Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Tác động của FDI lên tăng trưởng của các quốc gia khu vực ASEAN mô hình hồi quy ngưỡng tác động cố định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (708.65 KB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ NGỌC ÁNH

TÁC ĐỘNG CỦA FDI LÊN TĂNG TRƯỞNG CỦA
CÁC QUỐC GIA KHU VỰC ASEAN: MÔ HÌNH
HỒI QUY NGƯỠNG TÁC ĐỘNG CỐ ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – 2018
BẢN THẢO LUẬN VĂN THẠC SĨ


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ NGỌC ÁNH

TÁC ĐỘNG CỦA FDI LÊN TĂNG TRƯỞNG CỦA CÁC
QUỐC GIA KHU VỰC ASEAN: MÔ HÌNH HỒI QUY
NGƯỠNG TÁC ĐỘNG CỐ ĐỊNH

Chuyên ngành: Tài chính–Ngân hàng
Mã số: 8340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH THỊ THU HỒNG



TP. Hồ Chí Minh – 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bài luận văn thạc sĩ với chủ đề “Tác động của FDI lên tăng
trưởng của các quốc gia khu vực ASEAN: mô hình hồi quy ngưỡng tác động cố
định” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi theo sự hướng dẫn
của TS Đinh Thị Thu Hồng. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực,
có nguồn gốc rõ ràng và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung và tính trung thực của luận văn này.
TP. Hồ Chí Minh, ngày

tháng

Lê Thị Ngọc Ánh

năm 2018


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
CHƯƠNG 1 -


GIỚI THIỆU ............................................................................... 1

1.1. Đặt vấn đề .................................................................................................. 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu ................................................ 2
1.3. Phương pháp nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ........................................ 3
1.4. Ý nghĩa của nghiên cứu .............................................................................. 3
1.5. Bố cục của đề tài ........................................................................................ 4
CHƯƠNG 2 -

TỔNG QUAN LÝ THUYẾT ...................................................... 5

2.1. Nền tảng lý thuyết về tác động của FDI lên tăng trưởng kinh tế.................. 5
2.1.1. Lý thuyết phụ thuộc (Dependency theory) ........................................... 5
2.1.2. Lý thuyết chiết trung ............................................................................ 6
2.1.3. Mô hình tăng trưởng nội sinh (Endogenous growth) ............................ 7
2.1.4. Lý thuyết tăng trưởng dựa vào đổi mới (Innovation-based growth) ...... 7
2.1.5. Sự lan tỏa công nghệ (Technology spillover) ....................................... 8
2.2. Các nghiên cứu khoa học, lý luận thực nghiệm về mối quan hệ giữa FDI và
tăng trưởng kinh tế ............................................................................................. 11
2.2.1. Vai trò của quản lý nhà nước trong mối quan hệ FDI và tăng trưởng . 11
2.2.2. Các nghiên cứu mối quan hệ FDI và tăng trưởng kinh tế.................... 13
2.2.3. Hiệu ứng ngưỡng giữa FDI và tăng trưởng kinh tế ............................. 23
2.2.4. Mối quan hệ FDI và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam ....................... 25


CHƯƠNG 3 -

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................. 28

3.1. Phương pháp hồi quy ngưỡng tác động cố định ........................................ 28

3.1.1. Mô hình ngưỡng đơn ......................................................................... 28
3.1.2. Mô hình đa ngưỡng............................................................................ 31
3.2. Thiết lập mô hình nghiên cứu ................................................................... 32
3.3. Dữ liệu và biến số..................................................................................... 35
CHƯƠNG 4 -

KẾT QUẢ................................................................................. 39

4.1. Các phân tích cơ bản ................................................................................ 39
4.1.1. Kiểm định đa cộng tuyến ................................................................... 39
4.1.2. Kiểm định tính dừng .......................................................................... 40
4.2. Mô hình tăng trưởng phi tuyến với biến ngưỡng FDI................................ 41
4.2.1. Kiểm định hiệu ứng ngưỡng .............................................................. 41
4.2.2. Xác định số ngưỡng trong mô hình .................................................... 42
4.2.3. Kết quả hồi quy mô hình ngưỡng đơn ................................................ 43
4.3. Mô hình tăng trưởng phi tuyến với biến ngưỡng GOV ............................. 46
4.3.1. Kiểm định hiệu ứng ngưỡng .............................................................. 46
4.3.2. Xác định số ngưỡng trong mô hình .................................................... 46
4.3.3. Kết quả hồi quy mô hình ngưỡng đôi ................................................. 48
CHƯƠNG 5 -

KẾT LUẬN .............................................................................. 51

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Thuật ngữ


Viết đầy đủ tiếng Anh

FDI

Foreign Direct Investment

GDP

Gross Domestic Product

GMM

General Method of Moments

OLS

Ordinary Least Squares

FEM

Fixed Effects Model

Mô hình hiệu ứng cố định

REM

Random Effects Model

Mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên


TAR

Threshold Auto Regressive

Mô hình ngưỡng tự hồi quy

LR

Likelihood ratio

Tỷ số hàm hợp lý

MNCs

Multinational Corporations

Các tập đoàn đa quốc gia

United Nations Conference on

Hội nghị Thương mại và Phát triển

Trade and Development

Liên Hiệp Quốc

Association of Southeast Asian

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam


Nations

Á

Variance Inflation Factor

Hệ số Phóng Đại Phương sai

UNCTAD

ASEAN

VIF

Viết đầy đủ tiếng Việt
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài
Tổng sản phẩm quốc nội
Phương pháp hồi quy/ước lượng
moment tổng quát
Phương pháp hồi quy/ ước lượng
bình phương nhỏ nhất


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 3.1: Các biến số và nguồn dữ liệu. ............................................................... 37
Bảng 3.2: Thống kê mô tả..................................................................................... 38
Bảng 4.1: Kết quả kiểm định đa cộng tuyến.......................................................... 40

Bảng 4.2: Kiểm định tính dừng. ............................................................................ 41
Bảng 4.3: Kiểm định hiệu ứng ngưỡng trong mô hình ngưỡng đơn....................... 42
Bảng 4.4: Xác định số ngưỡng trong mô hình. ...................................................... 42
Bảng 4.5: Giá trị ngưỡng trong mô hình. .............................................................. 43
Bảng 4.6: Kết quả hồi quy mô hình phi tuyến ....................................................... 44
Bảng 4.7: Kiểm định hiệu ứng ngưỡng trong mô hình ngưỡng đơn....................... 46
Bảng 4.8: Xác định số ngưỡng trong mô hình. ...................................................... 47
Bảng 4.9: Giá trị ngưỡng trong mô hình. .............................................................. 48
Bảng 4.10: Kết quả hồi quy mô hình phi tuyến ..................................................... 48


1

CHƯƠNG 1 - GIỚI THIỆU
1.1.

Đặt vấn đề
Thời gian qua, FDI đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế

tại các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là khu vực ASEAN. Nguồn vốn FDI trở
thành động cơ của sự tăng trưởng khi cung cấp nguồn vốn đầu tư cần thiết, tăng tính
cạnh tranh trong ngành công nghiệp quốc gia, cũng như cải thiện tính hiệu quả của
các doanh nghiệp địa phương, thông qua việc áp dụng các công nghệ hiện đại hoặc
đầu tư vào vốn con người và vật chất. FDI góp phần tăng trưởng kinh tế bền vững
vì sự ổn định của nó khi so với các hình thức khác của dòng vốn. Lợi ích của FDI
mang lại bao gồm nguồn vốn, tạo việc làm, tạo điều kiện tiếp cận thị trường nước
ngoài, và tạo ra sự lan tỏa công nghệ và tính hiệu quả cho các doanh nghiệp địa
phương. Việc tiếp cận thị trường nước ngoài, chuyển giao công nghệ và nâng cao
năng lực trong các doanh nghiệp tại quốc gia sở tại được kỳ vọng sẽ làm FDI cải
thiện sự hội nhập nền kinh tế toàn cầu và thúc đẩy tăng trưởng. FDI không chỉ thúc

đẩy hình thành vốn mà còn nâng cao chất lượng vốn cổ phần. Tuy nhiên, nhiều
nghiên cứu cũng cho thấy mặt trái mà FDI mang lại, nó có thể dẫn đến hiệu ứng lấn
áp của các doanh nghiệp bản địa, ảnh hưởng bất lợi đến độ mở thương mại của một
quốc gia do hậu quả của việc chuyển lợi nhuận về nước (Hill, 2003).
Các bằng chứng thực nghiệm về tác động của FDI đối với hiệu quả kinh tế vẫn
chưa thống nhất. Trong khi một số nghiên cứu chỉ ra tác động tích cực của FDI đối
với tăng trưởng kinh tế (Agosin and Mayer, 2000; Falki, 2009), thì các nghiên cứu
khác lại chỉ ra kết quả ngược lại (Seldon and Song, 1994; OECD, 2001; Herman và
cộng sự, 2004). Nhóm nghiên cứu thứ ba cho rằng ảnh hưởng của FDI đối với nền
kinh tế còn tùy thuộc vào năng lực hấp thụ của quốc gia, năng lực con người, mức
độ phát triển kinh tế, phát triển tài chính (Borensztein và cộng sự, 1998; Hermes
and Lensink, 2003; Alfaro và cộng sự, 2004). Nói cách khác, mức độ FDI đóng góp
vào tăng trưởng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm các yếu tố trên, tỷ lệ tiết kiệm
ở quốc gia sở tại, mức độ mở cửa và mức độ phát triển công nghệ cùng nhiều yếu tố


2

khác. Do đó, FDI sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế nếu quốc gia sở tại
có tỷ lệ tiết kiệm cao; cơ chế thương mại mở và trình độ công nghệ cao (Akinlo,
2004).
Ngoài ra, khung thể chế quốc gia, chất lượng quản lý nhà nước có thể tạo ra
khả năng hấp thụ thu hút FDI lý tưởng. Quản lý nhà nước được định nghĩa rộng rãi
là “các truyền thống và thể chế xác định cách thức thực thi quyền lực ở một quốc
gia” (Kaufmann và cộng sự, 2005). Tuy nhiên, mối quan hệ giữa quản trị nhà nước
và tăng trưởng là mơ hồ ở hầu hết các nước đang phát triển, không ngoại trừ khu
vực ASEAN. Điều này là do sự tồn tại của các ràng buộc về cấu trúc và tài khóa
cũng như các hạn chế khác (Raheeem and Oynilola, 2013). Quản lý nhà nước tốt
luôn là yếu tố được các tổ chức quốc tế đánh giá cao là một trong những điều kiện
tiên quyết đưa nền kinh tế cất cánh (Litjobo, 2005). Một lượng lớn nghiên cứu thời

gian qua cho thấy chất lượng quản lý nhà nước thấp cản trở tăng trưởng và đầu tư,
và làm trầm trọng thêm hậu quả của đói nghèo và bất bình đẳng. Trên thực tế, quản
lý nhà nước tốt là nền tảng cho các nỗ lực cải thiện cơ sở hạ tầng, thu hút đầu tư và
nâng cao tiêu chuẩn giáo dục. Ngược lại, quản lý nhà nước yếu kém đặt ra thách
thức không nhỏ trong mục tiêu phát triển và duy trì tăng trưởng kinh tế trong tương
lai (Roy, 2005).
Lý do giải thích cho sự khác biệt trong kết luận của các nghiên cứu trước đây
có thể liên quan đến sự khác biệt về mẫu, thời gian, hiệu ứng cụ thể của quốc gia
trong các nghiên cứu dữ liệu chéo. Đặc biệt, cách tiếp cận tuyến tính thông thường
không đủ hiệu quả trong việc phân tích mối quan hệ này, nói một cách khác, mối
quan hệ giữa FDI và tăng trưởng có thể phi tuyến. Do đó, xuất phát từ thực tế trên ý
tưởng của nghiên cứu này là mối quan hệ phi tuyến giữa FDI và tăng trưởng, cũng
như vai trò của quản lý nhà nước trong mối quan hệ này.

1.2.

Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu cung cấp một số đóng góp mới cho những tranh luận hiện

nay về mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế, góp phần lấp đầy những


3

khoảng trống trong nghiên cứu tác động của FDI lên tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu
chính của nghiên cứu nhằm xem xét mối quan hệ giữa FDI, tăng trưởng kinh tế và
vai trò của quản lý nhà nước đối với mức đố hấp thụ FDI ảnh hưởng lên tăng trưởng
của nền kinh tế. Trên cơ sở nghiên cứu nói trên đề tài hướng đến tìm câu trả lời cho
các câu hỏi sau đây:
i) Bản chất mối quan hệ giữa quản lý nhà nước và FDI trong quá trình tăng

trưởng kinh tế của một quốc gia có phải là mối quan hệ phi tuyến hay không?
iii) Giá trị ngưỡng của biến quản lý nhà nước và FDI là bao nhiêu thì sẽ tác
động tích cực hay tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế?
iii) Có phải hấp thụ FDI càng nhiều, tăng trưởng kinh tế càng cao, càng nâng
cao chất lượng quản lý nhà nước càng tăng hiệu quả mà FDI mang lại cho nền kinh
tế hay không?

1.3.

Phương pháp nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện, tác giả áp dụng mô hình hiệu ứng cố định ngưỡng (threshold

FEM). Ưu điểm của phương pháp này là khả năng xác định mức ngưỡng quản lý
nhà nước và ngưỡng hấp thụ dòng vốn FDI để đạt được mối quan hệ tích cực giữa
FDI và tăng trưởng.
Phạm vi của nghiên cứu này được giới hạn trong 9 quốc gia ASEAN, gồm
Brunei, Singapore, Malaysia, Philippines, Campuchia, Indonesia, Việt Nam, Thái
Lan và Lào trong khoảng thời gian từ 2002 đến 2016.

1.4.

Ý nghĩa của nghiên cứu
Đóng góp chính của nghiên cứu này gồm có hai phần:
Đầu tiên, khác với nghiên cứu trước đây của Nguyen and To (2017) khi xem

xét mỗi biến ngưỡng FDI. Nghiên cứu lần này còn xem xét vai trò của các ngưỡng
quản lý nhà nước đến hiệu quả tác động của FDI lên tăng trưởng kinh tế. Vì vậy,
nghiên cứu cung cấp các hiểu biết mới về bản chất mối quan hệ giữa quản lý nhà
nước, FDI và tăng trưởng kinh tế.



4

Thứ hai, các nghiên cứu trước đây thường đề cập mối quan hệ tuyến tính giữa
FDI và tăng trưởng kinh tế, dẫn đến các kết quả thiếu nhất quán về mối quan hệ
giữa hai biến số này. Vì vậy, trong nghiên cứu này sẽ xem xét đặc tính phi tuyến
giữa các biến cơ sở khi sử dụng mô hình hồi quy ngưỡng hiệu ứng cố định của
Wong (2015). Qua đó, làm rõ được bản chất của mối quan hệ.

1.5.

Bố cục của đề tài
Để trả lời cho các câu hỏi nêu trên bố cục bài nghiên cứu chia thành 05 phần:
Chương 1: giới thiệu sơ lược về đề tài, nội dung nghiên cứu cũng như lý do

thực hiện đề tài, mục tiêu, phạm vi và phương pháp nghiên cứu, ý nghĩa thực tiễn
của đề tài nghiên cứu.
Chương 2: khái quát về tổng quan lý thuyết, trình bày các nghiên cứu khoa
học và lý luận thực nghiệm.
Chương 3: thảo luận về phương pháp nghiên cứu, mô tả dữ liệu và thiết lập
mô hình.
Chương 4: xem xét các phân tích cơ bản và trình bày kết quả thực nghiệm
tương ứng.
Chương 5: đưa ra các kết luận và hàm ý chính sách.


5

CHƯƠNG 2 - TỔNG QUAN LÝ THUYẾT


Khác biệt dòng vốn FDI cùng sự chênh lệch tăng trưởng kinh tế giữa các quốc
gia đã tạo động lực nghiên cứu suốt nhiều thập kỷ qua. Tuy số lượng các nghiên
cứu thực nghiệm cùng lý thuyết liên quan đến tác động của FDI lên tăng trưởng
kinh tế khá phong phú; tuy vậy, bằng chứng hiện nay lại chưa cho thấy sự thống
nhất. Một số nghiên cứu cho thấy sự lan tỏa dương (positive spillover) từ FDI lên
tăng trưởng kinh tế; một số khác lại kết luận về tác động tiêu cực; thậm chí, một số
trường hợp, FDI không tác động (về mặt thống kê) lên tăng trưởng kinh tế tại một
số quốc gia. Trong chương này, tác giả tiến hành trình bày các nghiên cứu lý thuyết
và thực nghiệm nhằm xác định mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế.

2.1.

Nền tảng lý thuyết về tác động của FDI lên tăng trưởng kinh tế
Nổi bật trong các lý thuyết lý giải về mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng

phải kể đến là lý thuyết tăng trưởng kinh tế nội sinh và lý thuyết chiết trung. Để giải
thích tác động của FDI đối với sự phát triển kinh tế của quốc gia tiếp nhận, các quan
điểm lý thuyết có thể được chia thành các nhóm như sau: lý thuyết hiện đại (lý
thuyết tăng trưởng nội sinh và tăng trưởng dựa trên đổi mới), lý thuyết chiết trung,
lý thuyết phụ thuộc và lý thuyết về lan tỏa công nghệ.
2.1.1. Lý thuyết phụ thuộc (Dependency theory)
Lý thuyết phụ thuộc dựa trên tư tưởng Mác-xít. Các học giả của lý thuyết này
cho rằng các nền kinh tế đang phát triển phải đối mặt với tác động tiêu cực từ đầu tư
nước ngoài do việc chuyển đổi lợi nhuận về nước, giảm tái đầu tư và bất bình đẳng
thu nhập. Do đó, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào làm “kìm chân” các
doanh nghiệp địa phương, ngăn cản sự đổi mới công nghệ và lấn áp các doanh
nghiệp nội địa (Dixon and Boswell, 1996). Dixon and Boswell (1996) cũng kết luận
rằng, FDI cho thấy tác động tích cực đến tăng trưởng lúc ban đầu, nhưng về lâu về
dài sự phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài lại mang đến tác động tiêu cực lên tăng



6

trưởng: sự lan tỏa âm (negative spillover) bất bình đẳng thu nhập, thất nghiệp, đô
thị hóa quá mức (over-urbanization).
Tương tự, Moran (1978) cho rằng, các nhà đầu tư nước ngoài vô hiệu hóa quá
trình chính trị (political process) của quốc gia sở tại bằng cách thao túng tầng lớp
tinh hoa và (hoặc) sử dụng ảnh hưởng của họ tại quốc gia mình. Cũng có ý kiến cho
rằng lợi ích của FDI được phân bổ kém giữa các tập đoàn đa quốc gia
(Multinational Corporations – MNCs) và quốc gia sở tại, các MNC thu được thặng
dư kinh tế vượt trội nhờ vào sự phát triển tài chính quốc tế. Các nhà kinh tế học chủ
yếu đề xướng lý thuyết phụ thuộc của FDI và tác động của nó đối với phát triển
kinh tế ở các quốc gia đang phát triển trong suốt những năm 1970 và 1980.
Hơn nữa, đóng góp vào lý thuyết phụ thuộc, nghiên cứu Kentor (1998) thực tế
ủng hộ rằng các quốc gia có sự phụ thuộc tương đối cao vào vốn nước ngoài (được
đo lường bằng chứng khoán nước ngoài tích lũy – accumulated foreign stock) cho
thấy tăng trưởng kinh tế chậm hơn so với các quốc gia ít phụ thuộc. Kết quả trên
được xác nhận bởi những phát hiện của Dixon and Boswell (1996). Kentor (2003)
sử dụng cách đo lường “nồng độ” đầu tư nước ngoài khác, được tính bằng tỷ lệ
phần trăm tổng số tích lũy FDI (FDI stock)1 của các quốc gia tài chính hàng đầu; kết
quả vẫn là tác động tiêu cực dài hạn. Theo Kentor (2003), phụ thuộc đầu tư nước
ngoài nhiều ảnh hưởng tiêu cực dài hạn đến tăng trưởng; tác động dữ dội trong 5
năm đầu và suy giảm theo thời gian.
2.1.2. Lý thuyết chiết trung
Lý thuyết chiết trung (the Eclectic Theory of FDI) được phát triển bởi
Dunning (1988) trên cơ sở kết hợp các giả thuyết về tổ chức doanh nghiệp, nội bộ
hóa và lợi thế địa điểm để lý giải về FDI. Lý thuyết này cung cấp một phương pháp
phân tích khác về mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế. Dựa trên phân tích
về lợi thế cạnh tranh lý thuyết đã chỉ ra rằng, việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp


1

Foreign Direct Investment (FDI) stocks đo lường tổng mức đầu tư trực tiếp tại thời gian cho trước, thường
trong cuối một quý hoặc một năm (Theo />

7

nước ngoài (FDI) phụ thuộc rất nhiều vào các nhân tố và đặc tính của nước sở tại.
Ví dụ, Chakrabarti (2001) tranh luận rằng tăng trưởng cao tại các nước sở tại sẽ thu
hútđược nhiều nhà đầu tư nước ngoài đến tìm hiểu thị trường và đầu tư.
2.1.3. Mô hình tăng trưởng nội sinh (Endogenous growth)
Lý thuyết tăng trưởng nội sinh được Romer (1986) giới thiệu lần đầu và tác
giả được xem là một trong những người đóng góp chính cho lý thuyết này. Lý
thuyết cho rằng, vốn FDI đóng vai trò thiết yếu đối với tăng trưởng kinh tế nhờ vào
quá trình đào tạo lao động và trang bị kỹ năng, thông qua tích lũy vốn và chuyển
giao công nghệ. Theo lý thuyết này, chuyển giao công nghệ, mở rộng mức độ kiến
thức được tăng lên thông qua đào tạo và kỹ năng của đội ngũ lao động. Thông qua
việc trình bày ứng dụng thực tế quản lý (management practice) và sắp xếp tổ chức
(organizational arrangement) khác, các doanh nghiệp nội địa có thể mô phỏng FDI.
Như vậy, FDI có thể dẫn đến tăng trưởng sản lượng bằng cách tăng năng suất nhân
tố tổng hợp TFP (Total Factor Productivity) nhờ vào sự phân bổ công nghệ và tăng
hiệu quả thông qua tiếp thị, cơ cấu quản lý và công nghệ vượt trội tốt hơn
(Blomstrom và cộng sự, 1996; Borenztin và cộng sự, 1995; De Mello, 1997, 1999).
Ngoài ra, lý thuyết tăng trưởng nội sinh cho thấy các điều kiện quốc gia (country
condition) liên quan đến FDI như sự phụ thuộc lẫn nhau giữa đầu tư trong và ngoài
nước, mức vốn con người thích hợp, chế độ thương mại mở và thị trường tài chính
phát triển tốt có tác động tích cực đến tăng trưởng.
2.1.4. Lý thuyết tăng trưởng dựa vào đổi mới (Innovation-based growth)
Mô hình tăng trưởng dựa vào đổi mới được xây dựng xuất phát từ động lực
phát triển kinh tế là sự đổi mới hoặc phát triển từ các sản phẩm đã có. Mô hình dựa

trên lý thuyết cho rằng sự tăng trưởng vốn được thúc đẩy nhờ sự đổi mới; cụ thể,
đổi mới đóng vai trò quan trọng, bởi vì nó thúc đẩy thị trường, do đó, tăng tính cạnh
tranh và nâng cao phát triển kinh tế (Mankiw and Taylor, 2008). Grossman and
Helpman (1994) chuyển đổi mô hình thành khung lý thuyết mô tả cách thức sự đổi
mới tạo ra tăng trưởng dài hạn ở quốc gia tiếp nhận (FDI). Mô hình đề cập các nhà


8

cải cách có xu hướng tìm ra các phương pháp sản xuất hiệu quả hơn bằng cách cải
tiến các sản phẩm và dịch vụ hiện có cùng với việc thiết kế các sản phẩm và dịch vụ
mới. Sự thay đổi này tạo nên thành công cho doanh nghiệp đổi mới trên thị trường,
và do đó, thúc đẩy các nhà đầu tư tiến hành RandD (nghiên cứu và phát triển). Khi
đó, các doanh nghiệp sẽ điều chỉnh giá bán trên các sản phẩm và dịch vụ nhằm
trang trải chi phí sản xuất và RandD. Vì vậy, kết quả là nguồn vốn tương lai luôn
sẵn có để phục vụ quá trình đổi mới và nghiên cứu (Grossman and Helpman, 1994).
Theo Grossman and Helpman (1994), ảnh hưởng của thể chế ở các quốc gia có
bảo vệ quyền tài sản được nhấn mạnh, các nhà phát minh có được quyền và bảo vệ
riêng biệt đối với các phát minh của mình. Do đó, việc bảo vệ tốt quyền sở hữu là
rất quan trọng để khuyến khích đầu tư vào RandD, vì nó giúp doanh nghiệp đổi mới
đạt được thị phần và tạo ra lợi nhuận chừng nào doanh nghiệp cạnh tranh khác cải
thiện sự đổi mới đó. Hơn nữa, do tiến bộ trong sản xuất và công nghệ, kỹ năng lao
động trong nền kinh tế cũng được cải thiện, đồng nghĩa vốn con người cũng tăng
theo thời gian (Grossman and Helpman, 1994).
Graham and Krugman (1991) ủng hộ giả định rằng FDI hiệu quả hơn đầu tư
trong nước tại các quốc gia đang phát triển. Giả định này dựa trên niềm tin rằng các
doanh nghiệp nội địa có bí quyết và cách tiếp cận thị trường trong nước tốt hơn so
với các doanh nghiệp nước ngoài. Vì vậy, nếu doanh nghiệp nước ngoài quyết định
tham gia thị trường, nó phải hoàn trả những lợi thế được sử dụng bởi các doanh
nghiệp trong nước. Tương tự, một doanh nghiệp nước ngoài quyết định đầu tư vào

một quốc gia khác có lợi thế từ chi phí thấp hơn và hiệu quả sản xuất cao hơn so với
các đối thủ cạnh tranh trong nước. Trong khi đó, trong trường hợp các quốc gia
đang phát triển, sự kết hợp của các kỹ năng quản lý tiên tiến và công nghệ hiện đại
hơn sẽ dẫn đến hiệu quả FDI cao hơn (Graham and Krugman, 1991).
2.1.5. Sự lan tỏa công nghệ (Technology spillover)
Các mô hình FDI và sự lan tỏa dương được trình bày chi tiết từ những năm
1970. Nghiên cứu sơ bộ của Hymer (1976) đưa ra giả thuyết về sự khác biệt quốc tế


9

giữa các doanh nghiệp ở các cấp độ khoa học và công nghệ do sự chuyển giao và
lan tỏa công nghệ gây nên. Theo Hymer, FDI được xét là phần mở rộng quốc tế của
lý thuyết tổ chức công nghiệp (industrial organization theory) khi giả định FDI là
quá trình chuyển giao một “gói tổng hợp” gồm vốn, quản lý và công nghệ mới.
Nghiên cứu của Koizumi and Kopecky (1977) đặt nền móng giải thích việc chuyển
giao công nghệ từ công ty mẹ sang công ty con. Khi xem xét bối cảnh này, chuyển
giao khoa học và công nghệ xác định năng suất ở quốc gia sở tại. Câu hỏi tại sao
một số quốc gia phát triển nhanh hơn những quốc gia khác có thể được hiểu rõ bởi
bản chất của lan tỏa công nghệ. Sự lan tỏa công nghệ từ doanh nghiệp nước ngoài
sang doanh nghiệp nội địa có thể thực hiện thông qua nhiều kênh sau.
2.1.5.1.

Kỹ năng (Skill)

Thứ nhất, chuyển giao kiến thức có thể diễn ra thông qua di chuyển lao động
(Fosfuri và cộng sự, 2001; Glass and Saggi, 2002). Người lao động được đào tạo
của các MNCs có kiến thức và trang bị kỹ năng có thể chuyển sang các công ty
trong nước. Các công ty nước ngoài sẽ cố gắng ngăn chặn “chảy máu chất xám”
bằng cách chi trả mức lương hấp dẫn nhằm giữ chân người lao động giỏi và để thu

hút lao động lành nghề từ các công ty trong nước (Sinani and Meyer, 2004).
2.1.5.2.

Hiệu ứng trình diễn (Demonstration effect)

Thứ hai, các doanh nghiệp trong nước có thể “sao chép” thành thạo công nghệ
sản xuất, cách thức quản lý và tiếp thị của các doanh nghiệp nước ngoài. Sự quan hệ
giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước dẫn đến việc vận dụng các công nghệ và
thực tiễn kinh doanh hiện đại tốt hơn, như hoạt động hàng tồn kho JIT2 và các
chương trình bảo hiểm chất lượng (quality assurance – QA). Các doanh nghiệp
trong nước miễn cưỡng áp dụng công nghệ đắt tiền và họ sẽ có nhiều khả năng làm
như vậy khi thấy các doanh nghiệp nước ngoài sử dụng công nghệ thành công. Đó
được coi là “hiệu ứng trình diễn” (Wang and Blomström, 1992).

2

Just-In-Time (JIT) tóm gọn là” Đúng sản phẩm - đúng số lượng - đúng nơi - đúng thời điểm cần thiết”.


10

2.1.5.3.

Hiệu ứng cạnh tranh (Competitive effect)

Sự tham gia của các đối thủ nước ngoài dẫn đến sự cạnh tranh khốc liệt trong
thị trường nội địa (Caves, 1974; Wang and Blomström, 1992). Cạnh tranh làm cho
các công ty trong nước bắt buộc phải sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn và áp dụng
các công nghệ sản xuất tiên tiến, dẫn đến tăng năng suất. Tuy nhiên, cạnh tranh
cũng có thể tạo ra lan tỏa âm. Do cạnh tranh quá mức làm hạn chế sức mạnh thị

trường của các doanh nghiệp trong nước và làm thị phần của họ có thể bị sụt giảm
nghiêm trọng. Thị phần suy giảm kéo theo công suất vận hành hiện tại cũng giảm
theo, hoặc sử dụng phương tiện sản xuất nhỏ hơn; các doanh nghiệp trong nước sẽ
phải vận hành quy mô kém hiệu quả đồng thời khuếch tán ưu thế đổi mới công nghệ
cho người tiêu dùng quốc gia khác.
2.1.5.4.

Kênh liên kết (Linkages)

Kênh lan tỏa cuối cùng bao gồm các liên kết ngược (backward linkage) và
thuận (forward linkage) giữa các công ty nước ngoài và trong nước. Sự lan tỏa có
thể ngang (horizontal) hoặc đứng (vertical). Sự lan tỏa ngang làm tăng năng suất
của các doanh nghiệp trong nước có cùng vị trí trong chuỗi cung ứng giống như các
công ty cạnh tranh nước ngoài. Sự lan tỏa dọc có thể tồn tại giữa các nhà cung cấp
đầu vào trung gian trong nước và các khách hàng đa quốc gia của họ (liên kết
ngược), hoặc giữa các nhà cung cấp đầu vào nước ngoài và khách hàng trong nước
của các đầu vào trung gian (liên kết thuận). Những hiệu ứng liên kết này đã được
xác định bởi Lall (1978) và Clare (1996). Borensztein và cộng sự (1998) lập luận
rằng FDI làm tăng phạm vi và chất lượng của hàng hóa trung gian, từ đó tăng năng
suất.
Cuối cùng, các học giả về lý thuyết hiện đại, một mặt, cho rằng FDI làm tăng
mức thu nhập và tạo cơ hội việc làm cho quốc gia tiếp nhận, từ đó tăng cường tăng
trưởng kinh tế tổng thể. Mặt khác, các học giả lý thuyết phụ thuộc cho rằng các
MNCs có thể ngăn chặn phát triển kinh tế bằng cách “bóp nghẹt” các doanh nhân
địa phương, giảm phân phối thu nhập, giảm phúc lợi người tiêu dùng và đưa vào mô


11

hình tiêu thụ (consumption patterns) không đầy đủ ở quốc gia tiếp nhận. Ngoài ra,

tác động của FDI không phải là một thực tế cho trước, nó còn phụ thuộc đáng kể
vào quốc gia tiếp nhận, như sự ổn định môi trường, chính trị và kinh tế vĩ mô, năng
lực thể chế, cơ sở hạ tầng và hệ thống giáo dục.

2.2.

Các nghiên cứu khoa học, lý luận thực nghiệm về mối quan hệ giữa

FDI và tăng trưởng kinh tế
Phần tiếp theo trình bày các lý luận thực nghiệm về tác động của FDI lên tăng
trưởng. Theo Seetanah và cộng sự (2005), tác động của FDI trong các nghiên cứu
thực nghiệm vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Trong khi nhiều nghiên cứu quan sát tác
động tích cực của FDI đến tăng trưởng kinh tế, một số khác lại khẳng định mối
quan hệ tiêu cực. Thật kỳ lạ, bằng chứng thực nghiệm về những lợi ích này ở cấp độ
doanh nghiệp và ở cấp quốc gia vẫn còn mơ hồ. Phần lớn các nghiên cứu, tuy nhiên,
kết luận rằng FDI đóng góp vào tổng sản lượng và tăng trưởng kinh tế.
2.2.1. Vai trò của quản lý nhà nước trong mối quan hệ FDI và tăng trưởng
Các tổ chức khác nhau đã đưa ra các cách thức đo lường khác nhau về quản trị
nhà nước, trong đó có Chính sách quốc gia và Đánh giá thể chế (Country Policy and
Institutional Assessment–CPIA); Cẩm nang Rủi ro Quốc gia Quốc tế (International
Country Risk Guide–CRG); Minh bạch Quốc tế và Quản trị Ngân hàng Thế giới
(Transparency International and World Bank – KKZ). Điều quan trọng cần lưu ý là
Minh bạch Quốc tế giới hạn định nghĩa quản lý nhà nước chỉ là tham nhũng trong
khi những tổ chức khác xác định theo nghĩa rộng hơn.
Quản lý nhà nước tốt được định nghĩa bao gồm một hệ thống pháp lý hiệu quả,
công bằng và bảo vệ minh bạch quyền tài sản và cá nhân; các tổ chức công cộng ổn
định, đáng tin cậy và trung thực; và các chính sách của chính phủ ủng hộ thị trường
tự do và mở cửa (Chandra và Yokoyama, 2011). Những điều kiện này khuyến khích
FDI cũng như đầu tư tư nhân trong nước, bằng cách bảo vệ tài sản tư nhân từ sự
chiếm hữu trực tiếp hoặc gián tiếp. Nói chung, các chỉ số “quản lý tốt” có sáu khía

cạnh: i) Tiếng nói và trách nhiệm giải trình, ii) Tính ổn định chính trị và sự vắng


12

mặt bạo lực, khủng bố, iii) Hiệu quả của Chính phủ, iv) Chất lượng quy định, v)
Quy tắc pháp luật và vi) Kiểm soát tham nhũng (Kaufmann và cộng sự, 1999).
Matthias and Griozard (2006) nắm bắt biến quản lý nhà nước, đo lường bằng
quy định kinh doanh và lao động trong phân tích dữ liệu của 84 quốc gia trong giai
đoạn 1994–2003. Kết quả khẳng định rằng quản lý nhà nước cũng là một yếu tố
quyết định của FDI bên cạnh các yếu tố trình độ học vấn và phát triển thị trường tài
chính theo nghiên cứu của Borensztein và cộng sự (1998) và Alfaro và cộng sự
(2004). Tác động tích cực của FDI đối với tăng trưởng còn tùy thuộc “… chính phủ
đầu tiên phải giải quyết khung thể chế và khung pháp lý ở nước họ”.
Trong nghiên cứu của Globerman and Shapiro (2003), một biến liên quan đến
quản lý nhà nước là tư nhân hoá cũng được xác định là yếu tố quyết định quan trọng
của FDI. Holland and Pain (1998) xác định quá trình tư nhân hóa là một trong
những yếu tố quyết định chính của mức đầu tư trực tiếp trong những năm đầu của
quá trình chuyển đổi. Cụ thể, đối với 11 nền kinh tế châu Âu trong giai đoạn 1992–
1996, các tác giả thấy rằng các chỉ số tư nhân hóa có liên quan tích cực đến các mức
FDI trong nước. Carstensen and Toubal (2003) cũng nhận thấy rằng mức độ tư nhân
hoá đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định dòng vốn FDI vào các quốc gia
Trung và Đông Âu trong giai đoạn những năm 1990.
Ford và cộng sự (2010) xem xét các chỉ số quản lý nhà nước riêng lẻ của
Trung Quốc giai đoạn 1970 đến 2005. Cả hai phương pháp TSLS và GMM được sử
dụng. Kết quả cho thấy rằng tất cả các chỉ số quản lý nhà nước riêng lẻ đều có lợi
cho tăng trưởng kinh tế. Tự do hoá thương mại và chi tiêu chính phủ cho giáo dục là
hai chính sách của chính phủ có ảnh hưởng đến FDI. Tuy nhiên, kết quả cũng kết
luận rằng ngay cả khi quản lý nhà nước tốt, FDI chưa chắc tác động tích cực đến
tăng trưởng.



13

2.2.2. Các nghiên cứu mối quan hệ FDI và tăng trưởng kinh tế
Trong số các nghiên cứu có tầm ảnh hưởng, Borensztein và cộng sự (1998) đã
thử nghiệm tác động của FDI đối với tăng trưởng kinh tế trong khuôn khổ hồi quy
chéo cho 69 quốc gia đang phát triển. Kết quả cho thấy, đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) thực tế là một phương tiện chuyển giao công nghệ quan trọng, góp phần tăng
trưởng nhiều hơn so với đầu tư trong nước.
Phân tích liệu FDI có kích thích tăng trưởng kinh tế tại khu vực cận Sahara
(thuộc châu Phi) hay không, Mutenyo (2008) nhận thấy FDI tác động tích cực đến
tăng trưởng kinh tế nhưng giá trị của nó giảm khi ông xét đến vai trò đầu tư tư nhân.
De Gregorio (2003), đóng góp cho cuộc tranh luận về tầm quan trọng của FDI, lưu
ý rằng FDI cho phép một quốc gia trang bị công nghệ, kiến thức chưa có trước đây
cho nhà đầu tư trong nước và bằng cách này thúc đẩy được tăng trưởng năng suất
trong toàn nền kinh tế. Trước đó, De Gregorio (1992) phân tích bảng dữ liệu của 12
quốc gia Mỹ Latinh trong giai đoạn 1950–1985, kết quả cho thấy tác động tích cực
và đáng kể của FDI lên tăng trưởng. Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy hiệu quả
của FDI cao hơn hiệu quả của đầu tư trong nước.
Tương tự, Campos and Kinoshita (2002) nghiên cứu tác động của FDI lên 25
nền kinh tế chuyển tiếp của Khối Liên Xô cũ. Kết quả tương đồng với những kết
quả của Borensztein và cộng sự (1998) khi cho thấy FDI là một yếu tố quan trọng
trong tăng trưởng kinh tế. Dees (1998) cho rằng FDI là yếu tố quan trọng trong việc
giải thích tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc, trong khi De Mello (1997) chỉ ra
mối tương quan dương cho các quốc gia Mỹ Latinh. Nyatepe-Coo (1998) cũng đánh
giá đóng góp của FDI vào tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia Đông Nam Á, Mỹ
Latinh và cận Sahara trong giai đoạn 1963–1992. Tác giả cho thấy FDI thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế ở phần lớn trong số 12 quốc gia được chọn.
Sử dụng dữ liệu kinh tế vĩ mô hàng năm của Thái Lan trong giai đoạn 1970–

1999 và thêm biến độ mở xuất khẩu (export openness), Kohpaiboon (2003) cho thấy
FDI có tương quan thuận với tăng trưởng GDP ở Thái Lan. Tương tự, Marwah and


14

Tavakoli (2004) đánh giá riêng cho Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan;
kết quả cho thấy FDI có tác động tích cực đến tăng trưởng GDP cho cả 4 quốc gia.
De Mello (1999) cố gắng tìm kiếm các bằng chứng hỗ trợ giả thuyết tăng
trưởng dựa vào FDI (FDI-led growth hypothesis), dựa vào phân tích chuỗi thời gian
và ước lượng bảng cho mẫu của 32 thành viên OECD và không thuộc OECD, trong
giai đoạn 1970–1990. Nghiên cứu ước tính tác động của FDI đến vốn tích lũy và
tăng trưởng sản lượng trong nền kinh tế tiếp nhận. Tương tự, Wang (2002) sử dụng
dữ liệu của 12 nền kinh tế châu Á trong giai đoạn 1987–1997, và thấy rằng tổng
dòng vốn vào FDI (FDI inflows) ảnh hưởng đáng kể đến tăng trưởng kinh tế. Phân
loại các dòng vốn đổ vào các nền kinh tế này, tác giả thấy rằng chỉ FDI trong lĩnh
vực sản xuất có tác động đáng kể và tích cực đến tăng trưởng kinh tế và đóng góp
tích cực cho hiệu ứng lan tỏa của FDI.
Li and Liu (2005) cũng nghiên cứu giả thuyết ở cả các quốc gia phát triển và
đang phát triển bằng mẫu dữ liệu chéo trong giai đoạn 1970–1999. FDI và tăng
trưởng kinh tế bổ sung đáng kể cho nhau và hình thành mối quan hệ nội sinh từ giữa
những năm 1980. Li và Liu nhận thấy có sự liên kết bổ sung mạnh mẽ giữa FDI và
tăng trưởng kinh tế ở cả các quốc gia phát triển và đang phát triển. Các tác giả cũng
cho thấy rằng FDI không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trực tiếp mà còn gián tiếp
thông qua vốn con người, do đó tạo điều kiện cải thiện kỹ năng quản lý của các
doanh nghiệp địa phương. Hơn nữa, FDI kích thích phát triển và nhân rộng các kỹ
thuật công nghệ thông qua các tập đoàn đa quốc gia, chuyển giao nội bộ và thông
qua các mối liên kết và lan tỏa giữa các doanh nghiệp (Borensztein và cộng sự,
1998). Nghiên cứu trước đó của De Gregorio (1992) với dữ liệu của 12 quốc gia Mỹ
Latinh; Blomstrom và cộng sự (1994); Bende-Nabende và cộng sự (2003) cũng

nhận thấy rằng sản lượng của các quốc gia kém phát triển phản ứng nhiều hơn với
các biến FDI và nguồn nhân lực so với các quốc gia tiên tiến.
Balasubramanyan và cộng sự(1996) chỉ ra sự tương tác thuận giữa vốn nhân
lực và FDI. Trước đó, các tác giả tìm thấy những kết quả đáng kể hỗ trợ giả định


15

rằng FDI là yếu tố quan trọng hơn cho tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia thúc đẩy
xuất khẩu (export-promoting) khi so với các quốc gia phụ thuộc nhập khẩu (importsubstituting). Kết quả cho thấy: i) tác động của FDI thay đổi giữa các quốc gia và ii)
chính sách thương mại có thể ảnh hưởng đến vai trò của FDI trong nền kinh tế.
Mức độ phát triển cao cho phép các quốc gia gặt hái thành quả của đầu tư
nước ngoài. Các quốc gia có nguồn vốn con người tốt hơn hưởng lợi từ FDI nhiều
hơn, do quá trình chuyển giao công nghệ (hiệu ứng lan tỏa), so với các quốc gia có
vốn con người kém hơn. Do đó, các tác giả cho rằng sự khác biệt về khả năng hấp
thu nhân lực và công nghệ có thể giải thích sự thay đổi trong tác động tăng trưởng
của FDI giữa các quốc gia. Các tác giả đề nghị thêm rằng các quốc gia có thể cần
một ngưỡng vốn nhân lực tối thiểu nhằm trải nghiệm những tác động tích cực của
FDI. Tuy nhiên cũng lưu ý rằng, mặc dù FDI đóng góp tích cực vào tăng trưởng
kinh tế, nghiên cứu của Adeolu (2007) cho thấy độ mở thương mại và vốn nhân lực
sẵn có không cải thiện hiệu quả của FDI. Tầm quan trọng của giáo dục đối với tăng
trưởng kinh tế được đại diện bởi tỷ lệ tuyển sinh trung học và đại học trong dân số.
Barro and Lee (1996) và Akinlo (2004) đưa biến này trong mô hình tăng trưởng và
tìm thấy một mối quan hệ trực tiếp.
Trong nghiên cứu của Adeolu (2007), điều tra FDI và tăng trưởng kinh tế
Nigeria, vốn con người không quan hệ (một cách ý nghĩa thống kê) với tăng trưởng
kinh tế và theo tác giả, điều này cho thấy tình trạng thiếu lao động có tay nghề cao
trong nước. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, vốn FDI sẽ có xu hướng xác định vị trí
những điểm đến có thể cung cấp lực lượng lao động có tay nghề và kỷ luật. Trên
thực tế, công trình của Fung và cộng sự (2000) phát hiện rằng, mặc dù, chất lượng

lao động là yếu tố quyết định quan trọng của FDI, chi phí lao động thấp lại là yếu tố
quyết định không đáng kể của FDI. Do đó, Otepola (2002) kết luận rằng đối với bất
kỳ đóng góp đáng kể nào của vốn con người cho tăng trưởng kinh tế, cần có sự phát
triển theo một cách mới và sáng tạo.


16

Một trong những điều kiện tìm kiếm FDI hiệu quả là đảm bảo nguồn cung lao
động có kỹ năng và kỷ luật. Obwona (2004) lưu ý rằng, mặc dù, lao động có vẻ rẻ ở
châu Phi, tuy nhiên, vẫn tồn tại tình trạng thiếu lao động có tay nghề cao trên toàn
lục địa. Tác giả nói thêm rằng việc thiếu kinh nghiệm kinh doanh cấp trung hoặc
cấp cao đã làm tăng lỗ hổng kỹ năng, dẫn đến nhiều công ty nước ngoài phải sử
dụng các nhà quản lý nước ngoài (Bhinda và cộng sự, 1999). Đây cũng là tình hình
ở Uganda, nơi các công ty nước ngoài và nhiều tập đoàn thích những người nước
ngoài làm quản lý cấp cao. Các công ty chỉ thuê người Uganda với điều kiện đào
tạo lại và phần lớn việc đào tạo này được thực hiện bên ngoài đất nước.
Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng, một số nghiên cứu đã không thiết lập bất kỳ
mối quan hệ thuận nào giữa FDI và tăng trưởng. Ngay cả khi mối quan hệ là thuận,
các tác động có xu hướng yếu. Ví dụ, Carkovic and Levine (2002) sử dụng và phân
tích mẫu dữ liệu của 72 quốc gia, bao gồm các luồng FDI tổng hợp cho từng quốc
gia. Thông qua phương pháp ước lượng OLS và GMM, kết quả phân tích của họ chỉ
ra rằng thành phần ngoại sinh của FDI không ảnh hưởng đến tăng trưởng.
Hein (1992) cho rằng, FDI có thể có tác động tiêu cực đến triển vọng tăng
trưởng của nền kinh tế tiếp nhận nếu tạo ra dòng chảy ngược dưới hình thức chuyển
lợi nhuận, đặc biệt nếu tài nguyên được chuyển ngược thông qua chuyển giá
(transfer pricing) và cổ tức (transfer dividends), và (hoặc) nếu các tập đoàn đa quốc
gia (MNCs) có được những cách chuyển nhượng khác từ nước sở tại. Singh (1998)
tìm thấy thâm nhập FDI tác động ít hoặc không tác động nền kinh tế hoặc tăng
trưởng công nghiệp trong mẫu của 73 quốc gia đang phát triển. Tương tự như vậy,

Hein (1992) báo cáo đóng góp không đáng kể của dòng vốn FDI vào tăng trưởng
kinh tế trung hạn từ mẫu dữ liệu 41 quốc gia đang phát triển.
Nghiên cứu của Rand and Tarp (2002) thấy rằng, dòng vốn FDI rất không ổn
định. Trong đánh giá của mình về mối quan hệ giữa FDI và sản lượng, không có
mối quan hệ chung giữa hai biến. Falki (2009) xem xét tác động của FDI đối với


17

tăng trưởng kinh tế của Pakistan và kết luận rằng mối quan hệ giữa GDP và dòng
vốn FDI là tiêu cực, nhưng không có ý nghĩa thống kê.
Alfaro (2003) chỉ ra lợi ích tăng trưởng của FDI biến đổi giữa các khu vực sơ
cấp, trung cấp (sản xuất) và cao cấp. Phân tích thực nghiệm sử dụng dữ liệu chéo
của 47 quốc gia trong giai đoạn 1980–1999 cho thấy rằng tổng FDI tác động không
rõ rệt lên tăng trưởng. Khawar (2007) xem xét tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài
lên tăng trưởng trong giai đoạn 1970–1992, thông qua phương pháp bình phương
nhỏ nhất (OLS). Nghiên cứu phát hiện rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài có tương
quan thuận và tích cực với tăng trưởng cũng như đầu tư trong nước. Các biến tăng
trưởng dân số, GDP ban đầu (initial GDP), bất ổn chính trị tương quan nghịch với
tăng trưởng, phù hợp với những phát hiện trong phần lớn các nghiên cứu tăng
trưởng thực nghiệm. Thước đo vốn con người không có ý nghĩa trong phân tích.
Flexner (2000) xem xét tác động của FDI đối với tăng trưởng GDP bình quân
đầu người trong giai đoạn 1990–1998 và thấy rằng, FDI có tác động đáng kể về mặt
thống kê. Hansen và Rand (2006) phân tích mối quan hệ nhân quả giữa FDI và GDP
cho 31 quốc gia đang phát triển. Sử dụng ước lượng dữ liệu bảng không đồng nhất
(heterogeneous panel data), tác giả tìm thấy quan hệ nhân quả một chiều từ FDI đến
GDP ngụ ý rằng FDI là nguyên nhân thúc đẩy tăng trưởng.
De Mello (1999) tìm thấy tác động tích cực của FDI lên tăng trưởng sản lượng
bất kể tình trạng khoa học công nghệ của quốc gia tiếp nhận, cho dù quốc gia dẫn
đầu về khoa học công nghệ hay không. Dritsaki và cộng sự (2004) điều tra mối

quan hệ giữa thương mại, FDI và tăng trưởng kinh tế cho Hy Lạp trong giai đoạn
1960–2002. Sử dụng phân tích đồng liên kết, nghiên cứu của họ cho thấy tồn tại
mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa FDI và tăng trưởng. Tác giả cũng sử dụng kiểm
định nhân quả Granger và cho thấy rằng có một mối quan hệ nhân quả giữa các
biến. Một nghiên cứu tương tự được tiến hành bởi Feridun (2004) cho cộng hòa Síp
trong giai đoạn 1976–2002. Tác giả tìm thấy bằng chứng mạnh mẽ về mối quan hệ
nhân quả Granger một chiều từ FDI lên tăng trưởng kinh tế cộng hòa Síp.


18

Chowdhury and Mavrotas (2003) xem xét mối quan hệ nhân quả giữa FDI và
tăng trưởng kinh tế cho Chile, Malaysia và Thái Lan, sử dụng chuỗi dữ liệu thời
gian trong giai đoạn 1969–2000; những phát hiện thực nghiệm của các tác giả cho
thấy sự hiện diện quan hệ nhân quả Granger một chiều từ GDP lên FDI trong
trường hợp của Chile; và hai chiều cho Thái Lan và Malaysia. Lensink and
Morrissey (2001) ước lượng mô hình thông thường sử dụng dữ liệu bảng, dữ liệu
chéo và kĩ thuật biến công cụ; kết quả cho thấy rằng FDI tác động tích cực đến tăng
trưởng trong khi biến động của FDI lại có tác động tiêu cực. Tác giả thu được bằng
chứng tác động tích cực của FDI không phụ thuộc vào các biến giải thích khác, mặc
dù ý nghĩa của hệ số ước tính thay đổi theo đặc điểm kỹ thuật được sử dụng.
Kumer (2002) lập luận rằng FDI là nguồn quan trọng nhất của dòng tài nguyên
bên ngoài vào các quốc gia đang phát triển trong thập niên 1990 và trở thành một
phần quan trọng trong việc hình thành vốn ở các quốc gia này. Thực tế rằng, đóng
góp của FDI đến tăng trưởng của các quốc gia trên thế giới vẫn còn nhỏ hoặc trong
một số trường hợp, nó thậm chí còn suy giảm. Mian và Alam (2006) thấy rằng FDI
vẫn là yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế ở Bangladesh. Nhưng sự thiếu hiệu quả
của chính phủ trong việc kiểm soát tham nhũng, cải thiện sự ổn định chính trị cùng
với thiết lập luật pháp và thất bại trong việc phát triển hạ tầng kĩ thuật song song thể
chế chính sách là những lý do chính làm dòng vốn FDI hạn chế vào Bangladesh.

Bhattacharya (2005) ước tính rằng khi FDI gia tăng 10% thì GDP của
Bangladesh tăng 3,7%. Các tính toán tiếp theo cho thấy 1% giảm nghèo sẽ đòi hỏi
FDI tăng trưởng hàng năm là 13%. Do đó, việc tăng cường dòng vốn FDI để đảm
bảo hiệu quả cao hơn trong giảm nghèo vẫn là một nhiệm vụ quan trọng của chính
phủ Bangladesh, nhất là khi giảm nghèo là mục tiêu kinh tế quan trọng của quốc gia
này. Ahmed (2012) cũng thấy rằng FDI đóng một vai trò quan trọng trong quá trình
công nghiệp hóa và tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia đang phát triển. Hầu hết các
quốc gia trên thế giới đã thừa nhận rằng FDI của MNCs đóng góp theo nhiều cách
cho quá trình phát triển. Từ những năm 1980, điều này đã dẫn đến một sự thay đổi
đáng kể về quan điểm phát triển của các quốc gia dựa vào FDI. Zhang (2001) lập


×