Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

Khóa luận tốt nghiệp về quyền nuôi con sau li hôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.65 KB, 44 trang )

Đề tài: Giải quyết tranh chấp quyền nuôi con trong các vụ án ly hôn tại
Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân
Những chữ viết tắt
1. HN&GĐ: hôn nhân và gia đình
2. BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự
3. NQ-TW: Nghị quyết Trung ương

I. Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
1


Gia đình là cái nôi sản sinh ra và giáo dục con ngƣời cho xã hội. Vì
vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tới luật HN&GĐ nhằm xây dựng gia
đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ hạnh phúc, bền vững. Quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về gia đình được ghi nhận tại Điều 64 Hiến pháp năm 1992:
“Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ HN&GĐ theo nguyên tắc
tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Cha mẹ có trách
nhiệm nuôi dạy con thành những người công dân tốt, con cháu có bổn
phận chăm sóc ông bà, cha mẹ. Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc
phân biệt đối xử giữa các con”. Thế nhưng vì môṭ lý do nà o đó hôn nhân gặp
trục trặc và bị gián đoạn bằng ly hôn.
Thanh Xuân là một trong những quận trung tâm của thành phố Hà Nội.
Quận có vị trí địa lý thuận lợi, kinh tế phát triển mạnh mẽ, dân số đông đúc và
phức tạp. Trong những năm gần đây, quan niệm về cuộc sống hôn nhân của
người dân có nhiều thay đổi. Số án ly hôn có chiều hướng gia tăng theo từng
năm, nội dung các vụ việc cũng phức tạp hơn. Các vụ việc tranh chấp quyền
nuôi con cũng gia tăng cả về số lượng và tính chất phức tạp. Điều này đòi hỏi
chất lượng xét xử tại Tòa án quận Thanh Xuân phải được nâng cao đáp ứng
đúng tinh thần của cải cách tư pháp, Tòa án phải là trung tâm và hoạt động xét
xử phải là trọng tâm. Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) 2004 được sửa đổi bổ


sung năm 2011 đã giải quyết được những vướng mắc của Tòa án trong việc
giải quyết các tranh chấp quyền nuôi con trong ly hôn nói riêng nhưng chưa
hoàn toàn triệt để, còn có những quy định chưa được hướng dẫn cụ thể nên
dẫn đến còn có những cách hiểu khác nhau. Thực tiễn giải quyết vấn đề này
tại Tòa án quận Thanh Xuân đưa ra những quan điểm nhận thức trong áp dụng
pháp luật khác nhau. Vì vậy, cần phải điều chỉnh quy định pháp luật để phù
hợp với điều kiện kinh tế xã hội nhằm tiếp tục thực hiện Nghị quyết số
49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp
2


đến năm 2020, tiếp tục hoàn thiện một cách căn bản hệ thống pháp luật tố
tụng dân sự nói chung và giải quyết tranh chấp quyền nuôi con trong li hôn
nói riêng.
Từ thực tế trên, thông qua công tác xét xử, giải quyết án ly hôn trên địa
bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội, tôi chọn đề tài: "Giải quyết tranh
chấp quyền nuôi con trong các vụ án ly hôn tại Tòa án nhân dân quận Thanh
Xuân" để có một cách đánh giá cụ thể hơn trong việc thực hiện giải quyết
tranh chấp quyền nuôi con tại Tòa án trong giải quyết án ly hôn, từ đó có
một số kiến nghị để hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng dân sự nói chung
và thủ tục giải quyết tranh chấp quyền nuôi con án ly hôn nói riêng tại Tòa
án quận Thanh Xuân.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: đề tài nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành về
tranh chấp quyền nuôi con trong ly hôn (những quy định của pháp luật nội
dung) và thực trạng giải quyết tranh chấp này trong giải quyết án ly hôn qua
công tác xét xử tại Tòa án quận Thanh Xuân.
- Phạm vi: tác giả chỉ tập trung vào nghiên cứu các quy định về thủ tục
giải quyết tranh chấp quyền nuôi con trong việc giải quyết án ly hôn tại Tòa
án với đối tượng nghiên cứu bao gồm các vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng

các quy định của BLTTDS trong thủ tục giải quyết các vụ án ly hôn của Tòa
án tại quận Thanh Xuân. Tác giả chỉ đi sâu, giới hạn việc tìm hiểu các quy
định của pháp luật về thủ tục giải quyết qua công tác xét xử thực tiễn ở giai
đoạn xét xử sơ thẩm. Khóa luận cũng không đề cập sâu đến những vụ án ly
hôn có yếu tố nước ngoài.
3. Mục đích và nghiệm vụ nghiên cứu

3


- Mục đích: phân tích những vấn đề lý luận chung trong thủ tục giải quyết
tranh chấp quyền nuôi con trong vụ án ly hôn; phân tích và đánh giá cụ thể về
khái niệm, trình tự thủ tục và các đặc trưng những quy định của pháp luật về
thủ tục giải quyết tranh chấp quyền nuôi con trong ly hôn theo quy định pháp
luật Việt Nam hiện hành, những ưu điểm, những hạn chế cần khắc phục.
- Nhiệm vụ: nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về thủ tục giải
quyết tranh chấp quyền nuôi con trong án ly hôn để thấy được những vướng
mắc, bất cập còn tồn tại để từ đó tìm ra một số giải pháp hoàn thiện các quy
định của pháp luật về vấn đề này và nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án ly hôn
tại Tòa án nói riêng. Bên cạnh đó, đánh giá thực tiễn giải quyết án ly hôn của
Tòa án trên địa bàn quận Thanh Xuân theo quy định của pháp luật tố tụng
Việt Nam hiện hành để từ đó có một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thủ
tục giải quyết vụ án ly hôn theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam và giải pháp nâng cao chất lượng xét xử tại ngành Tòa án quận Thanh
Xuân.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng một số phương pháp như: phương pháp luận, phân
tích, so sánh, tổng hợp, lịch sử. Lấy lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam làm phương
pháp luận trong quá trình nghiên cứu đề tài.

- Phương pháp lịch sử: Áp dụng phương pháp này khi nghiên cứu đề tài nhằm
làm rõ sự phát triển có tính kế thừa của pháp luật trong việc điều chỉnh các thủ
tục liên quan trong việc giải quyết các tranh chấp về hôn nhân và gia đình
(HN&GĐ).
- Phương pháp phân tích: Các vấn đề mà đề tài đặt ra sẽ được phân tích
về mặt lý luận để thấy rõ tính khoa học của việc điều chỉnh các thủ tục giải

4


quyết quan hệ HN&GĐ nói chung và vấn đề ly hôn nói riêng.
- Phương pháp so sánh: so sánh nội dung các quy định pháp luật hiện
hành với những vấn đề lý luận pháp luật nhằm rút ra những điểm đã và chưa
phù hợp trong quy định của pháp luật so với lý luận và thực tiễn áp dụng pháp
luật.
- Phương pháp tổng hợp: áp dụng phương pháp này nhằm rút ra những
vấn đề cơ bản về mặt lý luận, từ đó tìm ra những ưu điểm và hạn chế trong
việc quy định về nội dung quy phạm pháp luật điều chỉnh các vấn đề về thủ
tục giải quyết các tranh chấp về ly hôn.
5. Cơ cấu đề tài khóa luận tốt nghiệp
Chương 1: Nhận thức chung về giải quyết tranh chấp quyền nuôi con
trong các vụ án ly hôn
Chương 2: Tình hình, đặc điểm có liên quan và thực trạng giải quyết
tranh chấp quyền nuôi con trong các vụ án ly hôn tại Tòa án nhân dân quận
Thanh Xuân
Chương 3: Dự báo và giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp
quyền nuôi con trong các vụ án ly hôn tại Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân

II.


Nội dung chính
Chương 1: Nhận thức chung về giải quyết tranh chấp quyền nuôi con

trong các vụ án ly hôn
1.1. Khái niệm và cơ sở pháp lý ly hôn
5


1.1.1 Khái niệm ly hôn
Quan hệ hôn nhân được xác lập trên cơ sở tình yêu thương, gắn bó giữa
vợ chồng và tồn tại lâu dài, bền vững cho đến suốt cuộc đời con người tuy
nhiên, trong cuộc sống vợ chồng, vì những lý do nào đó dẫn tới giữa vợ
chồng có mâu thuẫn sâu sắc đến mức họ không thể chung sống với nhau nữa.
Ly hôn được đặt ra để giải phóng cho vợ chồng và các thành viên khác thoát
khỏi mâu thuẫn gia đình. Đó là mặt trái của hôn nhân nhưng không thể thiếu
được khi quan hệ hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, tình cảm vợ chồng đã thực
sự tan vỡ.
Ly hôn được quy định trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia là
khác nhau: một số nước cấm vợ chồng ly hôn (theo Đạo thiên chúa), bởi vì
theo họ quan hệ vợ chồng bị ràng buộc thiêng liêng theo ý chúa; một số nước
thì hạn chế ly hôn bằng cách đưa ra những điều kiện hết sức nghiêm ngặt.
Thực ra, cấm ly hôn hay hạn chế ly hôn đều trái với quyền tự do dân chủ của
cá nhân. Pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa công nhận quyền tự do ly
hôn chính đáng của vợ chồng, không cấm hoặc đặt ra những những điều kiện
nhằm hạn chế quyền này. Ly hôn là sự chấm dứt quan hệ hôn nhân do Toà án
công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ
chồng. (Điều 8, khoản 8, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000). Ly hôn dựa
trên sự tự nguyện của vợ chồng, nó là kết quả của hành vi có ý chí của vợ
chồng nên nhà nước bằng pháp luật không thể cưỡng ép nam, nữ phải yêu
nhau và kết hôn với nhau, thì cũng không thể bắt buộc vợ chồng phải chung

sống với nhau, phải duy trì quan hệ hôn nhân khi tình cảm yêu thương gắn bó
giữa họ đã hết và mục đích của hôn nhân đã không thể đạt được. Việc giải
quyết ly hôn là tất yếu đối với quan hệ hôn nhân tan vỡ.

6


Điều đó là hoàn toàn có lợi cho vợ chồng, con cái và các thành viên
khác trong gia đình. Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Trường
Đại học luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007, Tr.239 có viết:
“thực ra tự do ly hôn tuyệt không có nghĩa là làm “ tan rã ” những mối liên hệ
gia đình mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ đó trên những cơ sở dân
chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong một xã hội văn
minh”. Nhưng bên cạnh đó, ly hôn cũng làm ly tán gia đình, vợ chồng, con
cái. Vì vậy, khi giải quyết ly hôn, Toà án phải tìm hiểu kỹ nguyên nhân và bản
chất của quan hệ vợ chồng và thực trạng hôn nhân với nhiều yếu tố khác để
đảm bảo quyền lợi cho các thành viên trong gia đình.
1.1.2 Cơ sở pháp lý ly hôn
Căn cứ ly hôn là những tình tiết (điều kiện) được quy định trong pháp luật
mà chỉ khi có những tình tiết (điều kiện) đó, Tòa án mới được xử cho ly hôn.
Như vậy, căn ly hôn chính là chuẩn mực pháp lý mà dựa vào đó Tòa án đánh
giá thực chất mối quan hệ vợ chồng để giải quyết, tức là dựa vào bản chất hôn
nhân chứ không phải lỗi. Nội dung căn cứ ly hôn: Điều 89 Luật HN&GĐ năm
2000 quy định:
1. Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời
sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được thì Tòa án
quyết định cho ly hôn.
Được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:
- Vợ, chồng không yêu thương, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, như:
Người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng

muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ
chức nhắc nhở, hòa giải nhiều lần.
7


- Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như: Thường
xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và
uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn
thể nhắc nhở, hòa giải nhiều lần.
- Vợ, chồng không chung thủy với nhau, như: Có quan hệ ngoại tình, đã
được người chồng hoặc người vợ hay bà con than thích của họ, hoặc cơ quan,
tổ chức nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có hành vi ngoại tình.
Để có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài
được, thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại đã đạt đến mức trầm trọng như
điểm a.1. mục 8 này chưa. Nếu thực tế cho thấy đã được nhắc nhở, hòa giải
nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly
than, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm
nhau thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng không thể
kéo dài được. “Khi thực tế quan hệ vợ chồng trong “tình trạng trầm trọng, đời
sống chung không thể kéo dài” thì thường dẫn tới hậu quả “mục đích hôn
nhân không đạt được”. Mục đích hôn nhân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là
xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững, có tình
yêu, trách nhiệm giữa vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích
xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao nêu rõ:
Điều kiện hạn chế ly hôn Điều 85 Luật HN & GĐ năm 2000 quy định:
1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc
ly hôn.

8


2. Trong trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng
tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn.
Phân tích điều luật này, ta nhận thấy:
- Thứ nhất, quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn chỉ có thể là quyền của
vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng mà không thể chuyển giao cho bất kỳ ai.
- Thứ hai, Luật chỉ quy định “vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai
tháng tuổi”; do đó, nếu người vợ đang thuộc một trong các trường hợp nêu
trên, không phân biệt người vợ có thai với ai hoặc bố đứa trẻ dưới mười tháng
tuổi là ai thì người chồng vẫn không có quyền yêu cầu ly hôn mà quyền yêu
cầu ly hôn chỉ thộc về người vợ.
Trên thực tế xảy ra trường hợp ly hôn là do ý chí của một bên hoặc do cả
hai bên thuận tình.
Trường hợp 1: Ly hôn do một bên vợ hoặc chồng yêu cầu. Sau khi lấy lời
khai của hai bên, Tòa án tiến hành thu thập thêm thông tin bổ sung đồng thời
xác nhận lại lời khai của cả hai bên. Sau đó, Tòa tiến hành hòa giải đoàn tụ vì
mặc dù có yêu câu ly hôn nhưng có thể bên yêu cầu chưa hiểu hết hậu quả sau
ly hôn và cũng để mỗi bên tự nhận biết được lỗi của mình, ở đây, mục đích
duy nhất là nhằm để nguyên đơn rút đơn. Nếu hòa giải không thành, Tòa tiến
hành xét xử. Việc xét xử cũng chia thành 2 trường hợp: chấp nhận yêu cầu ly
hôn nếu đủ căn cứ hoặc bác yêu cầu ly hôn nếu xét thấy chưa đủ yêu cầu ly
hôn. Quyết định của Tòa án là độc lập, dựa vào các căn cứ thực tế chứ không
dựa vào ý chí nguyên đơn.
Trường hợp 2: Ly hôn do thuận tình Việc giải quyết ly hôn do thuận
tình có thủ tục pháp lý cũng tương tự như trường hợp 1 nhưng sau khi hòa
giải không thành, Toà tiến hành xét xử theo các hướng:
9



- Hướng 1: Công nhận thỏa thuận ly hôn nếu các bên thực sự, tự nguyện
ly hôn; thỏa thuận được với nhau về vấn đề con cái và tài sản chung. Từ đó,
có căn cứ để tuyên bố ly hôn.
- Hướng 2: Mở phiên tòa nếu hai bên vợ chồng không tự thỏa thuận
được với nhau về vấn đề con chung và tài sản chung.
- Hướng 3: Bác yêu cầu thuận tình ly hôn nếu các bên không thực sự tự
nguyện ly hôn và chưa có đủ căn cứ ly hôn. Như vậy, có thể nhận thấy rằng
việc giải quyết ly hôn do thuận tình cũng chứa đựng yếu tố bảo vệ quyền lợi
của trẻ em sau ly hôn vì vấn đề con chung được xem là một nội dung quan
trọng trong chế định này. Đó là một trong những yếu tố tác động đến hướng
giải quyết trường hợp ly hôn này.
Những căn cứ ly hôn được quy định tại điều 89 Luật HN & GĐ và các nôi
dung được cụ thể hóa trong Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày
23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tương đối rõ
ràng, cụ thể. Tuy nhiên, trên thực tế tùy từng trường hợp mà có cách xử lý
khác nhau và việc giải quyết cũng phụ thuộc nhiều vào trình độ, khả năng
phán đoán, trạng thái tâm lý của thẩm phán.
1.2. Cơ sở pháp lý giải quyết tranh chấp quyền nuôi con trong các vụ án
ly hôn do Tòa án nhân dân thụ lý
1.2.1. Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp nuôi con
Về nguyên tắc, các đương sự có thể thỏa thuận ngƣời trực tiếp nuôi
con và thỏa thuận này được Tòa án ghi nhận trong Bản án. Nếu các đương
sự không thỏa thuận được người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn thì Tòa
án sẽ căn cứ vào các quy định của Luật HN&GĐ (Điều 92) và các văn bản
liên quan để ra quyết định.
10


Pháp luật quy định về người trực tiếp nuôi dưỡng con quy định tại điều

81 Luật hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 có hiệu lực thi hành từ ngày
01 tháng 01 năm 2015:
Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi
dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình
theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi
bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án
quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi
mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của
con.
Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp
người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”
Như vây, khi hai bên không thỏa thuận được người trực tiếp nuôi con, Tòa
án sẽ căn cứ vào độ tuổi để giải quyết. Các mốc quan trọng cần chú ý như sau:
Con dưới 03 tuổi: được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người
mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Con trên 03 tuổi nhưng chưa đủ 07 tuổi: căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt
của con.
Con từ đủ 07 tuổi trở lên: ngoài căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con
còn phải xem xét nguyện vọng của con.

11


Căn cứ dựa vào quyền lợi mọi mặt của con được hiểu như sau:
Gồm các yếu tố sau: Điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, điều kiện học tập, đi
lại nên có thể thấy người có điều kiện tốt hơn về tài sản, thu nhập, thói quen

sinh hoạt…. Như vậy, bên nào có điều kiện tốt hơn trong các yếu tố đó sẽ có
lợi thế trong việc giành quyền nuôi con.
Ngoài ra, việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng
của con nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên.
Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp
nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của
Bộ luật dân sự.
1.2.2. Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp cấp dưỡng
Theo Luật HN & GĐ năm 2000 Điều 50 khoản 1, nghĩa vụ cấp dưỡng
đƣợc thực hiện giữa cha mẹ và con, giữa anh chị em giữa ông bà nội, ông bà
ngoại và cháu, giữa vợ và chồng theo quy định của Luật HN&GĐ
Điều 50 khoản 2 quy định trong trường hợp người có nghĩa vụ nuôi
dưỡng trốn tránh thực hiện nghĩa vụ đó thì phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
theo quy định của luật này.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 92 thì người không trực tiếp nuôi con có
nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Đây là nghĩa vụ của cha, mẹ; do đó, không
phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không, người
không trực tiếp nuôi con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu người không
trực tiếp nuôi con cấp dưỡng vì lý do nào đó thì Toà án cần giải thích cho họ
12


hiểu rằng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của con để họ biết
nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con. Nếu xét thấy việc họ không
yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện, họ có đầy đủ khả năng, điều kiện nuôi
dưỡng con thì Toà án không buộc bên kia phải cấp dưỡng nuôi con.
Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi
dưỡng và học hành của con và do các bên thoả thuận. Trong trường hợp các

bên không thoả thuận được thì tuỳ vào từng trường hợp cụ thể, vào khả năng
của mỗi bên mà quyết định mức cấp dưỡng nuôi con cho hợp lý.
Về phương thức cấp dưỡng do các bên thoả thuận định kỳ hàng tháng,
hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Trong trường hợp các bên không
thoả thuận được thì Toà án quyết định phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng
tháng.
Trong trường hợp vợ, chồng không thoả thuận được về người trực tiếp
nuôi con thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi con căn
cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, đặc biệt là các điều kiện cho sự phát
triển về thể chất, bảo đảm việc học hành và các điều kiện cho sự phát triển tốt
về tinh thần. Nếu con từ đủ chín tuổi trở lên, thì trước khi quyết định, Toà án
phải hỏi ý kiến của người con đó về nguyện vọng được sống trực tiếp với ai."
Người không trực tiếp nuôi con (bố/mẹ bé) vẫn có nghĩa vụ và quyền:
Trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng cho con chưa thành niên hoặc đã thành
niên mà bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động
và không có tài sản để tự nuôi mình;

13


Chương 2: Tình hình, đặc điểm có liên quan và thực trạng giải quyết
tranh chấp quyền nuôi con trong các vụ án ly hôn tại Tòa án nhân dân quận
Thanh Xuân
2.1. Tình hình, đặc điểm có liên quan giải quyết tranh chấp quyền nuôi
con trong các vụ án ly hôn tại Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân
2.1.1 Tổ chức, thẩm quyền Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân giải quyết
tranh chấp quyền nuôi con trong các vụ án ly hôn
Về nguyên tắc, các tranh chấp quyền nuôi con trong các vụ án ly hôn do
luật HN&GĐ điều chỉnh đều thuộc thẩm quyền dân sự của Tòa án. Theo Điều
27 BLT TDS quy định những tranh chấp mà Tòa án thụ lý giải quyết vụ án

khi có quyền nuôi con trong các vụ án ly hôn gồm:
- Tranh chấp về quyền nuôi con trong li hôn
- Tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
- Tranh chấp về cấp dưỡng.
Tòa án có thẩm quyền giải quyết đối với các tranh chấp về nghĩa vụ cấp
dưỡng giữa cha mẹ và con; giữa anh chị em với nhau; giữa ông bà nội ngoại
và cháu; giữa vợ và chồng khi ly hôn mà các bên không thỏa thuận được.
Theo quy định tại Điều 33 và Điều 34 BLTTDS thì TAND cấp quận
huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các tranh chấp quyền
nuôi con trong các vụ án ly hôn.
Thủ tục giải quyết tranh chấp về HN&GĐ cũng rất đa dạng và phong
phú, nhưng quy về những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, giải quyết các tranh chấp về HN&GĐ trong thụ lý, điều tra, đình
chỉ và tạm đình chỉ vụ án:


Thụ lý vụ án:

Cá nhân, cơ quan, tổ chức do BLTTDS quy định có quyền khởi kiện đến
14


Tòa án giải quyết các tranh chấp về HN&GĐ theo Điều 27 BLTTDS, nếu
không thuộc các tranh chấp trên thì phải trả lại đơn khởi kiện theo quy định
tại Điều 168 BLTTDS.
 Điều tra vụ án:
Quá trình điều tra là một quá trình khá phức tạp. Vì vậy, cần tuân thủ
nghiêm ngặt, chính xác các quy định của BLTTDS và các văn bản liên quan
thì mới đảm bảo tính khách quan, làm rõ bản chất của vụ việc.
 Đình chỉ và tạm đình chỉ vụ án.

Việc đình chỉ và tạm đình chỉ vụ án dân sự đƣợc thực hiện theo Điều 192
BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 (gọi chung là BLTTDS) và Điều 189.
Thứ hai, giải quyết các tranh chấp về HN&GĐ trong trường hợp hòa giải
thành.
Việc hòa giải phải tuân quy định tại Điều 180, 181, 185, 185a, 186
BLTTDS. Trong trường hợp hòa giải thành, sau khi tiến hành thụ lý vụ án
HN&GĐ, Tòa án tiến hành điều tra vụ án cũng tuân theo các bước như
trường hợp vụ án đình chỉ và tạm đình chỉ, nhưng việc thu thập các tài liệu
chứng từ có liên quan đến vụ án phải tùy thuộc vào tính chất của từng vụ việc
đang giải quyết, những vụ án đơn giản thì nội dung điều tra dễ dàng hơn
những vụ phức tạp, khi đã điều tra đầy đủ làm rõ các tình tiết khách quan
trong vụ án, thì Tòa án mới tiến hành hòa giải.
Thứ ba, hoạt động giải quyết các tranh chấp về nuôi con trong trường hợp
thuận tình ly hôn.
Trong trường hợp thuận tình ly hôn, khi tiến hành thụ lý vụ án HN&GĐ,
tiến hành điều tra vụ án cũng phải tuân thủ các bước như trên, nhưng trong

15


trường hợp này, vụ án ly hôn nên cần phải điều tra thêm về con cái như độ
tuổi các con, nguyện vọng của con khi bố mẹ ly hôn. Tất cả phải được điều
tra đầy đủ, rõ ràng.
Thứ tư, giải quyết các tranh chấp về HN&GĐ trong trường hợp đưa vụ án ra
xét xử bằng một bản án.
Điều 28 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002, quy định thẩm quyền của
TAND cấp quận huyện được mở phiên tòa sơ thẩm của TAND huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là TAND cấp huyện).
2.1.2 Tình hình, đặc điểm các vụ án ly hôn do Tòa án nhân dân quận
Thanh Xuân thụ lý

Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, từ năm
1997 đến tháng 12/2016, Tòa án đã thụ lý 5787 vụ án hôn nhân và gia đình.
Số vụ ly hôn trong các gia đình trẻ tăng đáng kể, trên 60% số vụ ly hôn thuộc
về các cặp vợ chồng từ 22-30 tuổi, nhiều vụ ly hôn khi mới kết hôn từ 1-5
năm và hầu hết đã có con, có trường hợp con đã thành niên. Đặc biệt phần
lớn các vụ ly hôn do phụ nữ chủ động đứng đơn.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng ly hôn, nhưng chủ yếu tập
trung vào một số nguyên nhân sau: Khi xảy ra mâu thuẫn họ không biết cách
xử lý, giải quyết. Nhiều gia đình vợ chồng có nghề nghiệp ổn định, điều kiện
kinh tế khá giả, nhưng do mải theo làm ăn kinh tế, thiếu quan tâm đến tình
cảm vợ chồng. Có trường hợp khi người chồng có địa vị và chỗ đứng trong
xã hội, hoặc có điều kiện kiếm ra tiền và tự cho mình “cái quyền” làm gì tùy
thích theo thú vui của riêng mình. Họ thiếu quan tâm đến gia đình, vợ con, có
tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, bạo lực gia đình để lại nhiều hậu quả nghiêm
trọng cho con người, nhất là đối với phụ nữ. Bên cạnh đó, sự thiếu gắn bó
giữa các cặp vợ chồng; thiếu kỹ năng tổ chức cuộc sống cũng như ứng xử
16


giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ với con cái, giữa hai bên nội ngoại... cũng dễ
đẩy các cuộc hôn nhân đến bờ vực thẳm. Cụ thể nguyên nhân xin ly hôn:
- Chủ yếu là do mâu thuẫn vợ chồng 36 vụ chiếm tỷ lệ 31,3%;
- Đánh đập ngược đãi chiếm tỷ lệ 25,2%;
- Do tính tình không hợp chiếm tỷ lệ 15,6%;
- Do ngoại tình chiếm tỷ lệ 5,2%;
- Không có con chiếm tỷ lệ 0,86;
- Một bên đi vắng lâu ngày không trở về chiếm tỷ lệ 2,6%;
- Do nghiện rượu, ma túy,…chiếm tỷ lệ 0,86%;
Trong số đó, các vụ án ly hôn có tranh chấp quyền nuôi con chiếm
88%. Đặc điểm chung của các trường hợp đó là hai vợ chồng cùng đòi nuôi

con chung. Đa số các vụ án, vợ khởi kiện chồng và yêu cầu được nuôi con,
không yêu cầu chồng cấp dưỡng. Nhiều trường hợp người chồng (là bị đơn)
đã vắng mặt trong các buổi xử kiện. Một số ít trường hợp khác là chồng khởi
kiện vợ và đòi nuôi con. Trong các vụ này, tòa hầu hết ưu tiên quyền nuôi con
cho người phụ nữ và yêu cầu bên người chồng phải cấp dưỡng. Một số khác
thì chia con, mỗi bên vợ chồng nuôi một đứa. Hoặc giao cho người chồng
nuôi với điều kiện người vợ vắng mặt trong buổi xử kiện, không đủ khả năng
nuôi con.
Ví dụ 1:
Vụ án vào ngày 29 tháng 9 năm 2017 (thụ lý số 98/2017/TLST - HNGĐ
ngày 16 tháng 3 năm 2017), Toà án nhân dân Quận Thanh Xuân xét xử về tranh
chấp xin ly hôn và nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
203/2017/HNGĐ ngày 25 tháng 08 năm 2017 giữa: Nguyên đơn: Chị Phạm
Thị Phương Thanh - sinh năm 1984 (có mặt). và bị đơn: Anh Mai Anh Tuấn sinh năm 1983 ( vắng mặt). Cả hai cùng ĐKHKTT và cư trú tại: P605 B2
Chung cư JSC34, ngõ 164 Khuất Duy Tiến, phường Nhân Chính, quận Thanh
Xuân, thành phố Hà Nội.

17


Về tình cảm: Chị và anh Mai Anh Tuấn kết hôn trên cơ sở tự nguyện có
đăng ký kết hôn ngày 06 tháng 01 năm 2010 tại Ủy ban nhân dân phường
Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Quá trình chung sống vợ
chồng hạnh phúc đến tháng 11 năm 2016 thì nảy sinh nhiều mâu thuẫn, cuộc
sống vợ chồng không hòa hợp do bất đồng quan điểm và lối sống. Gia đình
hai bên và chính quyền địa phương đã khuyên giải, động viên nhưng không
khắc phục được. Hiện tại mâu thuẫn giữa vợ chồng anh chị ngày càng trầm
trọng. Anh chị đã sống ly thân từ cuối năm 2016 đến nay tình cảm không còn.
Chị Thanh đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Mai Anh Tuấn.
Về con chung: Chị và anh Mai Anh Tuấn có một con chung là cháu Mai

Khánh Vi sinh ngày 31 tháng 08 năm 2010. Hiện cháu Vi đang ở với chị
Thanh. Sau khi ly hôn, chị Thanh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng
cháu và không yêu cầu anh Tuấn cấp dưỡng nuôi con.
Tại phiên tòa, chị Phạm Thị Phương Thanh vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi
kiện, đề nghị Tòa án đưa ra phán quyết để chị được ly hôn với anh Mai Anh
Tuấn. Chị trình bày về khả năng, điều kiện nuôi con và có nguyện vọng được
trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc con chung là cháu Mai Khánh Vi vì cháu là
con gái còn nhỏ, rất cần sự chăm sóc của mẹ. Chị không yêu cầu anh Tuấn
phải đóng tiền cấp dưỡng nuôi con; Không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết
vấn đề tài sản chung, nợ chung của vợ chồng đồng thời tự nguyện nộp toàn bộ
án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
Ví dụ 2:
Vụ án vào ngày 30 tháng 9 năm 2017 (thụ lý số 37/2017/TLST - HNGĐ
ngày 13 tháng 01 năm 2017), Toà án nhân dân Quận Thanh Xuân xét xử sơ
thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con

18


theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 224/2017/HNGĐ ngày 24 tháng 08 năm
2017 giữa: Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hồng Hạnh - sinh năm 1984 (có
mặt), ĐKHKTT và cư trú tại: tổ 5 cụm 4, phường Khương Đình, quận Thanh
Xuân, thành phố Hà Nội và bị đơn: Anh Lê Thanh Tùng - sinh năm 1983
( vắng mặt), ĐKHKTT: tổ 5 cụm 4, phường Khương Đình, quận Thanh Xuân,
thành phố Hà Nội. Cả hai cư trú tại: Số 4 ngõ 88/211, Khương Trung, phường
Khương Đình, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
Về tình cảm: Chị và anh Lê Thanh Tùng kết hôn trên cơ sở tự nguyện
có đăng ký kết hôn ngày 11 tháng 12 năm 2009 tại Ủy ban nhân dân phường
Hà Cầu, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Quá trình chung sống vợ chồng
hạnh phúc đến tháng 3 năm 2016 thì nảy sinh nhiều mâu thuẫn, cuộc sống vợ

chồng không hòa hợp do bất đồng quan điểm và lối sống. Gia đình hai bên và
chính quyền địa phương đã khuyên giải, động viên nhưng không khắc phục
được. Hiện tại mâu thuẫn giữa vợ chồng anh chị đã trầm trọng. Anh chị sống
ly thân từ tháng 6/2016 đến nay và tình cảm không còn. Chị Hạnh đề nghị
Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Lê Thanh Tùng.
Về con chung: Chị và anh Lê Thanh Tùng có hai con chung là cháu Lê
Khánh Nam sinh ngày 25 tháng 05 năm 2011 và cháu Lê Tuệ Anh sinh ngày
07 tháng 02 năm 2014. Hiện cả hai cháu đang ở với chị Hạnh. Sau khi ly hôn,
chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai cháu và không yêu cầu
anh Tùng cấp dưỡng nuôi con vì anh Tùng hiện đang không có việc làm và
thu nhập ổn định.
Tại phiên tòa, chị Nguyễn Thị Hồng Hạnh vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi
kiện, đề nghị Tòa án đưa ra phán quyết để chị được ly hôn với anh Lê Thanh
Tùng. Chị trình bày: Chị và anh Tùng mâu thuẫn chủ yếu về lối sống. Anh
Tùng có thói xấu là cờ bạc, thường xuyên thức khuya. Chị đã từng muốn hàn
19


gắn nhưng anh Tùng không thay đổi. Ngoài ra chị còn mâu thuẫn với anh
Tùng về cách nuôi dạy con cái. Từ khi chị ly thân về ở cùng bố mẹ đẻ anh
Tùng cũng không quan tâm, không thăm con cũng không gửi tiền đóng góp
nuôi con. Đã lâu chị và anh Tùng không gặp nhau nên chị cũng không biết
anh Tùng ở đâu làm gì. Chị Hạnh còn trình bày về khả năng, điều kiện nuôi
con và có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc con chung là
cháu Lê Khánh Nam và cháu Lê Tuệ Anh vì cả hai cháu đều đang sống ổn
định cùng chị và đều còn nhỏ, rất cần sự chăm sóc của mẹ. Chị không yêu cầu
anh Tùng phải đóng tiền cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu Tòa án xem xét
giải quyết vấn đề tài sản chung, nợ chung của vợ chồng đồng thời tự nguyện
nộp toàn bộ án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
Ví dụ 3:

Vụ án vào ngày 25 tháng 9 năm 2017, Toà án nhân dân Quận Thanh Xuân
xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 275/2017/TLST HNGĐ ngày 16 tháng 6 năm 2017 về việc tranh chấp xin ly hôn và nuôi con
theo; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 196/2017/QĐXX - HNGĐ ngày 24
tháng 8 năm 2017 giữa: Nguyên đơn: Anh Dương Quang Hưng - sinh năm
1979 (có mặt), ĐKHKTT và chỗ ở: Số 26 ngõ 32 phố Khương Trung, phường
Khương Trung, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội và bị đơn: Chị Lê Thị
Thúy Hiền - sinh năm 1983 (vắng mặt), ĐKHKTT: Số 26 ngõ 32 phố Khương
Trung, phường Khương Trung, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội; chỗ ở:
hiện không xác định.
Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Lê Thị Thúy Hiền kết hôn trên cơ sở
tự nguyện có đăng ký kết hôn ngày 30/10/2006 tại Ủy ban nhân dân phường
Tiên Cát, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Quá trình chung sống hạnh phúc
đến năm 2015, thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do bất
20


đồng quan điểm về lối sống, cuộc sống không hòa hợp. Mặc dù đã được gia
đình hai bên và bạn bè khuyên giải nhưng không có kết quả, mâu thuẫn vợ
chồng ngày càng trầm trọng. Đến nay, tình cảm vợ chồng không còn, anh chị
đã sống ly thân từ năm 2015. Anh Dương Quang Hưng đề nghị Tòa án giải
quyết cho anh được ly hôn chị Lê Thị Thúy Hiền.
Về con chung: Anh chị có một con chung là cháu Dương Hồng Hạnh sinh
ngày 27 tháng 9 năm 2008. Anh Hưng có nguyện vọng được trực tiếp nuôi
dưỡng, chăm sóc cháu Hạnh và không yêu cầu chị Lê Thị Thúy Hiền đóng
góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung. Tại phiên tòa, anh Dương Quang Hưng
vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án đưa ra phán quyết để anh
được ly hôn với chị Lê Thị Thúy Hiền. Anh trình bày về khả năng, điều kiện
nuôi con và nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là
cháu Dương Hồng Hạnh vì cháu hiện đang sống ổn định cùng anh. Hơn nữa,
cháu Hạnh có nguyện vọng được ở với bố vì mẹ không có ở nhà. Anh không

yêu cầu chị Hiền phải đóng tiền cấp dưỡng nuôi con; Không yêu cầu Tòa án
xem xét giải quyết vấn đề tài sản chung, nợ chung của vợ chồng đồng thời tự
nguyện nộp toàn bộ án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
Ví dụ 4:
Vào hồi 9 giờ 00 phút, ngày 21 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Toà án nhân dân
Quận Thanh Xuân xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số
155/2017/TLST - HNGĐ ngày 17 tháng 4 năm 2017 về tranh chấp xin ly hôn
và nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 192/2017/HNGĐ ngày 17
tháng 08 năm 2017 giữa: Nguyên đơn: Chị Phạm Ngọc Anh - sinh năm 1985
(có mặt). HKTT: Số 144 Nguyễn Ngọc Nại, phường Khương Mai, quận
Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. Chỗ ở: Tổ 9A, phường Láng Hạ, quận Đống
Đa, thành phố Hà Nội. Bị đơn: Anh Lê Phương Ninh - sinh năm 1984 (vắng
21


mặt). HKTT: Số 144 Nguyễn Ngọc Nại, phường Khương Mai, quận Thanh
Xuân, thành phố Hà Nội. Chỗ ở: N8 A1, Nguyễn Thị Thập, phường Nhân
Chính, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
Về quan hệ hôn nhân: chị và anh Lê Phương Ninh kết hôn trên cơ sở tự
nguyện có đăng ký kết hôn ngày 31/7/2010 tại Ủy ban nhân dân phường Láng
Hạ, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Quá trình chung sống hạnh phúc đến
khoảng năm 2014 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do
bất đồng quan điểm về lối sống, cuộc sống không hòa hợp. Mặc dù đã được
gia đình hai bên và bạn bè khuyên giải nhưng không có kết quả, mâu thuẫn vợ
chồng ngày càng trầm trọng. Đến nay, tình cảm vợ chồng không còn, anh chị
đã sống ly thân nhiều năm, chị Ngọc Anh đề nghị Tòa án giải quyết để chị
được ly hôn anh Lê Phương Ninh.
Về con chung: chị và anh Lê Phương Ninh có một con chung là cháu Lê
Thế Khôi Nguyên sinh ngày 17/9/2011. Hiện cháu đang ở cùng mẹ. Sau khi ly
hôn chị Ngọc Anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc

cháu Nguyên. Sau khi ly hôn anh Ninh đồng ý để chị Ngọc Anh được trực
tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc cháu Nguyên. Anh Ninh xin tạm hoãn việc đóng
góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.
Tại phiên tòa, chị Phạm Ngọc Anh vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề
nghị Tòa án đưa ra phán quyết để chị được ly hôn với anh Lê Phương Ninh.
Chị trình bày về khả năng, điều kiện nuôi con và nguyện vọng được trực tiếp
nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu Lê Thế Khôi Nguyên sau khi ly hôn.
Chị Ngọc Anh cũng đồng ý tạm hoãn việc đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con
chung cho anh Lê Phương Ninh. Chị không yêu cầu Tòa án xem xét giải
quyết vấn đề tài sản chung, nợ chung của vợ chồng đồng thời tự nguyện nộp
toàn bộ án phí ly hôn theo quy định của pháp luật. Chị đề nghị Tòa án không
22


công khai bản án ly hôn của chị và anh Ninh trên cổng thông tin điện tử của
Tòa án vì lý do cá nhân. Anh Lê Phương Ninh mặc dù biết chị Ngọc Anh làm
đơn ly hôn và Tòa án đang giải quyết vụ án ly hôn của anh chị, đã nhiều lần
nhận giấy triệu tập của Tòa án nhưng chỉ đến Tòa án một lần để làm bản tự
khai đồng ý ly hôn. Sau đó, anh không đến Tòa án để tham gia tố tụng tại các
phiên hòa giải cũng như các phiên tòa. Do vậy, Tòa án tiến hành các thủ tục tố
tụng, công bố nội dung bản tự khai, ý kiến trình bày của anh Lê Phương Ninh
và xét xử vụ án vắng mặt anh theo quy định của pháp luật.
2.2 Thực trạng giải quyết tranh tranh chấp quyền nuôi con trong các vụ
án ly hôn tại Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân
2.2.1. Những ưu điểm đạt được trong giải quyết các quyền nuôi con trong
các vụ án ly hôn tại Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân
Về số lượng, tòa đã giải quyết các tranh chấp về quyền nuôi con được như
sau:
- Năm 2013 thụ lý 471 vụ án.
- năm 2014 thụ lý 479 vụ án.

- năm 2015 thụ lý 475 vụ án.
- năm 2016 thụ lý 523 vụ án.
- năm 2017 thụ lý 526 vụ án.
Tỉ lệ giải quyết trọn vẹn các vụ án trung bình đạt 99%.
Về chất lượng, tòa án quận Thanh Xuân đã thụ lý và giải quyết các tranh
chấp về quyền nuôi con nhằm đạt được kết quả tốt nhất làm tiền đề thuận lợi
cho quyết định và bản án HN&GĐ được chính xác. Trong quy trình làm việc,
tòa án quận Thanh Xuân đã làm đúng quy trình và thẩm quyền của mình. Cụ thể:

23


- Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân đã thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền,
đã xác định đúng quan hệ pháp luật, tư cách pháp lý của những người tham
gia tố tụng.
- Thẩm phán đã tuân thủ pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án
kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án
- Hội đồng xét xử đã tuân thủ nghiêm túc các quy định, thủ tục tại phiên
tòa, đảm bảo quyền và nghĩa vụ các bên tham gia tranh tụng.
Kết quả xét xử các tranh chấp đều thấu tình đạt lí, thống nhất được sự
đồng thuận của hai bên, không có trường hợp khởi kiện vượt cấp và kéo dài.
Trên thực tế thì rất ít trường hợp các bên không thỏa thuận được việc nuôi
con chung và khi có kết quả xét xử sơ thẩm, rất ít trường hợp kháng cáo về
nội dung này. Pháp luật Hôn nhân và gia đình qui định vợ, chồng có nghĩa vụ
và quyền ngang nhau đối với con chung. Khi giải quyết yêu cầu của đương sự
về nuôi con chung, Hội đồng xét xử phải căn cứ qui định tại Điều 92 Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2000 để phán quyết. Trong đó, Hội đồng xét xử
chú trọng các nguyên tắc cơ bản về trách nhiệm nuôi con của người mẹ đối
với con dưới 03 tuổi; quyền được hỏi ý kiến của con từ 9 tuổi về nguyện
vọng sống với cha hay mẹ sau ly hôn; nhận định điều kiện thực tế, khả năng

kinh tế, tư cách, trách nhiệm của cha, mẹ để giao con chung cho các bên nuôi
sau ly hôn; xác định nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con và quyền thăm nom, chăm
sóc con chung của người không nuôi con. Về cơ bản các quyết định của Hội
đồng xét xử trong thời gian qua đã thực hiện tốt các nội dung trên, đảm bảo
được quyền và lợi ích hợp pháp của con sau khi cha, mẹ ly hôn.
Ví dụ 1:

24


Vụ án vào ngày 29 tháng 9 năm 2017 (thụ lý số 98/2017/TLST - HNGĐ
ngày 16 tháng 3 năm 2017), Toà án nhân dân Quận Thanh Xuân xét xử về tranh
chấp xin ly hôn và nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
203/2017/HNGĐ ngày 25 tháng 08 năm 2017 giữa: Nguyên đơn: Chị Phạm
Thị Phương Thanh - sinh năm 1984 (có mặt). và bị đơn: Anh Mai Anh Tuấn sinh năm 1983 ( vắng mặt). Cả hai cùng ĐKHKTT và cư trú tại: P605 B2
Chung cư JSC34, ngõ 164 Khuất Duy Tiến, phường Nhân Chính, quận Thanh
Xuân, thành phố Hà Nội. Tòa đã xử: Sau khi ly hôn giao cháu Mai Khánh Vi
cho chị Thanh trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn việc đóng tiền cấp dưỡng nuôi
con chung cho anh Tuấn đến khi cháu Vi trưởng thành đủ 18 tuổi, có khả năng
lao động hoặc đến khi có sự thay đổi khác. Anh Tuấn có quyền đi lại thăm
nom chăm sóc giáo dục con chung không ai được ngăn cản.
Ví dụ 2:
Vụ án vào ngày 30 tháng 9 năm 2017 (thụ lý số 37/2017/TLST - HNGĐ
ngày 13 tháng 01 năm 2017), Toà án nhân dân Quận Thanh Xuân xét xử sơ
thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con
theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 224/2017/HNGĐ ngày 24 tháng 08 năm
2017 giữa: Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hồng Hạnh - sinh năm 1984 (có
mặt), ĐKHKTT và cư trú tại: tổ 5 cụm 4, phường Khương Đình, quận Thanh
Xuân, thành phố Hà Nội và bị đơn: Anh Lê Thanh Tùng - sinh năm 1983
( vắng mặt), ĐKHKTT: tổ 5 cụm 4, phường Khương Đình, quận Thanh Xuân,

thành phố Hà Nội. Cả hai cư trú tại: Số 4 ngõ 88/211, Khương Trung, phường
Khương Đình, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. Tòa đã xử: Về con
chung: Chị Nguyễn Thị Hồng Hạnh và anh Lê Thanh Tùng có hai con chung
là cháu Lê Khánh Nam sinh ngày 25 tháng 05 năm 2011 và cháu Lê Tuệ Anh
sinh ngày 07 tháng 02 năm 2014 hiện đang ở với chị Hạnh. Sau khi ly hôn,

25


×