)”. Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Thương Huyền, Học viện Báo
chí và Tuyên truyền năm 2012. Trên cơ sở trình bày về thực trạng hoạt động thông
tin đối ngoại về văn hóa trên báo chí ở Việt Nam hiện nay cũng như bài học kinh
nghiệm ở một số nước, đề tài đề xuất một số phương hướng và giải pháp cho hoạt
động này thời gian tới.
Còn đề tài “Báo Văn hóa với vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân
tộc trong giai đoạn hiện nay” của tác giảTrịnh Liên Hà Quyên(2006). Luận văn thạc
sỹ của Học viện Báo chí và Tuyên truyền đề cập đến những vấn đề lí luận và thực
tiễn về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc; Khảo sát thực trạng báo văn hóa trong
việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc; Một số định hướng và giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả tuyên truyền bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc.
Có nhiều luận văn khác nhau liên quan đến báo điện tử, lịch sử, văn hóa, di
sản của Việt Nam. Tuy nhiên, tình đến thời điểm hiện tại chưa có một công trình
nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu về quá trình truyền thông qua công văn 2662
của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về vấn đề không sử dụng biểu tượng, sản
phẩm linh vật không phù hợp với văn hóa Việt Nam. Chưa có một đề tài nào đặt
nghiên cứu một cách toàn diện và triệt để về di sản văn hóa vật thể thuần Việt qua
5


phương tiện truyền thông là báo mạng điện tử. Như vậy, thông qua truyền thông của
báo chí, các khái niệm về biểu tượng, sản phẩm linh vật không thuần Việt sẽ được
đưa đến với độc giả một cách cơ bản nhất và dễ tiếp cận nhất. Đồng thời, độc giả sẽ
ý thức sâu sắc hơn về giá trị cũng như vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật
thể tại Việt Nam.
Báo chí với vai trò là cơ quan ngôn luận của Đảng, cần phải thể hiện được

vai trò của mình khi thông tin và định hướng cho công chúng. Tác giả hy vọng
thông qua đề tài này có thể góp phần vào việc nâng cao hiệu quả thông tin về vấn đề
sử dụng biểu tượng, sản phẩm linh vật không phù hợp với văn hóa Việt Nam trên báo
điện tử nhằm chấn chỉnh, giảm thiểu và cao hơn là khắc phục tình trạng sử dụng những
sản phẩm, biểu tượng, linh vật không thuần Việt tràn lan như những năm gần đây.
Ngoài ra, luận văn cũng khẳng những thế mạnh của báo mạng điện tử; xu hướng
phát triển của báo điện tử trong việc thông tin về văn hóa Việt Nam đứng trước bối
cảnh văn hóa ngoại lai du nhập mạnh mẽ. Đồng thời đưa ra cách thức sản xuất
nhằm nâng cao chất lượng, hình thức, nhằm phát triển các thông tin văn hóa Việt
Nam trong bối cảnh hiện tại một cách hiệu quả, bền vững, thực hiện tốt nhiệm vụ
báo chí của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Về mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những vấn đề lý luận và khảo sát thực tiễn, đánh giá quá trình
truyền thông về việc không sử dụng biểu tượng, sản phẩm linh vật không phù hợp
với văn hóa Việt Nam nhìn từ góc độ đa phương tiện, luận văn đưa ra một số kiến
nghị để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả truyền thông đối với việc hiểu
đúng, đồng thời bảo tồn và phát huy giá trị di sản Việt Nam.
Bên cạnh đó, còn làm rõ mối quan hệ giữa văn hóa và báo chí, bởi không có
sự thông tin kịp thời và định hướng dư luận rõ nét về vấn đề sử dụng biểu tượng,
sản phẩm linh vật không phù hợp với văn hóa Việt thì người Việt vẫn bị nhầm lẫn
giữa những biểu tượng, sản phẩm linh vật ngoại lai.
3.2 Về nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề sử dụng biểu tượng, sản
phẩm linh vật ngoại lai không phù hợp với văn hóa Việt trên báo điện tử Việt Nam.
6


Qua đó thấy được báo mạng là một hình thức thông tin hữu ích và quan trọng giúp công

chúng tiếp cận thông tin nhanh hơn và đạt hiệu quả tốt hơn, đồng thời cũng giúp báo điện
tử tiếp cận được nguồn công chúng tiềm năng trong lĩnh vực văn hóa.
- Khảo sát để đánh giá thực trạng việc thông tin về vấn đề sử dụng biểu
tượng, sản phẩm linh vật ngoại lai không phù hợp với văn hóa Việt trên báo điện tử.
Từ đó, luận văn chỉ ra điểm mạnh và hạn chế của việc thông tin về vấn đề này trên
báo điện tử cả về hình thức và nội dung thể hiện.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm cho những phóng viên, biên tập viên
của 3 tờ BĐT trong việc thông tin về các vấn đề liên quan tới sử dụng biểu tượng,
sản phẩm linh vật không phù hợp với văn hóa Việt trên báo điện tử.
- Đề xuất khuyến nghị và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả
trong việc thông tin về vấn đề sử dụng biểu tượng, sản phẩm linh vật không phù
hợp với văn hóa Việt trên báo điện tử. Đặc biệt là giúp BĐT phát huy vai trò của
mình nhằm chấn chỉnh, giảm thiểu và khắc phục hiện tượng tiêu cực này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là vấn đề sử dụng biểu tượng, sản phẩm linh vật không
phù hợp với văn hóa Việt được thông tin trên 3 BĐT: VnExpress, Tổ Quốc và Tuổi
trẻ TP.HCM. Đặc biệt chú trọng đến 2 linh vật được thông tin và tranh luận nhiều
nhất trên BĐT đó là Nghê Việt và Sư tử Trung Quốc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu tin bài có liên quan tới vấn đề sử dụng biểu
tượng, sản phẩm linh vật không phù hợp với văn hóa Việt cụ thể là linh vật Việt và
sư tử đá Trung Quốc trên 03 tờ BĐT VnExpress, Tổ Quốc và Tuổi trẻ TP.HCM.
Thời gian khảo sát từ tháng 8/2014 đến tháng 12/2017
BĐT VnExpress và Tuổi trẻ TP.HCM là một trong 2 tờ báo được đánh giá
cao tại Việt Nam với nội dung, hình thức thể hiện một cách chất lượng nhất và tư
duy không đi theo lối mòn. Đặc biệt có những chuyên mục riêng về văn hóa, đội
ngũ phóng viên, biên tập viên viết cho mảng văn hóa là những người có kiến thức
cũng như nhận thức tốt về văn hóa Việt. Còn chọn đối tượng để khảo sát và so sánh
đó là BĐT Tổ Quốc, cơ quan chủ quản là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch nhằm


7


hiểu rõ hơn về cùng một vấn đề nhưng báo chí sẽ đưa thông tin, cách thức thể hiện
khác nhau như thế nào.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài của luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích tài liệu: Sưu tầm, phân tích, tổng hợp, hệ thống và
khái quát hóa những lý thuyết cũng như các công trình đã được đăng tải trên sách
báo, tạp chí và những công trình nghiên cứu thực tiễn các tác giả có liên quan đến
vấn đề nghiên cứu. Từ đó tạo cơ sở nền tảng cho hoạt động nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp phân tích nội dung: Phân tích nội dung trong thông tin số liệu từ
3 BĐT để thấy được thành công, hạn chế trong việc thông tin đến độc giả vấn đề về biểu
tượng, sản phẩm linh vật Việt nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung.
- Điều tra bằng bảng hỏi: Đề tài sẽ sử dụng phương pháp khảo sát điều tra
bằng 200 bảng hỏi đối với công chúng sử dụng báo điện tử, vấn đề tiếp cận các
thông tin văn hóa từ trực tiếp báo điện tử. Bên cạnh đó nghiên cứu, đánh giá xem
công chúng có thường xuyên theo dõi và tương tác trên báo điện tử không? Công
chúng thích nội dung về văn hóa thuần Việt được viết bằng thể loại nào? Công
chúng đánh giá chất lượng nội dung của BĐT như thế nào?
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Đề tài sẽ tiến hành phỏng vấn sâu 3 nhóm đối
tượng là đại diện lãnh đạo Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Nhà nghiên cứu về vấn
đề Văn hóa linh vật, phóng viên báo điện tử. Nội dung của phiếu câu hỏi phỏng vấn
sâu về các thông tin liên quan đến việc sử dụng biểu tượng, sản phẩm linh vật phù hợp
với văn hóa Việt. Ngoài ra còn đánh giá vai trò của báo chí, vai trò của cơ quan lãnh đạo
văn hóa, hướng đi cho linh vật Việt đến với người Việt một cách dễ dàng nhất.
- So sánh đối chiếu: Tác giả sẽ tiến hành so sánh đối chiếu cách thức hoạt
động giữa các BĐT để thông tin có hiệu quả đối với công chúng để có thể đưa ra
các giải pháp hoạt động cụ thể cho các báo điện tử.

6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Việc nghiên cứu “vấn đề sử dụng biểu tượng, sản phẩm linh vật không phù
hợp với văn hóa Việt” sẽ góp phần làm phong phú hơn lý luận về báo chí, bổ sung
tư liệu thực tế cho một số môn học chuyên ngành báo chí và chuyên ngành văn hóa.

8


Bên cạnh việc đưa ra lý thuyết đã được nghiên cứu và công bố, luận văn còn
triển khai nghiên cứu, phát triển một cách bài bản các nội dung liên quan đến kinh
nghiệm thực tiễn nâng cao hiệu quả bài viết về vấn đề văn hóa tới công chúng của
báo điện tử hiện nay, từ đó gợi ra hướng phát triển hiệu quả cho hoạt động của các
báo điện tử hiện nay trong việc tiếp cận, thu hút công chúng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Về ý nghĩa thực tiễn của đề tài, sau khi nghiên cứu, luận văn góp phần tìm ra
những đặc điểm nổi bật cũng như hạn chế trong nghệ thuật chuyển tải thông tin về
một vấn đề tiêu cực trong lĩnh vực văn hóa trên 03 báo điện tử Vnxspess, Tổ Quốc
và Tuổi trẻ. Từ đó, giúp các nhà báo, cơ quan báo chí, phóng viên, biên tập viên có
một cách nhìn nhận chính xác hơn về việc thông tin về vấn đề sử dụng biểu tượng,
sản phẩm, linh vật không phù hợp với văn hóa Việt. Từ đó đưa ra phương pháp
khắc phục và hoàn thiện hơn công tác làm báo của nhà báo, cơ quan báo chí, cơ
quan văn hóa và nâng cao ý thức của công chúng khi sử dụng các biểu tượng,
sản phẩm linh vật phù hợp với văn hóa Việt nói riêng và văn hóa dân tộc Việt
Nam nói chung.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn có kết cấu gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luân và thực tiễn báo điện tử với vấn đề sử dụng biểu
tượng, sản phẩm, linh vật không phù hợp với văn hóa Việt Nam.

Chương 2: Thực trạng báo điện tử với vấn đề sử dụng biểu tượng, sản phẩm,
linh vật không phù hợp với văn hóa Việt Nam.
Chương 3: Khuyến nghị và giải pháp cho báo điện tử trong việc thông tin về
vấn đề sử dụng biểu tượng, sản phẩm, linh vật không phù hợp với văn hóa Việt
Nam.

9


CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU BÁO ĐIỆN
TỬ VỀ VẤN ĐỀ SỬ DỤNG BIỂU TƢỢNG, SẢN PHẨM LINH VẬT KHÔNG
PHÙ HỢP VỚI VĂN HÓA VIỆT NAM
1.1 Báo điện tử
1.1.1 Khái niệm
Với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật và công nghệ, Internet
thực sự đem lại cho con người một cuộc các mạng thông tin khi đã làm thay đổi
hoàn toàn phương thức truyển tải, tiếp nhận và trao đổi. Khoảng cách không gian và
thời gian bị phá vỡ hoàn toàn. Với khả năng kết nối mở, Internet trở thành mạng
thông tin lớn nhất thế giới, xuất hiện và tham gia trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Các dịch vụ và ứng dụng chạy trên nền Internet cũng không ngừng phát triển,
tạo ra một kỷ nguyên thương mại điện tử và kỹ thuật số.
Trong bối cảnh phát triển của khoa học kỹ thuật và Internet, đối với lĩnh vực
thông tin, báo điện tử được công chúng đón nhận và xem như địa chỉ tin cậy và
nhanh chóng nhất để tiếp nhận tin tức mới nhất trong đời sống xã hội. Năm1992,
trang báo điện tử đầu tiên trên thế giới Chicago Tribune ra đời đầu và nhanh chóng
trở thành một trong những trang báo điện tử lớn nhất của Hoa Kỳ và là nhật báo
chính của miền Trung Tây nước này.
Tại Việt Nam, năm 1997, tạp chí Quê hương đã cho ra đời tờ báo trực tuyến
đầu tiên. Đây là tờ tạp chí của Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài trực thuộc
Bộ ngoai gio, phát hành số đầu tiên vào ngày 6/2/1997, chính thức khai trương ngày

3/12/1997. Tiếp nối là sự ra đời của hàng loạt các tờ báo điện tử khác như
Vietnamnet.vn, Thanhnien.vn, dantri.com…
Về khái niệm báo điện tử, tại Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật báo
chí Việt Nam số 12/1999, QH10, ngày 12/6/1999 có quy định về Báo điện tử. Trong
đó quy định báo in (bao gồm báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn), báo nói
(các chương trình phát thanh), báo hình ( các chương trình truyền hình, chương
trình nghe – nhìn thời sự được thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau),
báo điện tử (thực hiện trên mạng thông tin máy tính) bằng tiếng Việt, tiếng các dân
tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài. Theo đó, các trang thông tin điện tử chỉ
được gọi là báo điện tử khi đã được Bộ Thông tin & Truyền thông Việt Nam cấp
“Giấy phép hoạt động báo điện tử”
10


Theo Điều 3, Chương 1 của Luật Báo chí được Quốc hội nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa X thông qua ngày 05/4/2016, báo điện tử là loại hình
báo chí sử dụng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được truyền dẫn trên môi trường
mạng, gồm báo điện tử và tạp chí điện tử.
Trong cuốn “Báo chí và đào tạo báo chí” của PGS.TS Nguyễn Đức Dũng
(Nhà xuất bản Thông tấn, Hà Nội, 2010) cũng đã đưa ra cách hiểu chung nhất của
các nhà nghiên cứu lý thuyết về Báo điện tử. Theo đó, Báo điện tử là một loại hình
báo chí “được sinh ra từ sự phát triển vượt bậc về khoa học công nghệ thông tin;
hoạt động được nhờ các phương tiện kỹ thuật tiên tiến số hoá, các máy tính nối
mạng và các server, các phần mềm ứng dụng…”.
Bên cạnh đó, PGS.TS Nguyễn Đức Dũng cũng trích dẫn quan niệm của Tiến
sỹ Báo chí Mark Dueze về Báo điện tử “ Báo điện tử là hình thức báo chí kế tiếp
thứ tư sau báo in, báo nói, báo hình nhưng lại có những đặc điểm khác hẳn so với
các loại hình báo chí truyền thống. Báo điện tử sử dụng công nghệ cao như một
nhân tố quyết định. Các phóng viên báo điện tử phải lựa chọn phương tiện nào tốt
nhất để đăng một câu chuyện (tính đa phương tiên), phải đặt ra một không gian,

đường dẫn để tạo sự tương tác giữa tác phẩm và chông chúng (tính tương tác cao),
phải cân nhắc để kết nối, đồng thời mở rộng những câu chuyện, đưa người đọc từ
không gian khác (tính siêu văn bản).
Theo TS Nguyễn Thị Trường Giang trong cuốn Báo mạng điện tử - Đặc
trưng và phương pháp sáng tạo “Báo mạng điện trử là một loại hình báo chí được
xây dựng dưới hình thức một trang web, phát hành trên mạng internet, có ưu thế
trong chuyển tải thông tin một cách nhanh chóng, tức thời, đa phương tiện và tương
tác cao.
Như vậy “Báo điện tử là loại hình báo chí/phương tiện truyền thông đại
chúng ra đời muộn hơn truyền hình, phát thanh và báo in, có khả năng cung cấp
thông tin sống động bằng chữ viết, âm thanh, hình ảnh chỉ trong vài phút đến vài
giây, với số trang không hạn chế. Báo điện tử hội tụ những ưu thế của báo in, báo
nói, báo hình; sử dụng yếu tố công nghệ cao như một nhân tố quyết định, quy trình
sản xuất và truyền tải thông tin dựa trên nền tảng của mạng Internet toàn cầu”.
Mặc dù sinh sau đẻ muộn so với các loại hình báo chí khác nhưng sự ra đời
của báo điện tử đã mở ra một cuộc cách mạng thông tin mới cho nền báo chí hiện
11


đại. Tại Việt Nam, báo điện tử đã nhanh chóng phát triển về sống lượng, chất lượng
và ngày khẳng định được vị trí của mình trong đời sống báo chí, đời sống xã hội của
đất nước, tạo nên một mạng thông tin sôi động.
1.1.2 Đặc điểm của báo điện tử
 Điểm mạnh
BĐT có tác dụng và tiện ích hơn hẳn các loại hình báo chí truyền thống,
dung lượng thông tin rất lớn, tương tác thông tin nhanh, phát hành không bị trở ngại
về thời gian, không gian, biên giới quốc gia. Từ khi ra đời, BĐT nước ta đã góp
phần quan trọng trong việc phổ biến, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; mở rộng hiệu quả thông tin đối ngoại; nâng cao
dân trí và thỏa mãn nhu cầu thông tin, hưởng thụ văn hóa của nhân dân…

Có thể nói rằng, BĐT - kết quả của sự tích hợp giữa công nghệ và truyền
thông, dựa trên nền của internet và sự tích hợp ưu thế của các loại hình báo chí
truyền thống đã đem lại những giá trị rất lớn cho xã hội, cho người dân. BĐT đã tạo
ra bước ngoặt làm thay đổi cách truyền tin và tiếp nhận thông tin
Về truyền tin, sự thay đổi thể hiện ở những góc độ sau:
Thứ nhất, BĐT có những lợi thế về dung lượng truyền tải mà báo in, phát
thanh, truyền hình không thể có được. BĐT không bị giới hạn bởi khuôn khổ, số
trang nên có khả năng truyền tải thông tin không giới hạn. Vì vậy, nó có thể cung
cấp một lượng thông tin lớn , phong phú và chi tiết. Ngoài ra, những thông tin này
còn được BĐT xâu chuỗi lại với nhau theo các chủ đề thông qua siêu liên kết, tạo
điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận thông tin của độc giả. Không những thế,
thông tin trên BĐT còn được lưu trữ lâu dài và khoa học theo ngày tháng, chủ đề,
chuyên mục…tạo thành cơ sở dữ liệu để bạn đọc có thể tìm kiếm nhanh chóng và
hiệu quả.
Thứ hai, BĐT không bị phụ thuộc vào khoảng cách đại lý nên thông tin được
truyền tải khắp toàn cầu. Nó tiếp cận với độc giả khắp mọi nơi, dù đó là thành thị,
nông thôn, vùng sâu, vùng xa miễn nơi đó có đường dây điện thoại, có di động hay
phủ sóng vệ tinh. Ở các nước phát triển, với hạ tầng viễn thông đã rất phát triển,
người dân chỉ cần một sợi cáp nối đến nhà là họ có tất cả các dịch vụ trong đó, từ
điện thoại, truy cập internet bằng thông cộng và xem truyền hình (truyền hình trực

12


tuyến và cả truyền hình thuê bao cáp). Vì thế, BĐT là một phương tiện truyền tải
thông tin dễ dàng, sinh động và trực tiếp.
Thứ ba, BĐT đã tạo ra bước ngoặt về quy trình sản xuất thông tin. Thông tin
từ thu nhận đến khi phát hành đều được diễn ra rất nhanh chóng với những thao tác
hết sức đơn giản. Về lý thuyết, một người có thể làm được tất cả các bước trong một
công đoạn và tất cả các công đoạn trong cả quy trình sản xuất BĐT. Vì vậy, xét về

chi phí cho cả người sản xuất và công chúng đều ít tốn kém hơn các loại hình báo
chí khác.
Thứ tư, BĐT là sự tổng hợp của công nghệ đa phương tiện, nghĩa là nó
không chỉ truyền tải văn bản, hình ảnh như báo in mà cả âm thanh, video như phát
thanh, truyền hình và các chương trình tương tác. Tính năng ba trong một của BĐT
đang và sẽ tạo dựng một sức mạnh truyền thông mới.
Thứ năm, BĐT có tần xuất và tốc độ truyền tin nhanh. Không cần phải chờ
đến giờ ra báo, phát sóng, cứ khi nào có thông tin mới là BĐT đưa lên. Vì vậy,
thông tin trên BĐT liên tục được cập nhật từng giờ, từng phút có thể tức thời và
ngay lập tức. Do đó, BĐT luôn sống 24h/ngày và 7 ngày/tuần.
Thứ sáu, xét về tiềm năng tài chính thì với mật độ sử dụng internet và BĐT
tăng lên hằng ngày, BĐT sẽ nhanh chóng chiếm một thị phần không nhỏ về quảng
cáo. Theo một tính toán thì trong tương lai, quảng cáo trên BĐT sẽ không chỉ cạnh
tranh với báo in mà với cả truyền hình.
BĐT ngày càng có vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội. Bây giờ,
vào mỗi buổi sáng, hình ảnh các nhân viên văn phòng đến cơ quan, bật máy tính,
truy cập vào các trang BĐT sau đó mới làm việc đã trở nên quen thuộc. Điều này
diễn ra ở nhiều nơi: công sở, gia đình, quán cà phê…BĐT đã được chấp nhận không
chỉ ở góc độ đối tượng tiếp nhận là khán giả, độc giả mà ngay cả bản thân những
người làm báo.
Về sự tiếp nhận thông tin của công chúng cũng thay đổi rất nhiều. giờ đây,
công chúng trở thành trung tâm, hoàn toàn chủ động lựa chọn thông tin, thời gian,
không gian trình tự tiếp nhận cũng như cách tiếp cận thông tin cho phù hợp với nhu
cầu và sở thích của mình. Không những thế, công chúng còn được khuyến khích và
tạo cơ hội để tích cực tham gia vào quá trình sản xuất thông tin và truyền tin. Vị trí
của người truyền tin và tiếp nhận thông tin đôi khi được hoán đổi cho nhau. Ngoài
13


ra, nhờ những ưu điểm như khả năng đa phương tiện và tính tương tác cao, BĐT đã

giúp cho mối quan hệ giữa nhà báo và công chúng chặt chẽ hơn thông qua việc mở
các diễn đàn trao đổi, giao lưu trực tuyến, tổ chức hội nghị trực tuyến…
Cùng với các phương tiện thông tin đại chúng khác, BĐT ngày càng phát
triển, đem lại hiệu quả xã hội to lớn. Hơn thế, BĐT còn chắp cánh cho các loại hình
báo chí khác bay xa hơn, giúp khuếch trương hình ảnh mọi nơi, mọi lúc.
BĐT đã và đang có một vị trí xứng đáng, trở thành một món ăn tinh thần
không thể thiếu trong đời sống người dân bởi sức mạnh thực sự của nó. Xu hướng
phát triển của BĐT sẽ như vũ bão trong thời gian tới, số lượng người truy cập ngày
càng tăng lên nhanh chóng khi cước phí internet rẻ tới mức bất cứ ai cũng có thể
đăng ký được. Tuy nhiên sự tồn tại và phát triển của BĐT tử sẽ tạo nên sự cạnh
tranh lành mạnh giữa các loại hình truyền thông.
 Điểm yếu
Như các loại hình báo chí khác, BĐT cũng có những hạn chế nhất định
Thứ nhất, độ chính xác của thông tin: Thông tin được BĐT đưa rất nhanh,
nhiều khi phải chạy đua với thời gian. Do vậy, nhanh thì dễ ẩu. Các loại hình báo
chí khác tránh xu hướng này bằng hàng rào các biên tập viên giỏi nghiệp vụ, kiểm
tra kỹ lưỡng qua nhiều lớp. Nhưng đối với BĐT để cạnh tranh thông tin với các báo
khác, tính chạy đua về thời gian là điều ưu tiên hàng đầu nên có những sai sót không thể
tránh khỏi ví dụ như lỗi chính tả, lỗi câu hoặc thông tin cập nhật tính theo giây.
Thêm nữa, dù đã phát hành, thông tin trên BĐT vẫn có thể chỉnh sửa được
tạo nên tâm lý thiếu cẩn thận ở một bộ phận nhà báo.Vì vậy, độ chính xác của thông
tin trên BĐT nhiều khi không cao bằng thông tin trên các loại hình báo chí khác.
Thứ hai, độ an toàn của thông tin trên báo điện tử bị phụ thuộc quá nhiều vào
công nghệ, toàn bộ nội dung thông tin gần như phụ thuộc vào sự ổn định của hệ
thống máy móc. Vì BĐT chỉ phát hành một bản duy nhất nên khi gặp các sự cố như
cháy, hỏng virút phá hoại, tin tặc tấn công…nội dung lưu trữ có thể bị chỉnh sửa,
làm sai lệch hoặc bí phá hoại hoàn toàn và khó khôi phục lại.
Mỗi ngày có hàng chục nghìn lượt người truy cập vào địa chỉ của các tờ
BĐT, mỗi người để lại dấu vết trên hệ thống gọi là địa chỉ IP, dấu hiệu đó xác định
họ là ai, ở đâu (trong nước hay nước ngoài, thậm chí thông qua vùng địa chỉ của nhà

cung cấp còn biết ở tỉnh nào…). Trong hàng vạn người truy cập vào tờ báo có kẻ
14


thay vì đọc báo lại lục lọi, thâm nhập vào hệ thống, cài đặt lên đó những con
Backdoor (phần mềm cho phép điều khiển từ xa nhằm mục đích phá hoại). Và
không phải công cuộc dò tìm, lục lọi trái phép nào các quản trị mạng của tờ báo
cũng có thể kiểm soát. Vì vậy, nếu các tin tặc chiếm được quyền điều khiển, có
quyền ngang hàng với các quản trị mạng thì khi họ tấn công, tờ báo khó có thể
chống đỡ nổi.
Một kiểu tấn công khác cũng rất đấng sợ, đó là tấn công từ chối dịch vụ
DDoS (Distributed Denis of Service) và Flood. Khi đó các tin tặc lợi dụng băng
thông lớn của những hệ thống mạng trên thế giới như Yahoo, Google… để gửi
những gói tin và yêu cầu truy cập ồ ạt tới hệ thống của tờ báo gây ra hiện tượng
nghẽn mạng, bạn đọc kết nối tờ báo nhưng không thể xem được tin tức gì. Những
cuộc tấn công kiểu nghẽ mạng DDoS hay Flood để ngắt bạn đọc với tờ báo diễn ra
thường xuyên. VnExpress đã từng bị ít nhất 4 lần deface (xóa sạch trang chủ), còn
VietNamNet thì rất nhiều lần.
Thứ ba, vì BĐT đưa ra rất nhiều thông tin nên người đọc nhiều khi bị nhiễu,
choáng ngợp, mất tập trung và đôi khi không có khả năng lựa chọn thông tin nào
tốt, đáng tin cậy cho mình. Thêm nữa, rất nhiều thông tin trên BĐT quá chi tiết, tủn
mủn, sa đà vào giật gân, câu khách.
Có thể thấy nhiều tờ BĐT có những kiểu giật tít bất chấp khi nhân vật của
câu chuyện là bất kỳ ai, không phân biệt già trẻ, giới tính, tuổi tác miễn là thông tin
đó có thể “câu wiew”.
Thứ tư, tâm lý không thư giãn, thoải mái khi tiếp nhận thông tin từ BĐT. Vì
phải sử dụng máy tính có kết nối mạng internet hoặc trong vùng phủ sóng đối với
internet không dây nên không dễ dàng đọc BĐT mọi lúc, mọi nơi.
Thứ năm, BĐT mang tính cá nhân hóa nên khó có thể chia sẻ cho người khác
cùng xem, cùng đọc. BĐT không có khả năng tập hợp quần chúng như phát thanh

hay truyền hình.
Thứ sáu, quản lý thông tin trên BĐT cũng khó khăn hơn các loại hình báo
chí khác. Các diễn đàn nếu tổ chức không tốt rất dễ rất đến sa đà vào những vấn đề
mang tính giật gân, câu khách.

15


Thứ bảy, thông tin từ mạng xã hội đang đe dọa đến tốc độ tin tức của BĐT.
BĐT phải nhanh nhạy hơn nữa, chính xác hơn nữa và biết sử dụng mạng xã hội trở
thảnh công cụ cho mình thay vì thành đối thủ cạnh tranh.
Trong tương lai, BĐT sẽ tiếp tục phát triển mạnh song song cùng tồn tại với
các loại hình báo chí khác, bổ sung những khiếm khuyết mà các loại hình báo chí
truyền thống không thể đạt được và đương nhiên cũng phải tính đến cách khắc phục
những hạn chế của mình.
1.1.3 Vai trò và chức năng của báo điện tử
Trong công tác gìn giữ và phát huy giá trị truyền thống, văn hóa, lịch sử ,
truyền thông là một trong những phương tiện hữu hiệu trong việc lên tiếng, vạch
trần các hành vi vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật. Báo chí là một kênh hữu hiệu
nhất của truyền thông. Báo chí tham gia và giữ vai trò trung tâm trong công tác
truyền thông đại chúng - thông tin về vấn đề thương mại hóa trong các lễ hội truyền
thống dân tộc là thể hiện đúng bản chất và các chức năng cơ bản của hoạt động báo
chí. BĐT là một trong những loại hình báo chí mang đầy đủ những đặc điểm này,
bao gồm:
Thứ nhất, chức năng thông tin - giao tiếp, đảm bảo nhu cầu ngày càng
cao của con người. Thông tin trên các loại hình báo chí không chỉ trở thành
sức mạnh chính trị trong cuộc đấu tranh chính trị - tư tưởng ,đối với sự nghiệp phát
triển kinh tế, khoa học và công nghệ, góp phần hình thành diện mạo văn hóa quốc
gia cũng như nhân cách mỗi con người, mà còn ngày càng đi sâu vào đời thường, đi
vào mọi ngóc ngách của cuộc sống cá nhân và cộng đồng. Thông tin báo chí có thể

là các thông tin thời sự – chính trị, thông tin – chỉ dẫn, thông tin – tư vấn, thông tin
– quảng cáo, thông tin – giải trí được báo chí mang lại cho công chúng một cách khách
quan, chân thực, mới mẻ và nhiều chiều dưới góc nhìn và cách thức thể hiện phong phú.
Thông qua báo chí mà độc giả trong nước và nước ngoài mới biết thực trạng về vấn đề
sử dụng biểu tượng, sản phẩm, linh vật không phù hợp với văn hóa Việt.
Thứ hai, chức năng tư tưởng. Báo chí tham gia vào quá trình tuyên truyền,
quảng bá hệ tư tưởng, làm cho hệ tư tưởng ngày càng lan truyền rộng rãi và chiếm
ưu thế trong đời sống tinh thần của nhân dân. Mỗi nền báo chí, mỗi cơ quan báo chí
có khuynh hướng tư tưởng chủ đạo - khuynh hướng tư tưởng chiếm ưu thế của
mình; thể hiện ở chỗ nó phụng sự cho hệ tư tưởng của giai cấp đó. Báo chí bám sát
16


×