Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

SKKN một số giải pháp dạy trẻ 4 tuổi kể chuyện theo tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.14 KB, 22 trang )

NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Trẻ em là niềm vui, niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của mỗi dân
tộc sự trưởng thành của mỗi con người ở hai phương diện “Đức, Tài”. Nhân cách của
mỗi con người trưởng thành tốt hay xấu là do sự giáo dục ngay từ lúc mới sinh ra
“Hiền giữ đâu phải là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà lên”
Trẻ em như búp trên cành, vì vậy trường mầm non là môi trường đầu tiên và cũng là
môi trường tốt nhất để hình thành và phát triển toàn diện nhân cách trẻ.
Nghị quyết về cải cách giáo dục của bộ chính trị ngày 11/01/1979 đã nêu “Giáo
dục mầm non là một bộ phận rất quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ ngay từ
thời kì thơ ấu, nhằm tạo ra cơ sở ban đầu rất quan trọng của con người mới, người
lao động làm chủ tập thể phát triển toàn diện”. Gần đây, các nhà giáo dục mầm non đã
có rất nhiều công trình nhiên cứu về đổi mới nội dung chương trình và phương pháp tổ
chức giáo dục trẻ trong nhà trường mầm non. Hiện tại lấy trẻ em làm trung tâm là nhiệm
vụ quan trọng và cấp thiết, nhằm phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo trong nhận
thức, tư duy và được phát triển các năng lực bản thân.
Trên thực tế việc nâng cao chất lượng giáo dục mầm non chính là nâng cao chất
lượng của từng hoạt động. Làm quen với văn học là một trong những hoạt động đóng
vai trò quan trọng trong tiến trình giáo dục của lứa tuổi này. Sự tiếp xúc thường xuyên
của trẻ với tác phẩm văn học sẽ giúp trẻ làm quen với ngôn ngữ nghệ thuật, mở mang
nhận thức phát triển tư duy trí tưởng tượng, hình thành ở trẻ những xúc cảm thẩm mĩ,
tình cảm đạo đức, thái độ sáng tạo ngôn ngữ và năng lực cảm thụ nghệ thuật. Như vậy
có thể nói văn học góp phần to lớn vào việc hình thành và phát triển toàn diện nhân
cách trẻ trong đó có kể truyện.
Kể chuyện chiếm một vị trí quan trọng trong kho tàng văn học Việt Nam. Nó đi
sâu vào tâm trí của mỗi con người ngay từ thủa ấu thơ.
Nội dung truyện gần gũi với cuộc sống của trẻ, nó gợi lên những cảm xúc lành
mạnh, dễ nhớ. Giúp trẻ hiểu được cái hay cái đẹp trong cuộc sồng xung quanh trẻ từ đó bồi
dưỡng tâm hồn thanh cao, lòng nhân ái và những đức tính tốt đẹp.
Trong giờ học cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học ở trường mầm non, truyện có


một vị trí rất quan trọng. Truyện không chỉ tạo ra cho trẻ năng lực sử dụng từ ngữ, suy
nghĩ, giao tiếp mà còn giúp trẻ hiểu một số từ khó từ địa phương.


Việc tổ chức tốt hoạt động kể truyện theo tranh cho trẻ mẫu giáo 4 tuổi có hiệu
quả giúp trẻ phát triển tốt về mọi mặt. Đó cũng chính là quá trình phát triển toàn diện
nhân cách cho trẻ mầm non.
Đối với trẻ mẫu giáo 4 tuổi việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt nhất là cho trẻ làm
quen với tác phẩm văn học. Trên cơ sở chỉ đạo, triển khai, quan tâm giúp đỡ của Phòng
giáo dục huyện Tam Dương và sự hướng dẫn trực tiếp của ban giám hiệu nhà trường. Qua
thực tiễn đặc điểm tình hình lớp 4 tuổi A3 và 4 tuổi A5, khả năng giao tiếp của trẻ còn
nhiều hạn chế. Cùng với sự tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp, tôi đã tích lũy đúc
rút được một số kiến thức và đã bắt tay vào nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp dạy trẻ 4
tuổi kể chuyện theo tranh” làm sáng kiến của mình với mục đích đem đến cho trẻ những
giờ làm quen với tác phẩm văn học thật hấp dẫn và thú vị, nhằm nâng cao khả năng giao
tiếp tốt nhất, có vốn từ, kỹ năng nói, khả năng hiểu và diễn đạt, đặc biệt sẽ gây được ấn
tượng mạnh, ghi nhớ có chủ đích của trẻ để trẻ phát huy được tính tái tạo, tính tưởng tưởng
sáng tạo theo logic khoa học và đây cũng là tiêu chí mà tôi đưa ra cho bản thân để hướng
tới thực hiện có hiệu quả công tác giáo dục trẻ tốt hơn.
2. Tên sáng kiến: Một số giải pháp dạy trẻ 4 tuổi kể chuyện theo tranh.
3. tác giả sáng kiến.
- Họ và tên: Lê Thị Lan
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường mầm non Hoàng Lâu - Tam Dương - Vĩnh
Phúc
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Lê Thị Lan
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Phát triển ngôn ngữ
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Từ tháng 02/2017
đến tháng 02/2018
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
7.1.Về nội dung của sáng kiến

Trong cuộc sống, chúng ta đều phải sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp với mọi
người và tư duy. Phát triển ngôn ngữ là phát triển các kỹ năng nghe, nói, đọc và viết.
Trẻ mầm non bắt đầu học ngôn ngữ, mà chủ yếu là hình thành và phát triển kỹ năng
nghe, nói, hiểu.
Đối với trẻ mầm non, ngôn ngữ không phải là một bộ “Quy tắc và ngữ
pháp” mà ngôn ngữ là công cụ để trẻ biểu đạt ý nghĩa tình cảm, cảm xúc và mong muốn
của mình với người khác và qua đó người khác hiểu được trẻ. Ngôn ngữ đóng vai trò


đặc biệt quan trọng trong việc phát triển tư duy, hình thành và phát triển nhân cách, là
công cụ để trẻ giao tiếp, học tập, vui chơi...Ngôn ngữ có vai trò rất quan trọng trong
việc phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ và phát triển thể lực cho trẻ.
Song vị trí của phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non tương đối đặc biệt vì từ sự
phát triển ngôn ngữ sẽ tham gia trực tiếp vào phát triển các lĩnh vực khác. Bởi ngôn ngữ
là phương tiện giao lưu tình cảm, phương tiện để trẻ nhận thức, khám phá tự nhiên và
xã hội.
Trong quá trình cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học ở trường mầm non, tôi
nhận thấy trẻ vẫn còn hạn chế trong khi giao tiếp, trẻ vẫn còn nhút nhát chưa mạnh dạn,
tự tin trong giao tiếp trao đổi ý kiến với bạn và cô giáo trong hoạt động hàng ngày. Một
số trẻ còn nói ngọng, nói lắp, diễn đạt chưa mạch lạc rõ ràng, nói không đủ câu.
Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mẫu giáo nhỡ là vô cùng cần thiết, để chuẩn bị
tốt cho trẻ bước lên lớp 5 tuổi có tâm thế tốt nhất để trẻ vào lớp một một cách tự tin. Từ
những hạn chế trên của trẻ, tôi luôn suy nghĩ và trăn trở xem mình phải làm gì và làm
như thế nào để nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong trường mầm
non.Từ đó tôi quyết định chọn sáng kiến “Một số giải pháp dạy trẻ 4 tuổi kể chuyện
theo tranh”.
7.2. Thực trạng
* Thuận lợi:
- Giáo vên có trình độ chuyên môn vững vàng, tâm huyết với nghề, nhiệt tình
trong công tác.

- Trẻ ngoan, có nền nếp trong học tập.
- Ban giám hiệu chỉ đạo sát sao, tạo mọi điều kiện tốt về cơ sở vật chất để giáo
viên thực hiện được các mục tiêu đã xây dựng.
- Trường lớp khang trang sạch đẹp tạo điều kiện cho tôi thực hiện có hiệu quả
cao sáng kiến.
* Khó khăn:
Hiện nay việc dạy trẻ kể truyện theo tranh ở lớp mẫu giáo 4 tuổi A3, 4 tuổi A5
nói riêng, trường mầm non Hoàng Lâu và trường mầm non Vân hội nói chung còn có
những hạn chế như sau:
Kĩ năng diễn đạt của trẻ chưa được cao, còn nhiều trẻ nói trống không, không
đủ câu, nên rất khó khăn trong việc tiếp cận với các tác phẩm văn học.


Chưa phát huy hết khả năng sáng tạo, linh hoạt trong tổ chức hoạt động
phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đôi khi còn dập khuôn, máy móc, chưa có kinh nghiệm khi
xây dựng kế hoạch giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.
Chưa khai thác hết khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ, chưa chú ý đến
việc thể hiện tình cảm, cảm xúc của trẻ trong các hoạt động hàng ngày.
Giáo viên có ít thời gian làm đồ chơi sáng tạo để phục vụ cho các hoạt động phát
triển ngôn ngữ của trẻ.
Khả năng truyền thụ tác phẩm văn học của giáo viên không đồng đều, một
số giáo viên còn hạn chế khi trò chuyện, kể chuyện, đàm thoại kích thích được sự phát
triển kỹ năng nghe, hiểu, nói của trẻ.
Nhận thức của trẻ không đồng đều. Khả năng sáng tạo của trẻ còn nhiều hạn
chế.
Số trẻ đông, một số trẻ còn quá hiếu động, một số trẻ nhút nhát nên việc rèn kỹ
năng cá nhân ảnh hưởng đến việc tiếp thu kiến thức.
Khả năng giao tiếp của trẻ còn nhiều hạn chế, vốn từ của trẻ chưa phong phú, quá
trình trải nghiệm, tiếp xúc với môi trường bên ngoài còn có những hạn chế nhất định.
Một số trẻ còn nói ngọng, phát âm không chuẩn nên ảnh hưởng tới sự tiếp thu

kiến thức và giao tiếp của trẻ.
Để phát triển ngôn ngữ khi cho trẻ mẫu giáo qua việc dạy trẻ kể truyện theo tranh
đòi hỏi giáo viên cần phải linh hoạt, năng động và sáng tạo trong việc xây dựng kế
hoạch giáo dục, tổ chức các hình thức, sử dụng phương pháp linh hoạt, chủ động, sáng
tạo phù hợp với đặc điểm của trẻ, giúp trẻ hoạt động tích cực, hứng thú.
Đầu năm học tôi nghiên cứu và tìm hiểu thấy được khả năng phát triển
ngôn ngữ, kỹ năng giao tiếp của trẻ (vốn từ, kỹ năng nói, khả năng hiểu và diễn đạt) còn
nhiều hạn chế. Tôi nhận thấy bản thân mình chưa tư duy sáng tạo trong việc lập kế
hoạch giảng dạy lấy trẻ làm trung tâm, giáo viên vẫn còn dạy trẻ theo hướng thụ động
đa phần vẫn là sự truyền đạt ở cô nên chưa phát huy được tính tích cực ở trẻ trong quá
trình tổ chức, hướng dẫn trẻ giáo viên thường hay mắc phải một số nhược điểm sau:
Giáo viên còn nói nhiều không phát huy được tính tích cực của trẻ khi tham gia các hoạt
động, nhất là khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học còn hạn chế, cô chưa tạo ra
được tình huống, chưa thường xuyên đặt ra được câu hỏi mang tính gợi mở, khuyến
khích tư duy của trẻ, tạo cho trẻ có cơ hội được diễn đạt nhiều. Hình thức tổ chức các
hoạt động chưa linh hoạt, sáng tạo và cứng nhắc, dập khuôn, sử dụng nhiều từ ngữ địa
phương. Sử dụng đồ dùng trực quan còn lúng túng, chưa khoa học.


* Khảo sát tình hình thực tế trẻ đầu năm lớp 4 tuổi A3-Trường mầm non Hoàng
Lâu (số trẻ 38)
Đạt
T
Số
ỷ lệ (%)
lượng

Nội dung

Yêu


thích

Chưa đạt

tác

17

S

lượng

44

phẩm

2

,7

Ngôn
mạch lạc

ngữ

kể

13


34

15

,3
2

65

5
39

,5

G
hi chú

55

1

,2

Kỹ năng giao tiếp

T
ỷ lệ (%)

,8
2


60

3

,5

* Khảo sát tình hình thực tế trẻ đầu năm lớp 4 tuổi A5-Trường mầm non Vân Hội
(số trẻ 38)
Đạt
T
Số
ỷ lệ (%)
lượng

Nội dung

Yêu

thích

Chưa đạt

tác

15

phẩm
ngữ


kể

Kỹ năng giao tiếp

12

31

60
,6

2
6

34

T
ỷ lệ (%)

2
3

,5
13


lượng

39
,4


Ngôn
mạch lạc

S

68
,5

2

65

G
hi chú


,2

5

,8

Những kết quả trên tôi nhận thấy rằng nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ
cho trẻ mẫu giáo qua việc dạy trẻ kể chuyện theo tranh là rất cần thiết.
7.3. Giải pháp mới
Để tổ chức tốt và đạt hiệu quả cao trong việc dạy trẻ kể chuyện theo tranh tôi đã
thực hiện một số Giải pháp sau:
7.3.1. Giải pháp thứ nhất: Luôn tự học tập bồi dưỡng chuyên môn, nâng cao
trình độ nhận thức cho bản thân.

Giúp cho bản thân có kiến thức, kỹ năng, tổ chức hoạt động giáo dục phát triển
ngôn ngữ cho trẻ, nhất là bồi dưỡng việc “Dạy trẻ kể chuyện theo tranh”.
Nắm chắc mục tiêu, nội dung, kết quả mong đợi trong chương trình giáo dục mẫu
giáo nói chung và mục tiêu, nội dung, kết quả mong đợi của từng độ tuổi nói riêng,
trong lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 4 tuổi.
Căn cứ vào mục tiêu, nội dung, kết quả mong đợi của từng độ tuổi trong lĩnh vực
phát triển ngôn ngữ tôi chủ động xây dựng kế hoạch hoạt động, hình thức tổ chức các
hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ, lựa chọn phương pháp giáo dục lấy trẻ làm trung
tâm sao cho phù hợp hiệu quả, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ.
Tổ chức tốt môi trường vật chất và môi trường xã hội, tạo cơ hội cho trẻ được thực hành
trải nghiệm, ứng dụng vào đời sống thực tiễn của trẻ. Ngoài ra tôi còn thường xuyên
theo dõi sự phát triển của trẻ qua phiếu theo dõi sau mỗi chủ đề, từ đó tôi điều chỉnh kế
hoạch giáo dục cho phù hợp với từng đối tượng trẻ.
Thường xuyên nghiên cứu tài liệu về giáo dục mầm non, chương trình giáo
dục mầm non nhất là sách hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục các độ tuổi, bồi
dưỡng thường xuyên.
Hàng tháng lên kế hoạch tự học, tự bồi dưỡng về những mặt còn hạn chế
của bản thân như: Thiết kế một hoạt động phát triển ngôn ngữ. Tôi luôn phải đọc kỹ tác
phẩm, phân tích kỹ nội dung của tác phẩm, đưa ra bài học gì qua tác phẩm, qua tác
phẩm giáo dục trẻ những nội dung gì, từ đó tôi đưa ra mục tiêu của hoạt động. Tôi tìm
và chọn những phương tiện hỗ trợ cho việc đưa tác phẩm đến với trẻ một cách dễ hiểu
và hứng thú nhất sau đó tôi tiến hành làm đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho hoạt động. Từ
mục đích, yêu cầu, chuẩn bị như trên tôi chọn những phương pháp hỗ trợ để tiến hành
một hoạt động nhẹ nhàng mà gây được hứng thú cho trẻ bằng các phương tiện hỗ trợ


như máy vi tính, trò chơi, trao đổi, giao lưu tình cảm, cảm xúc với trẻ, gần gũi hơn với
những trẻ dân tộc thiểu số để trẻ tin tưởng và yên tâm vào cô ...Trẻ được lĩnh hội kiến
thức với tâm trạng vui vẻ phấn khởi như vừa trải qua một cuộc vui chơi đầy hấp dẫn.
Cần sử dụng ngôn từ ngắn gọn, tôi đã nhờ giáo viên chung lớp quay video

lại tiết dạy của mình, tôi dùng dây dẫn kết nối với máy vi tính sau đó xem lại toàn bộ
hoạt động của mình. Những từ ngữ chưa mềm mại, chưa thuyết phục, chưa truyền cảm
tôi tự luyện tập ở mọi lúc, mọi nơi
7.3.2. Giải pháp thứ hai: Nghiên cứu tài liệu tập san, truy cập Internet
tham khảo giáo án, các tiết dạy của giáo viên dạy giỏi các cấp, Ứng dụng công nghệ
thông tin để có thêm kinh nghiệm kiến thức mới để áp dụng vào các giờ dạy trên lớp.
Tôi thường xuyên nghiên cứu, tài liệu có liên quan dến phương pháp kể chuyện,
đao loát trên mạng Internet để có thêm kinh nghiệm về cách tổ chức các giờ kể chuyện
luôn dược đổi mới về hình thức tạo sự hứng thú ở trẻ. Tôi thiết kế giáo án điện tử để có
những giờ kể chuyện có sử dụng hình ảnh trên máy chiếu, thường cho trẻ quan sát đàm
thoại chuyện tranh ở mọi hoạt động chơi trong ngày để trẻ được thoải mái đàm thoại
một cách cởi mở cùng cô và bạn về các nội dung câu chuyện sắp học từ đó trẻ nhở và
hiểu nội dung truyện một cách sâu sắc và thoải mái lên trẻ hứng thú với giờ học
hơn,tích cực trao đổi đàm thoại với cô và bạn.
Tôi tạo mọi diều kiện để dự giờ và tham khảo các giờ dạy của giáo viên giỏi các
cấp tìm và làm mới hình thức tổ chức trong các giờ tổ chức hoạt động trong và ngoài
lớp.
7.3.3. Giải pháp thứ ba: Linh hoạt, sáng tạo trong hoạt động có chủ đích.
Hoạt động có chủ đích là hình thức cơ bản và chủ yếu, tôi là người trực tiếp
hướng dẫn, gợi mở giúp trẻ thu nhận kiến thức, kỹ năng, thái độ một cách có hệ thống
lôgíc khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học.
Để hoạt động có chủ đích đi vào tâm hồn trẻ một cách sống động, không
khô khan, cứng nhắc thì tôi thực sự phải có một tài nghệ dẫn dắt. Hoạt động học làm
quen với tác phẩm văn học đưa trẻ đến thế giới cổ tích, cuộc sống xung quanh (thơ,
chuyện, đồng dao) đến với trẻ bằng nhiều phương pháp, hình thức khác nhau. Các
phương pháp, hình thức đó gắn liền với nhau một cách chặt chẽ. Mỗi phương pháp, hình
thức đều có ưu thế và hạn chế nhất định. Vì vậy khi dạy trẻ kể chuyện theo tranh bản
thân tôi lựa chọn các phương pháp, hình thức phù hợp với yêu cầu của từng câu chuyện,
để thu hút sự tập trung chú ý, tạo hứng thú của trẻ trong tiết học, giúp cho giờ học đạt
hiệu quả cao.



Cụ thể: Tôi đưa trẻ vào trung tâm của quá trình hoạt động. Phát huy tính tích cực
của trẻ. Dạy trẻ theo hướng lồng ghép tích hợp.
Tôi dùng câu hỏi gợi mở để dẫn dắt trẻ, cho trẻ được thực hành trải
nghiệm: Kể lại chuyện, diễn kịch, trả lời câu hỏi của cô nhiều lần, cho trẻ được thảo
luận nhóm, thảo luận vai chơi, giao tiếp và trình bày những nhận xét của bản thân mình
về các nhân vật, tác phẩm văn học.
Ví dụ: Khi cho trẻ tự kể chuyện và hướng dẫn trẻ tập kể chuyện, tôi đã cho trẻ kể
chuyện bằng nhiều cách khác nhau như: Tôi kể một đoạn rồi cho trẻ kể tiếp cho đến khi
kết thúc câu chuyện tôi cho trẻ kể chuyện theo tranh về một câu chuyện dựa trên yếu tố
trực quan kể chuyện sáng tạo dựa trên ý tưởng, vốn kinh nghiệm, sự tưởng tượng sáng
tạo của cá nhân trẻ. Tôi thực hiện theo các bước sau:
Trò chuyện với trẻ để giúp trẻ chọn ý tưởng và nội dung câu truyện.
Đàm thoại với trẻ nhằm khơi gợi các hình ảnh liên quan đến nội dung câu
chuyện.
Cho trẻ tập kể chuyện: Tôi gọi từng trẻ lên kể vì mỗi trẻ có một cách kể chuyện
riêng và đặt tên cho câu chuyện của mình.
Tôi kể sáng tạo nhưng không áp đặt cách kể của cô theo khuôn mẫu đối với trẻ.
Tôi khen ngợi, động viên, khuyến khích tất cả các trẻ tham gia vào hoạt động kể
chuyện.
Từ đó trẻ đưa ra bài học kinh nghiệm cho bản thân, diễn đạt nhu cầu mong muốn
của mình với bạn và cô giáo. Tôi thường xuyên quan tâm trao đổi, trò chuyện nhiều hơn
với trẻ, liên hệ từ tác phẩm văn học với cuộc sống hàng ngày của trẻ, động viên, khuyến
khích trẻ bằng lời nói, ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ nhẹ nhàng, thân thương mà gần gũi.
Một yêu cầu đặt ra đối với tôi khi dạy trẻ “Kể lại chuyện” là các kiến thức khi
truyền thụ đến trẻ phải hết sức ngắn gọn, tuyệt đối tránh hình thức, dập khuôn, luôn
sáng tạo đổi mới câu từ phù hợp vì thế trước khi thực hiện một tiết dạy "Kể lại chuyện"
tôi phải chuẩn bị đồ dùng, soạn bài và nghiên cứu kỹ bài soạn. Nắm rõ yêu cầu của bài
dạy chọn trò chơi phù hợp với nguyên tắc với chủ đề. Chuẩn bị tâm thế bằng cách tôi

luyện đọc, kể tác phẩm văn học nhiều lần để câu từ luôn chính xác, rõ ràng, giúp trẻ dễ
hiểu, nhập tâm vào tác phẩm để truyền tình cảm của mình tới tất cả các học sinh trong
lớp, đặt ra những tình huống sư phạm và nghiên cứu tìm ra biện pháp giải quyết hữu
hiệu nhất để trẻ vừa giải quyết được thắc mắc của bản thân mà không cảm thấy khó
chịu, ghi nhớ kiến thức.


Tôi lựa chọn nội dung tác phẩm cho phù hợp, chuẩn bị đồ dùng khi trẻ tham gia
kể sáng tạo: Mũ, trang phục...để trẻ được nhập vai mình vào các nhân vật trong truyện
kể lại bằng ngôn ngữ, hành động cho cô và các bạn cùng nghe.
Lấy hình ảnh sinh động từ mạng, sách báo làm đồ dùng dạy học cho trẻ để
tăng tính hứng thú cho trẻ. Qua đó cũng phát huy được tính tái tạo và sáng tạo của trẻ
khi cho trẻ kể truyện sáng tạo. Để tạo hứng thú cho trẻ đạt hiệu quả cao tôi rèn luyện
nghệ thuật lên lớp mọi lúc, mọi nơi để ngôn ngữ diễn đạt ngắn gọn, mềm mại, chính xác
để hấp dẫn trẻ vào tiết học. Trước khi vào bài tôi thường kể truyện (dựa trên chủ đề)
nhằm cuốn hút trẻ vào thực tế để trẻ dễ nhớ, dễ hiểu tránh gò bó.
Qua những tiết hoạt động có chủ đích như vậy: Trẻ rất hứng thú, sôi nổi
tham gia trả lời câu hỏi của tôi đưa ra, đồng thời trẻ đã biết sử dụng câu hỏi của mình để
giải quyết những thắc mắc của bản thân, thích được thể hiện tình cảm, cảm xúc của
mình với tác phẩm văn học: “Con thích nhân vật gà trống, vì gà trống dũng cảm và
thông minh”...Trẻ đã biết kết hợp thảo luận, trao đổi với các bạn trong nhóm của mình:
“Mình thích hoặc không thích nhân vật này vì nhân vật gấu nhút nhát hay nhân vật cáo
tham lam cướp nhà của bạn...”
7.3.4. Giải pháp thứ tư: Hình thành kỹ năng quan sát, nghe, nói, đọc của trẻ.
Khảo sát kỹ năng quan sát, nghe, nói, đọc, để có kế hoạch bổ sung, rèn luyện cho
trẻ thường xuyên trong ngày, trong các hoạt động để trẻ được quan sát, nghe, nói, đọc
một cách đầy đủ. Từ kết quả khảo sát đó tôi có kế hoạch xây dựng hệ thống kiến thức,
câu hỏi, sắp xếp thời gian bồi dưỡng cho những trẻ chưa đạt yêu cầu.
Sau mỗi chủ đề kết thúc, tôi tổ chức khảo sát, đánh giá trẻ theo các bài tập
với các kỹ năng quan sát, nghe, nói, đọc.

* Kỹ năng nghe và quan sát: Khi đàm thoại, giao tiếp với trẻ tôi dùng những lời
nói nhẹ nhàng, sinh động, gần gũi với cuộc sống hàng ngày của trẻ giúp trẻ dễ hiểu và
hình dung ra vấn đề và có câu trả lời nhanh và chính xác hơn. Thường xuyên giao tiếp,
trao đổi gần gũi với trẻ về cuộc sống hàng ngày đồng thời cung cấp thêm vốn từ cho trẻ.
Đặt nhiều câu hỏi đặc biệt là những câu hỏi gợi mở.
Ví dụ: Trong câu chuyện “Tích Chu”, tôi đưa ra lời gọi của bà khi bà bị ốm “Tích
Chu ơi lấy cho bà ngụm nước, bà khát quá” hỏi trẻ: Tiếng gọi này của ai? Trong câu
chuyện gì? vì sao con biết? và cho trẻ tập diễn đạt lại giọng điệu, lời nói của bà. Những
câu hỏi về so sánh như “Hai bức tranh này/hai nhân vật này giống và khác nhau ở điểm
nào?” và giành thời gian khuyến khích để trẻ hứng thú tham gia trả lời. Khuyến khích
trẻ đặt câu hỏi, trân trọng câu hỏi và câu trả lời của trẻ.


Giao bài tập cho trẻ bằng cách cho trẻ nghe một câu truyện, bài thơ trên
đĩa máy vi tính (chỉ có lời, không có hình hoặc chỉ có hình mà không có lời) rồi đưa ra
câu hỏi về tác phẩm văn học đó như: Cô con mình vừa được xem phim gì? Phim đó có
những nhân vật nào? Trong câu chuyện gì? Rồi tiến hành cho trẻ kể/đọc tác phẩm văn
học đó.
Ví dụ: Tôi cho trẻ xem hình ảnh thỏ đang ngồi khóc dưới gốc cây và hỏi trẻ nhân
vật nào đây trong truyện gì? thì trẻ sẽ liên tưởng đến câu chuyện “Cáo, thỏ và gà trống”
và kể lại câu chuyện đó.
Sau khi khảo sát như vậy tôi thấy trong lớp vẫn còn những trẻ chỉ được ở mức
“Đạt” tôi lại tiến hành bố trí thời gian, không gian và xây dựng kế hoạch, kiến thức bồi
dưỡng thêm cho trẻ như vào các buổi chiều, giờ đón, trả trẻ để củng cố thêm kiến thức
và vốn từ cho trẻ.
Tôi còn dùng những hình ảnh sinh động để cuốn hút sự chú ý để kiểm tra trẻ:
Những hình ảnh về chủ đề, về tác phẩm văn học mà trẻ đã làm quen trên máy tính, tranh
ảnh qua đó đàm thoại với trẻ để trẻ được khám phá và phát triển thêm vốn từ ngữ. Tôi
thường xuyên làm những động tác vui, buồn... thể hiện bằng nét mặt, cử chỉ rồi cho trẻ
nhận xét, đoán xem đó là thể hiện tình cảm như thế nào và cho trẻ bắt chước làm lại có

thể kèm theo một số lời nhận xét, tả lại quá trình mà con làm như thế nào. Cho trẻ quan
sát hình ảnh có tính hệ thống: Từ gần đến xa và cho trẻ nhận xét về hình ảnh đó: Hình
ảnh ở gần to hơn, hình ảnh ở xa nhỏ hơn.
Gây sự chú ý của trẻ bằng các hình ảnh sinh động, hấp dẫn trên máy vi tính, tranh
ảnh, sách, báo, lô tô, đặc biệt là những hình ảnh động để trẻ tập trung chú ý quan sát.
Cho trẻ nghe, xem tranh ảnh, xem nhiều phim (tác phẩm văn học dưới hình thức phim)
từ đó trẻ quan sát được các cử chỉ điệu bộ khác nhau theo từng tình huống qua đó đàm
thoại với trẻ, để trẻ được phát triển ngôn ngữ.
Tôi thường sưu tầm những bộ phim, hình ảnh, làm giáo án điện tử trên máy tính
cho trẻ xem, trẻ khám phá, kích thích sự tò mò ham hiểu biết của trẻ.
* Kỹ năng nói, đọc: Giúp trẻ kể chuyện mạch lạc, rõ ràng, tròn vành, rõ chữ, nói
đủ câu, không nói lắp, nói ngọng, dạy trẻ hiểu mối quan hệ giữa lời nói và chữ viết bằng
nhiều cách khác nhau: Tôi chú ý quan sát, lắng nghe khi trẻ thể hiện tác phẩm, nhận ra
điểm sai và sửa cho trẻ bằng cách cho trẻ đọc đi đọc lại nhiều lần.
Ví dụ: Như trong lớp có cháu nói ngọng âm n thành âm l. Khi đó tôi thường cho
cháu kể lại những đoạn truyện có nhiều âm n và mỗi lần cháu kể sai, tôi kể lại hoặc cho
bạn không bị nói ngọng kể lại đoạn chuyện đó, hỏi cháu cô và bạn kể khác con ở chỗ


nào, câu nào và cho trẻ kể lại đoạn truyện đó, cứ nhiều lần như vậy cháu sẽ khắc phục
được và không bị nói ngọng nữa.
Bổ sung vốn từ ngữ cho trẻ, tạo cho trẻ có thói quen nói đầy đủ câu, rõ ý
Ví dụ: Khi học xong tác phẩm “Cáo thỏ và gà trống” cô hỏi trẻ: “Qua câu truyện
con yêu quý và học tập ai” thì trẻ sẽ trả lời “Anh gà trống” như vậy vẫn chưa đủ câu, để
giúp trẻ tôi lại hỏi ngược lại lần nữa: “Ai thông minh và dũng cảm giúp bạn thỏ lấy
được ngôi nhà nhỉ” lúc này trẻ sẽ có câu trả lời đầy đủ và rõ ràng đó là: “Con yêu quý
và học tập anh gà trống ạ”. Cô thường xuyên trao đổi, gần gũi chia sẻ với trẻ về cuộc
sống hàng ngày của trẻ, tạo điều kiện để trẻ chia sẻ với bạn bày tỏ thái độ tình cảm của
mình với các nhân vật
Tôi đặt ra các câu hỏi nguyên nhân, kết quả: Tại sao? Để làm gì? Như thế nào? Vì

sao con biết? Và những câu hỏi so sánh như: Tại sao? Có điểm gì giống và khác nhau?
Để trẻ tư duy lôgic và có câu trả lời chính xác, rõ ràng hơn.
Khuyến khích trẻ tham gia biểu diễn hay đóng kịch thể hiện tình cảm của mình
với nhiên nhiên, con người, cuộc sống. Từ đó trẻ biết bày tỏ tình cảm và kinh nghiệm
của bản thân rõ ràng dễ hiểu bằng những câu đơn, câu ghép khác nhau. Trẻ biết trả lời
những câu hỏi về nguyên nhân, so sánh: Tại vì, có điểm giống và khác nhau ở chỗ, ở
điểm...Và cũng biết đặt các câu hỏi: Tại sao? Như thế nào? Để làm gì?... Biết sử dụng
các từ biểu cảm, có hình ảnh. Tự tin khi giao tiếp. Nói và thể hiện cử chỉ, điệu bộ, nét
mặt phù hợp với yêu cầu, hoàn cảnh giao tiếp.
Tôi sưu tầm hay xây dựng những tác phẩm văn học như: Một tác phẩm chỉ có
hình ảnh mà không có lời để cho trẻ kể lại theo diễn biến trình tự tương ứng với những
hình ảnh trong tranh, hoặc có cả hình ảnh cả lời kể của cô nhưng thiếu mất một đoạn
nào đó của tác phẩm để cho trẻ kể lại đoạn còn thiếu đó... Cho trẻ tự đọc thơ, truyện, ca
dao, đồng dao, câu đố…kể lại sự việc một cách rõ ràng, mạch lạc, dễ hiểu, diễn cảm, kể
chuyện sáng tạo theo đồ vật, theo tranh, theo chủ đề và kinh nghiệm của bản thân. Tôi
là người dẫn truyện rồi cho trẻ đọc kể lại theo trình tự của tác phẩm văn học từ đầu đến
cuối, từ trên xuống dưới. Biết cách ngắt giọng, ngừng, nghỉ đúng chỗ, đúng lúc, biết
cách đọc từ trái sang phải, khi đọc ngồi ngay ngắn hướng tâm thế vào tác phẩm văn học.
Động viên khen ngợi và khuyến khích khi trẻ bày tỏ nhu cầu mong muốn của mình, kể
lại sự việc có trình tự. Tổ chức cho trẻ những buổi tập đóng kịch để giúp trẻ nhập tâm
của mình vào trong nhân vật của tác phẩm văn học, thể hiện qua lời nói, hành động, để
phân biệt được rõ cảm xúc. Việc rèn luyện những kỹ năng đó giúp trẻ không những
thuộc tên tác phẩm, tác giả khi làm quen với tác phẩm văn học mà trẻ còn hiểu được nội
dung và từ đó bộc lộ tình cảm, cảm xúc của bản thân khi cảm thụ tác phẩm văn học thể
hiện qua ngữ điệu lời nói, cử chỉ điệu bộ, và giáo dục trẻ, trẻ rút ra bài học kinh nghiệm


đồng thời phát triển tính tái tạo và sáng tạo thông qua giờ tạo hình: Cho trẻ vẽ nhân vật
trong truyện, kể chuyện sáng tạo, đóng kịch...
Nhờ có kỹ năng quan sát, nghe, nói đọc, trẻ sẽ biết thể hiện tối đa nhất về tình

cảm của mình cho tác phẩm văn học bộc lộ lên qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ, lời nói. Đây
cũng chính là những bước để tôi nắm bắt được đặc điểm tâm, sinh lý của từng trẻ, từ đó
tôi đưa ra những biện pháp chăm sóc giáo dục trẻ và chủ động điều chỉnh linh hoạt,
sáng tạo, phù hợp.
7.3.5. Giải pháp thứ năm: Tạo môi trường ngôn ngữ phong phú, đa dạng.
Môi trường giáo dục trong lớp có tác dụng tốt đến quá trình chăm sóc giáo dục
trẻ, có tác động mạnh mẽ và trực tiếp tới tâm, sinh lý của trẻ. Để trẻ được làm quen với
tác phẩm văn học ở mọi lúc mọi nơi, tôi luôn tạo môi trường trong và ngoài lớp thân
thiện nhất, đẹp và sinh động để cuốn hút trẻ.
Ở lớp trang trí các góc bằng chính sản phẩm của cô và của trẻ phù hợp với chủ
đề. Đặc biệt là ở góc phân vai tạo những hình ảnh đẹp tượng trưng cho trẻ nhập vai
mình vào các nhân vật trong tác phẩm để trẻ được thể hiện mình qua sự tái tạo các hình
ảnh nhân vật và phát triển được tính sáng tạo. Ví dụ: Cắt, xé, dán, vẽ, nặn những nhân
vật chính trong tác phẩm văn học trang trí vào các góc trong lớp đặc biệt là góc phân vai
và cho trẻ kể lại câu chuyện qua những hình ảnh mà trẻ vừa làm được.
Trang trí khu vườn cổ tích bằng những hình ảnh nhân vật trong truyện cổ tích như
hình ảnh truyện “Thần sắt” “Sự tích hoa hồng” “Nàng tiên cá”, “Sự tích dưa hấu”.... phù
hợp với từng chủ đề để trang trí khi cho trẻ khám phá trẻ sẽ hứng thú tham gia hoạt
động đóng vai các nhân vật để kể lại chuyện.
Ví dụ: Tôi thường xuyên trò chuyện với trẻ vào các thời điểm đón trẻ, giờ chơi,
giờ sinh hoạt, lúc rảnh rỗi nhằm tìm hiểu nhu cầu, hứng thú, tâm trạng, tình cảm của trẻ
về bản thân, sự vật hiện tượng xung quanh như thời tiết hôm nay như thế nào? Con cảm
thấy mình như thế nào? Những đồ vật này có công dụng gì? Cái này có thể dùng vào
những việc gì?
Động viên khuyến khích trẻ tham gia trò chuyện với cô và bạn, tổ chức trò chơi
ngôn ngữ cho trẻ, trò chơi kết hợp vận động với lời ca, lời đồng dao đưa trẻ vào hoạt
động bằng cách bắt chước vần điệu và nhịp điệu ngôn ngữ. Thường xuyên tập cho trẻ
nghe và phân biệt âm thanh từ các giọng khác nhau: Giọng của cô, của từng bạn, âm
thanh của của các đồ vật khác nhau. Tổ chức các hoạt động có sử dụng văn hóa địa
phương: Nghe, kể chuyện dân gian, hò, vè...

Chụp lại những khoảnh khắc của cô và trẻ trong khi chơi, dạo chơi hay đóng kịch
kể lại truyện, khi trẻ được thực hành trải nghiệm, làm hình ảnh trang trí dán vào tường


trong lớp học để khi trẻ được tham gia trẻ nhận thấy sự tự tin, hào hứng, phấn khởi, gần
gũi, thân quen. Trên các mảng tường, tại các góc lớp tôi trang trí nhiều hình ảnh đẹp,
sinh động phù hợp với từng chủ đề và mỗi hình ảnh đó đều được gắn tên gọi để trẻ được
làm quen, khám phá: Phát âm, tìm chữ, gắn thẻ chữ…
7.3.6. Giải pháp thứ sáu: Tích hợp qua các hoạt động khác.
Trong chương giáo dục mầm non hiện nay, việc tổ chức cho trẻ làm quen với tác
phẩm văn học cần phải đặt trong mối liên hệ với các hoạt động khác cùng chủ đề, phải
tổ chức theo tính tích hợp, nhằm kích thích tính tích cực và huy động được nhiều kinh
nghiệm sống của trẻ.
Để thực hiện được điều này, tôi dựa trên khả năng, đặc điểm tâm - sinh lý của trẻ
khả năng của chính mình và những điều kiện cụ thể của trường, lớp, địa phương để lựa
chọn hướng tích hợp mang lại hiệu quả nhất.
Tích hợp môn âm nhạc: Tôi thường chọn những bài thơ, câu truyện ngắn phù hợp
với nội dung bài hát. Cho trẻ đọc thơ, kể cho trẻ nghe những mẩu chuyện ngắn trong
phần tạo hứng thú và cũng có thể ở phần kết thúc nếu phù hợp.Ví dụ như khi cho trẻ hát
theo nhạc bài hát “Gà trống, mèo con và cún con” cho trẻ kể chuyện theo tranh qua
chuyện “Cáo, thỏ và gà trống”.
Tích hợp môn tìm hiểu môi trường xung quanh: Môi trường xung quanh trẻ rất đa
dạng và phong phú, ví dụ khi cho trẻ “Tìm hiểu về một số con vật nuôi trong gia đình”
tôi sử dụng những câu đố về con vật đó cho trẻ đoán qua đó trẻ cũng được phát triển
vốn từ của mình...
Tích hợp môn làm quen với toán: Trong khi cho trẻ làm quen với toán tôi sử dụng
các nhân vật trong tác phẩm, gắn số thẻ tương ứng. Hoặc trong câu truyện đó. Đặt ra các
câu hỏi khác nhau như: Trong truyện có mấy nhân vật, có mấy người con, có mấy anh
em? Như vậy trẻ sẽ phải nhẩm và đếm số người trong tác phẩm đó và trả lời.
Tích hợp bộ môn tạo hình: Sau khi trẻ đã hoạt động nhiều thì môn tạo hình rất

phù hợp với trạng thái tĩnh. Tôi cho trẻ tô màu các nhân vật đó theo yêu cầu của cô hoặc
trẻ được cắt ra dán, xé dán làm bộ sưu tập người tốt, người xấu. Tôi dùng câu hỏi gợi
mở yêu cầu trẻ nhẹ nhàng hình dung tưởng tượng và vẽ, phác họa chân dung về các
nhân vật trong tác phẩm.
Với mong muốn nhằm nâng cao chất lượng cho trẻ phát triển ngôn ngữ qua việc
làm quen với tác phẩm văn học, tôi cần phải cố gắng tranh thủ tận dụng triệt để và hiệu
quả các hoạt động trong ngày để trẻ làm quen một cách hợp lý và khoa học nhất.


Giờ đón - trả trẻ: Có thể cho trẻ đọc đồng dao, trò chuyện, đàm thoại bằng những
câu hỏi gần gũi, đơn giản với trẻ. Khuyến khích trẻ kể lại sự việc ngày hôm qua, khi về
nhà có những vui, buồn như thế nào cho cô và các bạn cùng nghe.
Hoạt động chung có mục đích (học): Ngoài tiết dạy cho trẻ làm quen với tác
phẩm văn học với tất cả các môn học khác nếu có thể đều lồng ghép thêm tác phẩm văn
học vào sao cho phù hợp với bài dạy.
Hoạt động góc: Tôi cùng trẻ làm ra các sản phẩm về chủ đề rồi gắn những hình
ảnh sinh động của tác phẩm văn học về chủ đề, chủ điểm đó để cho trẻ quan sát, khám
phá, tìm tòi và hứng thú để thể hiện, biểu diễn tác phẩm đúng theo trình tự hình ảnh.
Đặc biệt là ở góc phân vai cô gắn những hình ảnh sáng tạo về các nhân vật trong tác
phẩm nào đó rồi cho trẻ quan sát phát hiện và tìm ra đó là nhân vật nào trong tác phẩm
gì rồi dùng lời nói, hành động, cử chỉ kể lại chuyện đó hoặc kể lại những lời nói cử chỉ
của nhân vật đó tôi có thể là người dẫn truyện để hướng dẫn, giúp đỡ, động viên trẻ thực
hiện.
Ví dụ: Góc phân vai tôi cho trẻ đóng kịch một tác phẩm văn học ví dụ như tuyện
“Tích Chu” chủ đề gia đình.Tôi hướng dẫn trẻ biết thỏa thuận chơi, nhận vai chơi thảo
luận nhóm, đoàn kết giúp đỡ bạn, liên kết, giao tiếp, thảo luận trong nhóm chơi, góc
chơi và giữa các góc với nhau.
Ví dụ: Góc xây dựng tôi tổ chức cho trẻ lắp ghép, xây dựng suối Tiên, đường đến
suối Tiên, ngôi nhà, khu vườn của bà và Tích Chu.
Ví dụ: Góc thư viện - học tập, cho trẻ xem tranh ảnh về câu chuyện, hình ảnh các

nhân vật trong truyện “Ai đáng khen nhiều hơn”, lô tô về gia đình: Ông bà, các cháu...
Làm bộ sưu tập về gia đình.
Ví dụ: Góc nghệ thuật, tổ chức hướng dẫn cho trẻ nặn, vẽ, cắt - xé - dán, tô màu
các nhân vật trong tác phẩm: Tích Chu, bà, cô Tiên. Múa hát những bài hát về chủ đề,
ca ngợi về bà: “Cháu yêu bà”, “Cả nhà thương nhau”...
Ví dụ: Góc thiên nhiên, tôi cùng trẻ tạo hình ảnh bà, Tích Chu bằng cách xếp hình
từ cây, que, lá khô, sỏi. Vẽ hình ảnh, chân dung bà, Tích Chu, cô Tiên trên cát. Khi thực
hiện xong tôi cho trẻ kể lại truyện theo trình tự diễn biến, miêu tả các nhân vật bằng
ngôn ngữ.
Hoạt động ngoài trời, tôi cho trẻ quan sát và kể lại hoặc đọc các tác phẩm văn học
thông qua hoạt động quan sát, đàm thoại, nhận xét muốn trẻ học được bài hiệu quả
nhanh và nhớ lâu, nếu trẻ được trực tiếp tham gia vào các hoạt động đó. Tôi sưu tầm,
sáng tác một số trò chơi khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học tăng hứng thú, cung
cấp, củng cố kiến thức, kỹ năng cho trẻ.


Trẻ mầm non “Học bằng chơi, chơi mà học”. Muốn trẻ học được bài hiệu quả
nhanh và nhớ lâu, nếu trẻ được trực tiếp tham gia vào các hoạt động đó. Giáo viên cần
phải sưu tầm, sáng tác một số trò chơi khi dạy trẻ kể chuyện tăng hứng thú, cung cấp
củng cố kiến thức kỹ năng cho trẻ.
Tôi đóng vai trò là người hướng dẫn trẻ hoặc có thể cũng là một trong những vai
chơi trong nhóm để chơi cùng trẻ.
Ví dụ: Trò chơi: “Đóng kịch” Cách chơi: Trẻ giả làm các nhân vật trong tác phẩm
văn học rồi kể lại chuyện thể hiện bằng cử chỉ, nét mặt điệu bộ… theo đúng trình tự của
từng nhân vật.
Trò chơi “Ghép tranh” (Tôi chuẩn bị sẵn các miếng ghép thể hiện trình tự của
chuyện). Cách chơi: Trẻ xếp miếng ghép theo trình tự diễn biến của chuyện. Luật chơi:
Sau thời gian là 1 bản nhạc, nếu đội nào xếp nhanh và đúng sẽ là đội chiến thắng. Nếu
đội nào ghép sai miếng ghép tức là sai trình tự diễn biến của chuyện sẽ không được tính
điểm.

Trò chơi: “Bé tập làm phim”. Cách chơi: Lần lượt trẻ lên sắp xếp theo trình tự
diễn biến của chuyện ở trên máy tính bằng cách chọn tấm hình nào thì sẽ kích chuột vào
hình đó nếu đúng trình tự thì tấm hình đó tự động di chuyển lên trên và máy tính sẽ tự
động báo khen, khuyến khích trẻ. Luật chơi: Nếu lựa chọn tấm hình mà không đúng
trình tự diễn biến của chuyện thì khi kích chuột vào miếng hình đó sẽ không di chuyển
và máy sẽ báo không được và sẽ phải nhường lượt chơi cho bạn khác.
Trò chơi “Kể chuyện theo tranh”. Cách chơi: Khi cô đưa tranh của đoạn nào trong
chuyện thì trẻ phải kể lại diễn biến của đoạn đó. Vì vậy bản thân tôi luôn chịu khó tìm
tòi sưu tầm và sáng tạo sáng tác ra các trò chơi và biết vận dụng hợp lý các trò chơi ấy
vào các giờ học ở mọi lúc, mọi nơi một cách phù hợp sẽ kích thích trẻ ham tìm tòi, học
hỏi, sáng tạo và trẻ sẽ hứng thú hơn khi đến lớp và sẽ sôi nổi khi tham gia các hoạt
động.
Ngoài ra cũng có thể cho trẻ vẽ hình trên cát, xếp hình bằng các cây, que, lá cây
rồi trẻ ghép kể lại thành trình tự một câu chuyện hoàn chỉnh.
Trong giờ ăn, tôi cho trẻ hoặc cùng trẻ giải thích món ăn, chất dinh dưỡng có
trong món ăn, cho trẻ đọc thơ, vè, đồng dao về chủ đề…Qua đó rèn kỹ năng trong vệ
sinh ăn uống cho trẻ. Tôi đọc câu đố về các loại món ăn cho trẻ lắng nghe và tìm ra câu
trả lời.
Giờ ngủ, trước khi trẻ ngủ tôi có thể kể chuyện, ngâm thơ cho trẻ nghe hoặc hát
những bài hát ru mang âm hưởng nhẹ nhàng dần đưa trẻ vào giấc ngủ.


Hoạt động chiều, cho trẻ múa hát những bài thơ được phổ nhạc sang thành bài
hát hoặc đồng dao hay tổ chức cho trẻ đóng kịch: Trẻ sẽ được trực tiếp nhập vai và trở
thành nhân vật trong chuyện như vậy trẻ sẽ phát triển toàn diện hơn.
Qua ngày lễ, ngày hội, thông qua không khí của ngày lễ, ngày hội có thể cho trẻ
được trực tiếp thể hiện các tác phẩm văn học như: Kể chuyện, đọc thơ… Hoặc cũng có
thể kể lại không khí và trình tự của ngày hội, phát biểu cảm nhận của mình đối với
ngày hội đó.
Mọi hoạt động trong ngày của trẻ đều được lồng ghép các câu chuyện, khi trẻ

được học mọi lúc mọi nơi thì vốn từ ngữ của trẻ càng được mở rộng và phong phú hơn,
trẻ phát âm chính xác, câu, từ, vành tròn rõ chữ, không nói ngọng, đầy đủ câu và lễ phép
hơn trong khi giao tiếp.
Qua các trò chơi trên máy vi tính như vậy trẻ của lớp tôi hứng thú, say mê học
hơn, đồng thời các thao tác trên máy của trẻ được làm quen và thiết lập, tư duy phát
triển mạnh, sự ghi nhớ các hình ảnh đúng, sai được dễ dàng. Tôi thường xuyên sưu tầm
những tài liệu về các tác phẩm văn học phù hợp với lứa tuổi hợp với sức của trẻ và tôi
sử dụng trên đĩa hình đưa vào máy vi tính và vào các buổi chiều tôi thường mở trên máy
vi tính cho trẻ xem như những bộ phim được chuyển thể từ các tác phẩm văn học,
những bài thơ, bài hát, vè, đồng dao…Bên cạnh đó tôi sưu tầm những hình ảnh mang
tính giáo dục treo ở góc tuyên truyền như: Trẻ đang đóng kịch, đang biểu diễn kể
chuyện, ngâm thơ... Qua những hình ảnh đó tôi có thể tiến hành ứng dụng dạy trẻ trên
tiết học hoặc trong các hoạt động để khắc sâu kiến thức hơn cho trẻ.
7.3.7. Giải pháp thứ bảy: Thực hiện tốt tông tác phối hợp, tuyên truyền với phụ
huynh.
Khi trẻ đến trường được tôi cho kể chuyện thông qua các hoạt động với nhiều
hình thức khác nhau. Tuy nhiên các kiến thức, kỹ năng mà trẻ thu nhận được cũng cần
phải được ôn luyện tại nhà. Vì vậy để trẻ được học tốt cần có sự phối hợp cộng tác giữa
giáo viên và phụ huynh học sinh. Trong khi đó để công tác tuyên truyền với phụ huynh
một cách khoa học và đạt hiệu quả tốt, tôi đã thực hiện như sau:
Hàng ngày tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh về tình hình sức khỏe và học
tập của trẻ để về nhà phụ huynh kết hợp dạy thêm, cho trẻ ôn luyện thêm bằng cách hỏi
trẻ như: Hôm nay con được chơi trò chơi gì, chơi như thế nào, con được nghe cô kể
chuyện gì?.. con kể lại cho bố mẹ nghe nào?...
Lên kế hoạch, thông báo chương trình dạy trẻ, ghi rõ ràng nội dung giáo dục vào
bảng “Cha mẹ cần biết” để phụ huynh theo dõi, ôn luyện thêm cho con em mình khi ở


nhà. Đưa nội dung trẻ đã được học ở lớp, cho phụ huynh về nhà cùng tham khảo và
hướng dẫn trẻ.

Giới thiệu các loại sách, vở có tính giáo dục phù hợp với độ tuổi, chương trình tới
phụ huynh. Trao đổi một số nhược điểm của trẻ: Cách phát âm, cách thể hiện cử chỉ, điệu
bộ, kỹ năng giao tiếp…để phụ huynh nắm được. Từ đó phụ huynh luôn kết hợp với giáo
viên để hướng dẫn, giúp đỡ trẻ và bên cạnh đó khi tuyên truyền phụ huynh sưu tầm trang
bị tranh truyện để khi về nhà bé được kể và chơi với tranh truyện khi trẻ đã kể đọc nhiều
sách tranh đó tôi linh hoạt trao đổi với phụ huynh lên cho mượn và ủng hộ các cuốn truyện
đó để nhiều bạn khác trong lớp được xem và kể nữa, từ biện pháp này mà giờ hoạt động
góc trẻ rất hứng thú vào góc sách truyện trẻ kể cho nhau nghe cùng nhau đàm thoại bình
luận về các nhân vật trong truyện một cách thoải mái và tự nhiên. Qua đó trẻ có vốn từ
mạch lạc hơn hiểu dược nhiều từ khó ngôn ngữ của trẻ được phát triển tốt hơn.
Khuyến khích phụ huynh trao đổi về đặc điểm, tâm lý, nhu cầu tình cảm của trẻ
để tôi nắm rõ đặc điểm từng trẻ, từ đó giúp tôi lựa chọn và điều chỉnh kế hoạch linh
động, sáng tạo phù hợp với trẻ.
8. Các thông tin cần được bảo mật: Không có
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
a. Về cơ sở vật chất:
- Nhà trường đầu tư mua máy chiếu, thiết kế vườn cổ tích.
- Phòng học đảm bảo thoáng mát về mùa hè, ấm về mùa đông. Trong phòng có
máy tính, ti vi, đủ bàn ghế, giấy trắng, giấy in, sáp vẽ, màu… cho trẻ hoạt động vẽ…
- Giáo viên cần trang bị đa dạng các loại tranh minh họa truyện, rối rẹt, rối tay…
để phục vụ cho các tiết kể chuyện và ở góc thư viện của bé.
b. Về con người:
- Giáo viên phải có trình độ chuyên môn đạt chuẩn chở lên, có sức khỏe tốt, nhiệt
tình, tâm huyết với nghề và yêu quý trẻ.
- Trẻ 4 tuổi lớp mẫu giáo 4 tuổi trường mầm non Hoàng Lâu và trường mầm non
Vân Hội
- Thời gian áp dụng: Từ tháng 2 năm 2017 đến tháng 2 năm 2018
10. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến
Dựa trên những nghiên cứu và áp dụng các giải pháp trên sau một thời gian tôi
thấy trẻ có tiến bộ rõ rệt, kết quả mà tôi thu được cụ thể đó là:



Trẻ đã mạnh dạn, tự tin khi thể hiện, trình bày tác phẩm, thể hiện tình cảm cảm
xúc của mình trước sự vật hiện tượng bằng những câu đơn, câu ghép khác nhau. Diễn
đạt được suy nghĩ, nhu cầu, kinh nghiệm, nhận xét của bản thân theo từng tình huống và
đối tượng thích hợp bằng lời nói. Kể lại sự việc một cách mạch lạc theo tình tiết diễn
biến.
Trẻ nói, đọc mạch lạc, rõ ràng nói đủ câu, không bị nói lắp nói ngọng. Đặc biệt và
bất ngờ hơn nữa đó là trẻ nhập tâm vào trong các nhân vật trong truyện và đã biết dùng
lời nói, cử chỉ, hành động điệu bộ để thể hiện rõ ràng cảm xúc.
Trẻ nghe và phân biệt được các âm thanh, ngữ điệu, giọng nói khác nhau và độ to,
nhỏ, nhanh, chậm của giọng nói, giọng đọc. Biết trả lời những câu hỏi về nguyên nhân,
kết quả, so sánh và đã biết đặt câu hỏi, tại sao, như thế nào, để làm gì? cho người khác.
Dùng cử chỉ, điệu bộ, nét mặt để thể hiện cảm xúc của mình, phù hợp với yêu cầu và
hoàn cảnh giao tiếp.
Trẻ đã biết kể chuyện sáng tạo theo đồ vật, theo tranh theo chủ đề và kinh nghiệm
của bản thân. Thể hiện chuyện theo một trình tự từ trên xuống dưới, từ đầu đến cuối.
Biết cách ngắt giọng, ngừng nghỉ đúng chỗ, đúng lúc, biết đọc từ trái sang phải. Phụ
huynh đã nhận thức rõ tầm quan trọng của ngôn ngữ tiếng việt, qua việc dạy trẻ kể
chuyện theo tranh, đặc biệt hơn nữa là rất phấn khởi khi thấy con em mình biết thể hiện
một câu chuyện có trình tự, thể hiện được tình cảm, cảm xúc của mình vào trong
chuyện.
Qua một thời gian nghiên cứu và áp dụng sáng kiến trên giúp trẻ 4 tuổi A3 trường
mầm non Hoàng Lâu và lớp 4 tuổi A5 trường mầm non Vân Hội kể chuyện theo tranh
tôi có nhận thấy kết quả chuyển biến rõ dệt như sau:

Nội
dung

S


Yêu
thích tác
phẩm


trẻ

Đ
ạt

Trước
khi áp dụng
sáng kiến

3
8

C
hưa
đạt

1
7

Ngôn ngữ
kể mạch lạc
Đ
ạt


2
1

1
3

Chư
a đạt

25

Kỹ năng
giao tiếp
Đ
ạt

C
hưa
đạt

1
5

2
3


Sau khi
áp dụng sáng
kiến


3
8

3

0

8

3

0

8

3

0

8

Qua bảng so sánh cho thấy sau khi áp dụng đề tài vào thực tế đã mang lại kết quả
khả quan:
+ Yêu thích tác phẩm:
Đạt: 38 = 100%; tăng 21 cháu so với đầu năm khi chưa áp dụng đề tài.
Chưa đạt: 0; giảm so với đầu năm 21 cháu.
+ Ngôn ngữ kể mạch lạc:
Đạt: 38 = 100%; tăng 25 cháu so với đầu năm.
Chưa đạt: 0; giảm 25 cháu so với đầu năm.

+ Kỹ năng giao tiếp:
Đạt: 38 = 100%; tăng 23 cháu so với đầu năm.
Chưa đạt: 0; giảm 23 cháu so với đầu năm.
Lớp 4 tuổiA5 trường mầm non Vân Hội có kết quả như sau:

Nội
dung

S

Yêu
thích tác
phẩm


trẻ

Đ
ạt

Trước
khi áp dụng
sáng kiến
Sau khi
áp dụng sáng
kiến

3
8


8

C
hưa
đạt

1
5

3

Đ
ạt

2
3

3
8

Ngôn ngữ
kể mạch lạc

1
2

0

3
8


Chư
a đạt

26

0

Kỹ năng
giao tiếp
Đ
ạt

C
hưa
đạt

1
3

5
3

8

2

0

Qua bảng so sánh cho thấy sau khi áp dụng đề tài vào thực tế đã mang lại kết quả

khả quan:


+ Yêu thích tác phẩm:
Đạt: 38 = 100%; tăng 23 cháu so với đầu năm khi chưa áp dụng đề tài.
Chưa đạt: 0; giảm so với đầu năm 23 cháu.
+ Ngôn ngữ kể mạch lạc:
Đạt: 38 = 100%; tăng 26 cháu so với đầu năm.
Chưa đạt: 0; giảm 26 cháu so với đầu năm.
+ Kỹ năng giao tiếp:
Đạt: 38 = 100%; tăng 25 cháu so với đầu năm.
Chưa đạt: 0; giảm 25 cháu so với đầu năm.
Trẻ rất hứng thú với tranh truyện trong giờ kể chuyện, hoạt động góc. Thích bình
luận trao đổi khi nhìn thấy tranh ảnh ở bất cứ nơi đâu. Từ đó giúp trẻ tự tin, cởi mở
trong giao tiếp, không nói trống không, diễn tả được suy nghĩ của mình bằng ngôn ngữ
nói cũa trẻ một cách mạch lạc rõ ràng. Hứng thú trong mọi hoạt động học và chơi, trẻ
thích đi học, phụ huynh rất phấn khởi thấy con em mình tiến bộ và chăm học hơn. Đặc
biệt là ngôn ngữ của trẻ mạch lạc rõ dàng, hiểu được nhiều từ khó và hình thành ở trẻ
tính lương thiện, chia sẻ với mọi người xung quanh. Và từ đó các lĩnh vực khác như
“Tình cảm kỹ năng xã hội, nhận thức, thẩm mỹ…cũng có được kết quả tốt khá rất cao
so vối trước khi thực hiện dề tài sáng kiến kinh nghiệm. Phụ huynh rất phấn khởi về
những tiến bộ của con em mình. Rất yên tâm khi cho con đến trường mầm non học.
10.1. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả
Sau một năm áp dụng sáng kiến các nội dung đánh giá trẻ ở mức độ đạt và chưa
đạt ở lĩnh vực phát triển ngôn ngữ của trẻ nói chung và các lĩnh vực khác cũng được nâng
lên rõ rệt, không còn trẻ chưa đạt. Trẻ rất hứng thủ với tranh chuyện trong giờ kể chuyện,
hoạt động góc. Thích bình luận chao đổi khi nhìn thấy tranh ảnh ở bất cứ nơi đâu.Từ đó
giúp trẻ tự tin cởi mở trong giao tiếp, hứng thú trong mọi hoạt động học và chơi, trẻ thích
đi học.
Phụ huynh rất phấn khởi thấy con em mình tiến bộ và chăm học hơn. Đặc biệt là

ngôn ngữ của trẻ mạch lạc rõ ràng, hiểu được nhiều từ khó và hình thành ở trẻ tính
lương thiện, chia sẻ với mọi người xung quanh. Từ đó phụ huynh sẽ yên tâm tin tưởng
gửi con vào trường.


Bản thân giáo viên có thêm nhiều kỹ năng kinh nghiệm trong việc tổ chức các
hoạt động trong chương trình giáo dục mầm non đặc biệt là trong các giờ kể chuyện
theo tranh.
Sáng kiến này có thể áp dụng cho nhiều năm học tới, cho các bạn đồng nghiệp
trong và ngoài trường trong huyện.
10.2. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến của tổ chức
Qua thời gian áp dụng sáng kiến tại lớp mẫu giáo 4-5 tuổi, với kết quả đã đạt
được ở trên, sáng kiến đã được các đồng chí trong ban giám hiệu nhà trường, các đồng
chí tổ trưởng, tổ phó chuyên môn đánh giá cao và cho rằng có thể áp dụng vào các khối
lớp ở năm học tiếp theo
Trên đây là một số giải pháp mà bản thân tôi đã áp dụng vào việc giảng dạy tại
lớp mẫu giáo nhỡ trong năm học 2017-2018. Tôi tin rằng đề tài sáng kiến này ít nhiều
cũng đã mở cho bản thân tôi và các giáo viên trong trường một hành trang mới để bước
tiếp trong “Sự nghiệp trồng người” ngày càng có kết quả cao, để đáp ứng với những yêu
cầu đổi mới giáo dục mầm non hiện nay
11. Danh sách các tổ chức cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu:
T
T

Tên tổ
chức/cá nhân

1



Xuân

Phạm vi/ lĩnh vực áp
dụng sáng kiến

Nghiên cứu tại trường
mầm non Hoàng Lâu- xã
Thị
Trường mầm
Hoàng Lâu–Tam Dương-Vĩnh
non Hoàng Lâu-Tam
Phúc, năm học 2017-2018 (từ
Dương- Vĩnh Phúc
tháng 2/2017 đến tháng
2/2018)

Học sinh
lớp
4 tuổi A3

2

Địa chỉ

Nguyễn
Thị Thảo

Trường mầm
non Hoàng Lâu-Tam
Dương-Vĩnh Phúc


Trường mầm
non Vân Hội-Tam
Dương-Vĩnh Phúc

Tại lớp 4 tuổi A3

Nghiên cứu tại trường
mầm non Vân Hội-xã Vân
Hội–Tam Dương-Vĩnh Phúc,
năm học 2017-2018 (từ tháng
2/2017 đến tháng 2/2018)


3

Học sinh
lớp
4 tuổi A5

Trường mầm
non Vân Hội-Tam
Dương-Vĩnh Phúc

Hoàng Lâu, ngàytháng 02 năm
2018
HIỆU TRƯỞNG

Tại lớp 4 tuổi A5


Hoàng Lâu, ngày 12 tháng 02
năm 2018
TÁC GIẢ SÁNG KIẾN



×