Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng của doanh nghiệp theo quy định của bộ luật dân sự 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.18 MB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ TRÀ

TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI
DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG CỦA DOANH NGHIỆP
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ TRÀ

TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI
DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG CỦA DOANH NGHIỆP
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế


Mã số: 60380107
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Dƣơng Đăng Huệ

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
cơng trình nào khác. Các số liệu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc
rõ ràng, được trích dẫn đúng theo quy định. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính
chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả Luận văn

Nguyễn Thị Trà


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................ 2
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu ............................................... 4
4. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................... 4
5. Các câu hỏi nghiên cứu của Luận văn ........................................................ 4
6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 5
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn ............................................... 5
8. Bố cục của luận văn .................................................................................... 6
CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM
BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG ......................... 7
1. Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng – công cụ pháp lý quan trọng

bảo đảm thực hiện đúng hợp đồng của doanh nghiệp. .................................. 7
2. Phân biệt bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng với phạt vi phạm hợp
đồng .............................................................................................................. 12
3. Quan hệ giữa Bộ luật Dân sự 2015 với các luật khác trong việc xác định
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng ................ 15
4. Sự phát triển của chế định bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
trong Bộ luật Dân sự 2015 so với Bộ luật Dân sự 2005 ............................. 18
Kết luận Chƣơng 1 ........................................................................................ 24
CHƯƠNG 2 TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM
HỢP ĐỒNG CỦA DOANH NGHIỆP THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 .... 25
1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại .................................. 25
1.1. Hành vi vi phạm hợp đồng .................................................................... 26
1.1.1. Xác định hành vi vi phạm................................................................... 26
1.1.2. Những hình thái của hành vi vi phạm hợp đồng................................ 29


1.2. Có thiệt hại thực tế xảy ra..................................................................... 32
1.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra........ 33
1.4. Yếu tố lỗi ............................................................................................... 35
1.4.1. Khái niệm lỗi ...................................................................................... 35
1.4.2. Xác định lỗi của doanh nghiệp .......................................................... 39
2. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng ........................... 40
3. Thiệt hại được bồi thường ........................................................................ 43
3.1. Những loại thiệt hại được bồi thường................................................... 43
3.2. Giá trị bồi thường thiệt hại ................................................................... 47
3.3. Nghĩa vụ chứng minh tổn thất và nghĩa vụ hạn chế tổn thất ................ 51
4. Trường hợp miễn bồi thường thiệt hại ..................................................... 53
4.1. Thoả thuận về miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại.......................... 54
4.2. Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có sự kiện bất khả kháng ...... 56
4.2.1. Khái niệm sự kiện bất khả kháng ....................................................... 56

4.2.2. Những sự kiện bất khả kháng được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng.............................................................................. 61
4.3. Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do bên có quyền có lỗi ............ 64
4.4. Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do phải thực hiện quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền ................................................................ 65
Kết luận Chƣơng 2 ..................................................................................... 68
CHƢƠNG 3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG CỦA
DOANH NGHIỆP .......................................................................................... 70
1. Những yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về bồi thường
thiệt hại do vi phạm hợp đồng ..................................................................... 70
1.1. Phù hợp với đường lối xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam ....................................................................................................... 70


1.2. Đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam..................... 71
1.3 Đảm bảo sự thống nhất của các văn bản pháp luật .............................. 71
2. Hoàn thiện các quy định pháp luật cụ thể về bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng ............................................................................................. 72
2.1. Hoàn thiện quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ................................................................................................................. 72
2.2. Hoàn thiện quy định của pháp luật liên quan đến miễn trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ............................................................................................ 74
2.3. Hoàn thiện quy định của pháp luật liên quan đến nguyên tắc bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng ......................................................... 78
Kết luận Chƣơng 3 ........................................................................................ 80
KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................... 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chế định hợp đồng là một trong những bộ phận cấu thành quan trọng và
đồ sộ nhất của bất cứ Bộ luật Dân sự nào. Với tư cách là sự thỏa thuận giữa
các bên, hợp đồng là một trong những phương thức hữu hiệu để các chủ thể
tham gia quan vào quan hệ xã hội với nhau và thông qua việc thực hiện các
quan hệ xã hội đó, mà các chủ thể của đời sống dân sự thỏa mãn được các nhu
cầu vật chất và tinh thần của mình. Tuy nhiên, khơng phải mọi giao kết hợp
đồng đều có thể thực hiện một cách thuận lợi; việc một hoặc nhiều bên không
thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các điều khoản đã thỏa thuận là điều
thường xuyên diễn ra trong thực tế. Bởi hợp đồng chính là luật của các bên,
do đó, nếu hợp đồng không được thực hiện hoặc thực hiện sai lệch theo thỏa
thuận và gây ra sự thiệt hại thì người bị thiệt hại phải được đền bù xứng đáng.
Vì vậy, một trong những nhiệm vụ của bất cứ Bộ luật Dân sự nào cũng là xây
dựng cơ chế pháp lý để việc bồi thường thiệt hại đó được diễn ra một cách
thuận lợi. Trong cơ chế pháp lý đó, có các vấn đề như: thế nào là chế tài bồi
thường thiệt hại; căn cứ phát sinh chế tài bồi thường thiệt hại; những thiệt hại
nào được bồi thường; nguyên tắc bồi thường thiệt hại; những trường hợp miễn
trách nhiệm bồi thường thiệt hại…. Hiện nay, tại Việt Nam chế định về bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng được quy định tại các văn bản pháp luật
khác nhau như: Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Kinh doanh bảo
hiểm,… Quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các luật chuyên
ngành cần phải đảm bảo sự phù hợp với Bộ luật Dân sự với tư cách là luật gốc
của hệ thống luật tư.
Tuy nhiên, qua thực tiễn gần 10 năm triển khai thi hành, một số quy định
của Bộ luật Dân sự 2005 về hợp đồng nói chung và trách nhiệm bồi thường
thiệt hại nói riêng đã dần trở nên khơng cịn phù hợp với sự phát triển mạnh
1



mẽ của những quan hệ pháp luật đang diễn ra ngày càng phong phú và đa
dạng. Trong bối cảnh như vậy, việc xây dựng Bộ luật Dân sự (sửa đổi) là một
nhiệm vụ rất cần thiết. Trước yêu cầu đặt ra, sau một thời gian dài làm việc,
tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thơng qua Bộ luật Dân sự 2015 thay
thế Bộ luật Dân sự 2005 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2017. Theo
đó, Bộ luật Dân sự 2015 đã có nhiều điểm mới, tiến bộ hơn so với Bộ luật
Dân sự 2005, đặc biệt là về chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
Như chúng ta đã biết, với nền kinh tế thị trường phát triển như hiện nay,
chế tài bồi thường thiệt hại đã và đang là công cụ vô cùng cần thiết để bảo vệ
các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào các quan hệ hợp đồng. Chính vì
vậy, việc nghiên cứu một cách tồn diện và có hệ thống quy định của Bộ luật
Dân sự 2015 về chế tài này – đặc biệt trong bối cảnh Bộ luật Dân sự 2015 vừa
có hiệu lực, là một vấn đề mang tính cấp bách, có ý nghĩa quan trọng nhằm
góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp. Đặc biệt, thông
qua việc nghiên cứu, tìm hiểu quy định của Bộ luật Dân sự 2015 về chế tài
bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, chúng ta có thể phát hiện những
nội dung mâu thuẫn, chồng chéo, chưa phù hợp, từ đó đề xuất, kiến nghị hoàn
thiện quy định của pháp luật trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, việc tìm hiểu
chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng còn giúp các doanh nghiệp
Việt Nam vận dụng pháp luật một cách có hiệu quả hơn.
Vì những lý do nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng của doanh nghiệp theo quy định của Bộ
luật Dân sự 2015” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tính đến thời điểm hiện nay, về chế định trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng đã có một số cơng trình nghiên cứu ở các cấp độ
khác nhau. Có thể kể đến những cơng trình như:
2



- Quách Thúy Quỳnh (2005), Pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng trong kinh doanh – Thực trạng và phương hướng hoàn thiện,
Luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Hoàng Thị Hà Phương (2011), Chế tài do vi phạm hợp đồng thương
mại – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội.
- Nguyễn Thị Thu Huyền (2013), Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại, Luận văn thạc sỹ luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Lê Thị Yến (2013), Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng dân sự Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Các cơng trình nghiên cứu trên, hoặc là đã đề cập một cách khái quát các
hình thức trách nhiệm do vi phạm hợp đồng nói chung, hoặc là đã nghiên cứu
chuyên sâu về hình thức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng. Tuy
nhiên, tất cả các cơng trình này, lại nghiên cứu các vấn đề nêu trên trong bối
cảnh Bộ luật Dân sự 2005, do đó, tình thời sự đã có phần bị suy giảm.
Kể từ khi Bộ luật Dân sự 2015 ra đời và có hiệu lực, cũng đã có một số
cơng trình nghiên cứu về Bộ luật Dân sự 2015 nói chung, và về vấn đề trách
nhiệm bồi thường thiệt hại nói riêng, tuy nhiên, chỉ nghiên cứu một cách khát
quát. Đáng lưu ý nhất, trong số các cơng trình đó là các cuốn Bình luận khoa
học về Bộ luật Dân sự 2015 của PGS-TS Đỗ Văn Đại (2016, NXB. Hồng
Đức); của TS Nguyễn Minh Tuấn (2016, NXB. Tư pháp); của tập thể tác giả
khoa Dân sự, Đại học Luật Hà Nội mà chủ biên là PGS.TS Nguyễn Thị Huệ
và PGS.TS Nguyễn Văn Cừ (2017, NXB. Công an nhân dân). Như vậy, việc
nghiên cứu chuyên sâu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng cho đến nay vẫn chưa có cơng trình nào đề cập đến. Vì vậy, đề tài
„Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng của doanh nghiệp
3


theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015” sẽ có tính mới và khơng bị trùng lặp

so với những cơng trình nghiên cứu khác.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của Bộ luật Dân sự 2015 và
các quy định của pháp luật có liên quan về bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng. Theo đó, Luận văn hướng đến hai đối tượng nghiên cứu chính: đối
tượng thứ nhất, là các quy định của Bộ luật Dân sự 2015 về chế tài bồi thường
thiệt hại do vi phạm hợp đồng; đối tượng thứ hai mà tác giả hướng đến đó là
những tồn tại, bất cập trong các quy định của Bộ luật Dân sự 2015 về bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng và giải pháp, kiến nghị.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích của đề tài là trên cơ sở nghiên cứu một cách chuyên sâu về vấn
đề trách nhiệm bồi thường thiệ hại do vi phạm hợp đồng theo quy định tại Bộ
luật Dân sự 2015, đề ra phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm tạo ra cơ sở
pháp lý thuận lợi hơn cho các chủ thể hợp đồng dân sự, nhất là các doanh
nghiệp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là trong việc bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong các quan hệ hợp đồng.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của Luận văn
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng của doanh nghiệp theo quy định của Bộ luật Dân sự
2015”. Luận văn cần tập trung trả lời được những câu hỏi sau:
Thứ nhất, quy định của Bộ luật Dân sự 2015 và pháp luật liên quan về
chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng như thế nào?
Có điểm gì mới, tiến bộ hơn so với Bộ luật Dân sự 2005?
Thứ hai, những ưu điểm, hạn chế của của chế định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015
và pháp luật có liên quan?
4


Thứ ba, phương hướng, giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định

của pháp luật Việt Nam (đặc biệt là Bộ luật Dân sự 2015) về chế định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được trình bày dựa trên cơ sở vận dụng lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lê Nin về Nhà nước và pháp luật. Đồng thời, vận dụng những quan
điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế thị trường trong thời kỳ đổi mới.
Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau như:
phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh để đưa ra
những quan điểm, đánh giá khách quan và giải quyết các vấn đề khoa học.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại là vấn đề muôn thuở của tất cả
các Bộ luật Dân sự của thế giới cũng như của Việt Nam. Cũng chính vì tính
phổ biến và tầm quan trọng của chế định này, nên nó đã được nghiên cứu
nhiều ở nước ta. Tuy nhiên, Luận văn vẫn có nhiều điểm mới vì có những
đóng góp chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, phân tích những điểm tiến bộ của Bộ luật Dân sự 2015, để mọi
người thấy được tầm quan trọng của Bộ luật Dân sự nói chung và các quy
định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói riêng đối với các hoạt động của
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Thứ hai, đã làm rõ được vai trò của các đạo luật chuyên ngành trong việc
ghi nhận chế định bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng. Luận văn đã
chứng minh rằng, trong việc ghi nhận chế tài bồi thường thiệt hại thì vai trị
hàng đầu ln thuộc về Bộ luật Dân sự với tư cách là luật gốc của hệ thống
luật tư. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận vai trị của các luật chun
ngành khác, trong đó, có Luật Thương mại. Như vậy, có thể khẳng định bồi
thường thiệt hại là một chế định pháp lý liên ngành.
5


Thứ ba, Luận văn cũng đã bước đầu nghiên cứu, phân tích và làm sáng

tỏ được một số hạn chế của Bộ luật Dân sự liên quan đến chế định bồi thường
thiệt hại do vi phạm hợp đồng. Các phát hiện này, chắc chắn sẽ góp phần vào
việc nghiên cứu để hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này trong tương lai.
Cụ thể, Luận văn tập trung nghiên cứu sâu, đánh giá mặt tích cực và hạn
chế của chế độ trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng theo
quy định của Bộ luật Dân sự 2015 và các quy định của pháp luật liên quan như:
+ Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
+ Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
+ Thiệt hại được bồi thường
+ Trường hợp miễn, giảm bồi thường thiệt hại
Từ đó, Luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện quy định về
chế định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
Những phân tích, đánh giá và kiến nghị của Luận văn có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn trong việc ký kết và hạn chế rủi ro, tranh chấp khi thực hiện hợp
đồng của doanh nghiệp. Đồng thời, góp phần hồn thiện quy định của pháp
luật nói chung và Bộ luật Dân sự 2015 nói riêng về chế định bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm có 03 Chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng
Chương 2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng đối
với doanh nghiệp theo Bộ luật Dân sự 2015
Chương 3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bồi thường
thiệt hại do vi phạm hợp đồng của doanh nghiệp
6


CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM
BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG
1. Bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng – công cụ pháp lý quan
trọng bảo đảm thực hiện đúng hợp đồng của doanh nghiệp.
Như chúng ta đã biết, khi hợp đồng bị vi phạm dưới hình thức khơng
thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ không đúng cam kết, bên vi phạm
sẽ phải gánh chịu một số biện pháp trách nhiệm pháp lý đối với bên có quyền.
Pháp luật nước ta quy định hai hình thức chế tài vật chất cơ bản để bảo đảm
thực hiện hợp đồng của doanh nghiệp nói riêng và các chủ thể quan hệ hợp
đồng nói chung, đó là bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm hợp đồng. Đây là
hai chế tài được quy định trong khá nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác
nhau, nổi bật nhất là Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Thương mại 2005. Phạt vi
phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó, bên vi phạm
nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm1. Trong khi đó, trên cơ
sở lý luận chung về bồi thường thiệt hại được quy định tại Bộ luật Dân sự,
Luật Thương mại 2005 định nghĩa bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm
phải bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng của mình gây ra
cho bên bị vi phạm.2 Như vậy, có thể thấy, phạt vi phạm hợp đồng chỉ được
áp dụng khi có sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, còn bồi thường
thiệt hại là chế tài đương nhiên được áp dụng khi có hành vi vi phạm hợp
đồng và có thiệt hại xảy ra do hành vi vi phạm đó.
Về mối quan hệ giữa hai chế tài nêu trên, Khoản 3 Điều 418 Bộ luật Dân
sự 2015 quy định: “Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ
chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải
Khoản 1 Điều 418 Bộ luật Dân sự 2015
Khoản 1 Điều 302 Luật Thương mại 2005

1
2


7


chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp các bên có
thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu
phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ
phải chịu phạt vi phạm”. Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại là hình
thức trách nhiệm được áp dụng rộng rãi, phổ biến trong trường hợp không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng mà gây ra thiệt hại.
Thậm chí cả trong trường hợp bên có quyền bị vi phạm đã áp dụng các hình
thức trách nhiệm khác, thì họ vẫn khơng đương nhiên mất quyền địi bồi
thường thiệt hại. Mặc dù, đều là các chế tài nhằm bảo đảm thực hiện hợp
đồng của doanh nghiệp, nhưng nếu xét về đặc điểm chung của trách nhiệm do
vi phạm hợp đồng là tính đền bù, và được đánh giá trên hai tiêu chí là kịp thời
và tương xứng thì bồi thường thiệt hại có lợi thế hơn phạt vi phạm ở chỗ bên
bị vi phạm có thể được đền bù đầy đủ, tương xứng với những thiệt hại mà họ
chứng minh được rằng đó là hậu quả của hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên vi
phạm. Thực tế xét xử các vụ án kinh tế cũng đã chứng minh, chế tài phạt vi
phạm hầu như không được áp dụng mà chủ yếu là áp dụng chế tài bồi thường
thiệt hại. Vì thế, có thể coi bồi thường thiệt hại là một giải pháp hữu hiệu cho
mọi trường hợp vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.
Thực tiễn trên thế giới, không phải pháp luật nước nào cũng quy định cả
hai loại chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại. Theo pháp luật hợp đồng
Hoa kỳ, chế tài phạt hợp đồng về nguyên tắc không tồn tại trong thông luật.
Người vi phạm hợp đồng chỉ phải bồi thường thiệt hại mà không bị phạt hợp
đồng. Người phải thực hiện nghĩa vụ có quyền tự do định liệu có thực hiện
nghĩa vụ hay không, nếu xuất hiện những cơ hội hấp dẫn hơn với các bên thứ
ba, thì người này có thể khơng thực hiện nghĩa vụ và đền bù thiệt hại cho bên
bị vi phạm. Phạt hợp đồng vì lẽ đó hạn chế quyền tự do của bên phải thi hành
nghĩa vụ, một điều khoản như vậy trong hợp đồng có thể bị Tòa án Hoa kỳ

8


tuyên bố vô hiệu. Một bên không được phép dùng hình thức phạt hợp đồng
như là một biện pháp răn đe hạn chế quyền tự do định đoạt của bên kia3.
Khơng chỉ Luật Hợp đồng của Hoa kỳ khơng có chế tài phạt hợp đồng mà Bộ
luật Dân sự của Cộng hịa Liêng bang Đức cũng khơng có quy định về chế tài
này. Khi vi phạm nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng, bên vi phạm chỉ phải bồi
thường thiệt hại cho bên bị vi phạm.4 Đối với hợp đồng thương mại quốc tế,
khi xảy ra hành vi vi phạm hợp đồng, một trong những chế tài được áp dụng
phổ biến là bồi thường thiệt hại. Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa
quốc tế (Cơng ước CISG) cũng dành Mục II Chương 5 (Điều 74 đến Điều 77)
cho chế tài bồi thường thiệt hại, mà khơng có quy định nào về phạt hợp đồng.
Bộ nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế dành Mục 4
Chương 7 để thống nhất các vấn đề về bồi thường thiệt hại.
Để tìm hiểu các quy định của pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng với tư cách là công cụ pháp lý quan trọng trong việc bảo
đảm thực hiện hợp đồng, trước hết chúng ta cần tìm hiểu các quy định của Bộ
luật Dân sự 2015 và Luật Thương mại 2005 về chế định trên.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự, bồi thường thiệt hại được khai thác
theo hướng bồi thường do vi phạm nghĩa vụ, bởi lẽ, hợp đồng là một căn cứ
chủ yếu để phát sinh nghĩa vụ. Với tư cách là văn bản luật gốc điều chỉnh các
quan hệ tư, quy định của Bộ luật Dân sự là cơ sở để các văn bản luật khác quy
định về chế định bồi thường thiệt hại trong những lĩnh vực hoạt động đặc thù.
Trong quan hệ giữa các thương nhân (doanh nghiệp), pháp luật thương
mại ra đời là cần thiết để duy trì và bảo đảm sự bình đẳng cho các chủ thể
tham gia quan hệ hợp đồng. Khi một hợp đồng thương mại đã được giao kết
hợp pháp và phát sinh hiệu lực pháp luật, thì các bên phải thực hiện các nghĩa
vụ mà mình đã thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu một bên có hành vi vi phạm
3


ngày truy cập 20/4/2017
http ://germanitlaw.com/on-liability-and-liability-clauses-in-german-law/, ngày truy cập 20/4/2017

4

9


hợp đồng, thì phải gánh chịu những hậu quả pháp lí bất lợi nhất định mà khoa
học pháp lý gọi là chế tài. Luật Thương mại 2005 quy định các loại chế tài tại
Điều 292, bao gồm:“(i) Buộc thực hiện đúng hợp đồng; (ii) Phạt vi phạm;
(iii) Bồi thường thiệt hại; (iv) Tạm ngừng thực hiện hợp đồng; (v) Đình chỉ
hợp đồng; (vi) Hủy bỏ hợp đồng; (vii) Các biện pháp khác do các bên thỏa
thuận không trái với quy định của pháp luật”. Như vậy, chế tài có nhiều loại
nhưng cơ bản được chia thành hai loại là chế tài tài sản và chế tài nghiệp vụ.
Đối với mỗi chế tài đều có điều luật riêng để điều chỉnh. Cụ thể, đối với chế
tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, Luật Thương mại 2005 đã dành
06 điều quy định về chế tài này (Điều 302 đến Điều 305; Điều 307), bao gồm
các nội dung: khái niệm bồi thường thiệt hại, giá trị bồi thường thiệt hại, căn
cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ chứng minh tổn thất,
nghĩa vụ hạn chế tổn thất. Theo đó, Khoản 1, Điều 229 Luật Thương mại
2005 quy định:“Bồi thường thiệt hại là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu
cầu bên vi phạm trả tiền bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra”.
Như vậy có thể hiểu, bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng là một
chế tài dân sự được áp dụng nhằm bù đắp những thiệt hại thực tế mà bên vi
phạm đã gây ra cho bên bị vi phạm. Theo quy định của Bộ luật Dân sự, Luật
Thương mại và các văn bản có liên quan khác, chế tài bồi thường thiệt hại do
vi phạm hợp đồng có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, chế tài bồi thường thiệt hại là chế tài phát sinh khi có hành vi

vi phạm hợp đồng
Trong quan hệ hợp đồng, nếu một bên không thực hiện, thực hiện không
đúng hoặc không đầy đủ nghĩa vụ của hợp đồng thì phải gánh chịu những hậu
quả bất lợi mang tính chất tài sản, căn cứ áp dụng là theo sự cam kết giữa các
bên hoặc theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại Luật Thương mại
2005 có 06 hình thức chế tài được áp dụng khi có hành vi vi phạm hợp đồng
trong đó có chế tài bồi thường thiệt hại.
10


Thứ hai, chế tài bồi thường thiệt hại là chế tài mang tính chất tài sản
Khi thương nhân (doanh nghiệp) thực hiện hành vi vi phạm hợp đồng,
thì họ phải gánh chịu những tác động xấu (bất lợi) từ phía Nhà nước và đối
tác. Mục đích của các biện pháp tác động này là nhằm nâng cao ý thức chấp
hành hợp đồng, bảo đảm trật tự kinh tế cũng như quyền và lợi ích của các chủ
thể trong hoạt động sản xuất – kinh doanh, nên việc áp dụng các chế tài mang
tính tài sản trong đó có chế tài bồi thường thiệt hại là tất yếu, trừ khi chính
bản thân người bị vi phạm trong cùng quan hệ hợp đồng không muốn áp dụng
chế tài tài sản này đối với bên vi phạm. Tóm lại, doanh nghiệp sinh ra là để
thực hiện hoạt động sản xuất – kinh doanh, là để kiếm tiền một cách hợp
pháp. Vì vậy, các quan hệ hợp đồng mà doanh nghiệp xác lập với nhau chủ
yếu là quan hệ hàng hóa – tiền tệ và việc thực hiện thành công hay không
thành công các quan hệ này có ảnh hưởng rất lớn đến mục đích hoạt động của
doanh nghiệp. Chính vì vậy, nhà lập pháp (Quốc hội) đã phải căn cứ vào nhu
cầu của các doanh nghiệp để xác định biện pháp chế tài nào là cần thiết phải
áp dụng khi một chủ thể nào đó “bội ước” (khơng thi hành hoặc thi hành
khơng đúng hợp đồng). Và nhà lập pháp đã đúng khi chọn chế tài bồi thường
thiệt hại là một chế tài tài sản. Đánh vào túi tiền của các bên vi phạm hợp
đồng và gây ra thiệt hại thì chỉ có biện pháp chế tài tài sản là hữu hiệu nhất.
Thứ ba, chủ thể lựa chọn và quyết định hình thức chế tài buộc bồi

thường thiệt hại chính là bên bị vi phạm trong quan hệ hợp đồng
Những gì các bên đã cam kết trong hợp đồng là thì đều phải được thực
hiện, nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, thì chủ thể đó bị coi là
có hành vi vi phạm hợp đồng. Lúc này, bên bị vi phạm có thể áp dụng một
hoặc một số chế tài theo cam kết trong hợp đồng, hay theo quy định của pháp
luật. Khi bên bị vi phạm áp dụng các chế tài, trong đó có chế tài buộc bồi
thường thiệt hại, nhưng bên vi phạm không thừa nhận hành vi vi phạm hay
11


không tuân thủ các biện pháp chế tài đưa ra thì bên bị vi phạm có thể làm đơn
khởi kiện yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Trong khn khổ quy định pháp luật, bên bị vi phạm được toàn
quyền quyết định việc yêu cầu bên vi phạm thực hiện một phần hay tồn bộ
trách nhiệm tài sản đối với mình. Ví dụ, trong hợp đồng thỏa thuận sẽ áp dụng
đồng thời hai chế tài là phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, nhưng bên bị vi
phạm có thể chỉ áp dụng biện pháp bồi thường thiệt hại mà không áp dụng
phạt vi phạm. Tòa án và Trọng tài được bên bị vi phạm yêu cầu giải quyết
tranh chấp, phải tơn trong quyền tự định đoạt đó của ngun đơn.
2. Phân biệt bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng với phạt vi
phạm hợp đồng
Phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại là hai chế tài thường xuyên được áp
dụng, khi một trong các bên của quan hệ hợp đồng vi phạm các nghĩa vụ đã
thỏa thuận trong hợp đồng. Tuy nhiên, căn cứ áp dụng, nội dung và phương
thức xử lý của hai hình thức này có những điểm giống và khác nhau.
Phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại có nhiều điểm giống nhau, nên
người ta thường gọi phạt vi phạm là bồi thường thiệt hại được tính trước.
Theo đó, phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại, đều được coi là biện
pháp chế tài mà Bộ luật Dân sự cũng như Luật Thương mại quy định để áp
dụng cho các trường hợp vi phạm hợp đồng. Ngoài ra, một trong những cơ sở

để áp dụng chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại là phải có hành vi vi
phạm hợp đồng và có lỗi của bên vi phạm. Mặc dù có nhiều điểm giống nhau,
song vì bồi thường thiệt hại là dựa trên việc chứng minh tổn thất thực tế xảy
ra, chứ khơng phải là dự đốn của các bên nên chế tài phạt vi phạm hợp đồng
và bồi thường thiệt hại cũng có điểm khác nhau, cụ thể:
Thứ nhất, về mục đích áp dụng.
Phạt vi phạm hợp đồng có mục đích chủ yếu là trừng phạt, tác động trực
tiếp vào ý thức của các chủ thể hợp đồng, nhằm giáo dục ý thức tôn trọng hợp
12


đồng, phịng ngừa vi phạm hợp đồng. Cịn mục đích của chế tài bồi thường
thiệt hại là buộc bên vi phạm phải bồi thường những tổn thất tài sản do hành
vi vi phạm hợp đồng của mình gây ra cho bên bị vi phạm. Đối với bên bị vi
phạm hợp đồng, chế tài bồi thường thiệt hại là một biện pháp hữu hiệu nhất
nhằm khơi phục lợi ích về tài sản, bù đắp những tổn thất mà họ phải gánh
chịu do hành vi vi phạm của bên kia. Đó là toàn bộ những tổn thất thực tế,
trực tiếp cũng như những khoản lợi đáng lẽ được hưởng nếu khơng có hành vi
vi phạm hợp đồng. Nói một cách ngắn gọn, phạt vi phạm và bồi thường thiệt
hại có sự khác nhau về chức năng: nếu chức năng chủ yếu của chế tài phạt vi
phạm là trừng phạt, là cảnh cáo những ai coi thường nghĩa vụ thi hành hợp
đồng thì chức năng chủ yếu của bồi thường thiệt hại là khôi phục, bù đắp
những mất mát mà một bên phải gánh chịu do hành vi vi phạm hợp đồng.
Thứ hai, về căn cứ (điều kiện) áp dụng biện pháp chế tài.
Theo quy định tại Điều 418 Bộ luật Dân sự 2015, phạt vi phạm là sự
thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó, bên vi phạm nghĩa vụ phải
nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm. Như vậy, phạt vi phạm được áp dụng
khi có vi phạm hợp đồng, có lỗi của bên vi phạm và đặc biệt chế tài này phải
được các bên thỏa thuận trong hợp đồng.
Đối với chế tài bồi thường thiệt hại, Điều 13 Bộ luật Dân sự 2015 quy

định: “Cá nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm được bồi thường
tồn bộ thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật có quy
định khác”. Có thể nói, với tư cách là luật gốc trong hệ thống luật tư, Bộ luật
Dân sự 2015 đã có quy định chung về bồi thường thiệt hại, được áp dụng khi
cá nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm. Trên cơ sở đó, tại Điều
303 Luật Thương mại 2005 quy định chế tài bồi thường do vi phạm hợp đồng
được áp dụng khi có đủ các yếu tố sau đây: (i) Có hành vi vi phạm hợp đồng;
(ii) Có thiệt hại thực tế; (iii) Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực
13


tiếp gây ra thiệt hại. Như vậy, khác với chế tài phạt vi phạm, chế tài bồi
thường thiệt hại chỉ có thể áp dụng khi có thiệt hại thực tế xảy ra đối với bên
bị vi phạm. Nói cách khác, khơng có thiệt hại thì khơng có chế tài bồi thường
thiệt hại. Trong khi đó, phạt vi phạm hợp đồng có thể áp dụng ngay cả khi
khơng có thiệt hại xảy ra. Ngồi ra, pháp luật cũng khơng quy định muốn
được bồi thường thiệt hại thì các bên phải có thỏa thuận trong hợp đồng.
Thứ ba, về mức giá trị vật chất mà bên vi phạm phải thực hiện để bồi
thường hoặc phải nộp phạt do vi phạm hợp đồng.
Đối với phạt vi phạm, Bộ luật Dân sự 2015 quy định các bên được quyền
tự do thỏa thuận mức phạt trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.
Một trong số những luật co liên quan là Luật Thương mại, theo Luật này thì
mức phạt được thỏa thuận trong hợp đồng và không được quá 8% giá trị phần
nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ
giám định cấp chứng thư giám định có kết quả sai do lỗi vơ ý của mình thì
phải trả tiền phạt cho khách hàng với mức phạt do các bên thỏa thuận, nhưng
không vượt quá mười lần thù lao dịch vụ giám định.5 Như vậy, theo quy định,
các bên có thể tự do thỏa thuận phạt vi phạm trong hợp đồng, trừ những
trường hợp do luật định.
Đối với bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thì giá trị bồi thường

thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu
do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được
hưởng nếu khơng có hành vi vi phạm. Nếu bên yêu cầu bồi thường thiệt hại
không áp dụng các biện pháp hạn chế tổn thất, bên vi phạm hợp đồng có
quyền yêu cầu giảm bớt giá trị bồi thường thiệt hại bằng mức tổn thất đáng lẽ
có thể hạn chế được.6
Điều 301 Luật Thương mại 2005
Khoản 2 Điều 302; Điều 305 Luật Thương mại 2005

5
6

14


Như vậy, nếu như trong trường hợp áp dụng chế tài phạt vi phạm hợp
đồng, các bên có quyền tự do thỏa thuận về mức giá trị vật chất mà bên vi
phạm hợp đồng phải trả cho bên bị vi phạm thì mức giá trị vật chất trong chế
tài bồi thường thiệt hại lại không thể như vậy mà được xác định trên cơ sở giá
trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do hành vi vi phạm
gây ra.
Thứ tư, về tính ưa dùng của chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại.
Như phần trên đã trình bày, có hai hình thức chế tài tài sản được Bộ luật
Dân sự 2015 ghi nhận, đó là phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại. Trong hai
biện pháp chế tài tài sản này thì biện pháp phạt vi phạm luôn được các bên
quan tâm vì tính đơn giản, thuận tiện trong việc ghi nhận và thực hiện trong
thực tế. Trong khi muốn áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại thì bên bị vi
phạm phải làm rất nhiều việc, đặc biệt là phải chứng minh có thiệt hại thực tế
xảy ra, có thiệt hại gián tiếp (thu nhập khơng thu được hay cịn giọi là thu
nhập bị bỏ lỡ…) đây là việc không hề dễ chút nào trong thực tế. Trong khi đó,

phạt vi phạm được áp dụng mà không cần phải làm các việc đó, khơng cần
chứng minh có thiệt hại, khơng cần chứng minh quan hệ nhân quả giữa hành
vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra mà chỉ cần chứng minh một điều là
bên kia đã có hành vi vi phạm hợp đồng. Đặc điểm này đã làm cho phạt vi
phạm hợp đồng trở thành phổ biến áp dụng trong hoạt động thương mại.
3. Quan hệ giữa Bộ luật Dân sự 2015 với các luật khác trong việc xác
định trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng
Trong hệ thống văn bản pháp luật quốc gia, Bộ luật Dân sự được coi là
đạo luật xương sống áp dụng cho mọi giao dịch có tính chất bình đẳng, tự
nguyện giữa các chủ thể tham gia. Theo đó, đối với chế định hợp đồng của Bộ
luật Dân sự, các nhà làm luật quy định theo hướng Bộ luật Dân sự là nền tảng
cho các loại hợp đồng bất kể chúng được ký kết ở đâu, lĩnh vực hoạt động cụ
15


thể nào của con người. Những điểm đặc thù của mỗi hợp đồng sẽ được quy
định cụ thể trong các văn bản pháp luật chuyên ngành, trên cơ sở nguyên tắc
ưu tiên áp dụng pháp luật chuyên ngành, nếu pháp luật chun ngành khơng
quy định thì áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự, trong đó có chế định bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
Thật vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được ghi nhận tại các Điều:
13, 360, 361, 419 Bộ luật Dân sự 2015, quy định những vấn đề chung nhất về
bồi thường thiệt hại cũng như thiệt hại nào được bồi thường, giải thích thế nào
là thiệt hại vật chất? thế nào là thiệt hại về tinh thần?… Luật Thương mại
2005 với tính chất là luật chuyên ngành điều chỉnh các hoạt động thương mại tại
các Điều 294, Điều 295, Điều 302 đến Điều 307 sẽ quy định cụ thể các vấn đề
như: chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại, nguyên tắc áp dụng chế tài bồi
thường thiệt hại, căn cứ áp dụng, nghĩa vụ chứng minh thiệt hại, nghĩa vụ hạn
chế tổn thất, các trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại, mối quan hệ
giữa chế tài bồi thường thiệt hại với các hình thức chế tài thương mại khác.

Ngồi những quy định chung mang tính chất nguyên tắc về căn cứ phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, nguyên tắc bồi thường thiệt hại, các loại
thiệt hại được bồi thường… được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự 2015, Luật
Thương mại 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành, các quy định của pháp
luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng của doanh nghiệp còn có thể
tìm thấy trong các luật chun ngành quy định về hoạt động thương mại trong
từng lĩnh vực cụ thể như: Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006
(sửa đổi, bổ sung năm 2014) trong đó có quy định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do vi phạm hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường hàng khơng
(Chương VII Luật Hàng không dân dụng); Bộ luật hàng hải Việt Nam năm
2015 quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng vận
chuyển hàng hóa bằng đường biển (Chương VII Hợp đồng vận chuyển hàng
16


hóa bằng đường biển); Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung
năm 2010) quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
bảo hiểm,... Như vậy, trong từng lĩnh vực cụ thể như kinh doanh bảo hiểm,
hàng hải, hàng không dân dụng… chế định bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng đều có các văn bản pháp luật tương ứng - thường được gọi là luật
chuyên ngành, điều chỉnh.
Đối với quan hệ hợp đồng, giai đoạn từ 01/01/2006 đến nay, luật chung
là Bộ luật Dân sự, còn luật chuyên ngành là Luật Thương mại, Luật Kinh
doanh bảo hiểm, Luật Xây dựng…Việc xác định luật chung và luật chuyên
ngành còn phụ thuộc vào từng quan hệ hợp đồng. Ví dụ, trong một số trường
hợp, Luật Thương mại là luật chuyên ngành trong mối quan hệ với Bộ luật
Dân sự, trong một số trường hợp khác, Luật Thương mại lại là luật chung
trong mối quan hệ với các luật chuyên ngành khác.
Trong trường hợp luật chuyên ngành có những quy định khác với luật
chung thì ưu tiên áp dụng luật chun ngành. Nếu có vấn đề khơng được quy

định tại luật chun ngành thì áp dụng quy định của luật chung. Đây chính là
nguyên tắc áp dụng luật chung – luật chuyên ngành và được xem là một
nguyên tắc áp dụng pháp luật cơ bản. Các nước theo truyền thống dân luật,
chịu ảnh hưởng sâu sắc của nguyên tắc này. Ví dụ, Bộ luật Dân sự Pháp tại
Điều 1107, Chương 3 quy định: “Mọi hợp đồng, dù có hay khơng có tên gọi
riêng, đều phải tuân theo các quy định chung tại thiên này. Một số hợp đồng
được quy định riêng tại các thiên dành cho từng hợp đồng này; các giao dịch
thương mại được quy định riêng trong các đạo luật về thương mại.” Hay tại
Mục 1 Chương 1 Bộ Luật Thương mại Nhật Bản quy định: “Bộ luật Dân sự
là bộ luật điều chỉnh những quan hệ trong đời sống xã hội nói chung, cịn Bộ
luật Thương mại thì điều chỉnh các quan hệ trong đời sống của một doanh
nghiệp. Tuy nhiên, một số vấn đề thuộc về doanh nghiệp vẫn được quy định
17


từng phần trong Bộ luật Dân sự. Như vậy, Bộ luật Dân sự là một đạo luật
chung, còn Bộ luật Thương mại là một đạo luật chuyên ngành.” Ở Việt Nam,
nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành (mà Bộ luật Dân sự 2015 gọi là
luật khác có liên quan) chỉ mới được ghi nhận một cách chính thức tại Điều 4
Bộ luật Dân sự, còn từ trước đến ngày 01/01/2017 nguyên tắc này chỉ tồn tại
về mặt lý thuyết mà thôi.
4. Sự phát triển của chế định bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp
đồng trong Bộ luật Dân sự 2015 so với Bộ luật Dân sự 2005
Qua gần 10 năm thi hành và áp dụng, Bộ luật Dân sự 2005 đã bộc lộ
khơng ít những điểm hạn chế và bất cập, nhiều quy định pháp luật đã dần trở
nên lạc hậu hơn so với sự phát triển mạnh mẽ của những quan hệ dân sự đang
diễn ra ngày càng phong phú và đa dạng trong thực tiễn. Việc sửa đổi, bổ
sung những quy định pháp lý không còn phù hợp là một trong những yêu cầu
cấp thiết để Bộ luật Dân sự ln đóng vai trị là luật gốc – luật mẹ trong hệ
thống luật tư. Sau một thời gian dài xây dựng, Bộ luật Dân sự 2015 đã được

Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thơng qua và có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 01/01/2017. Với việc sửa đổi, bổ sung gần như toàn bộ các quy định (chỉ
giữ nguyên 81 điều)7, Bộ luật Dân sự 2015 đã có nhiều điểm mới phát triển,
tiến bộ hơn so với Bộ luật Dân sự 2005, đặc biệt là chế định bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng.
Theo quy định tại Điều 385 Bộ luật Dân sự 2015 “Hợp đồng là sự thỏa
thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự”. Hợp đồng hợp pháp là một trong những căn cứ phát sinh nghĩa vụ
giữa các bên chủ thể của hợp đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, khi
bên có nghĩa vụ khơng thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng nghĩa vụ của
mình, thì bên đó sẽ phải gánh chịu một số hậu quả pháp lý bất lợi mà dưới
7

Đinh Trung Tụng (chủ biên, 2016), Bối cảnh xây dựng và một số nội dung mới chủ yếu của Bộ
luật Dân sự 2015 (So sánh với Bộ luật Dân sự 2005), NXB Tư pháp, Hà Nội, tr 17.

18


góc độ khoa học pháp lý được gọi là trách nhiệm dân sự. Trong đó, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại là một trong những trách nhiệm dân sự được ghi
nhận tại Điều 11 Bộ luật Dân sự 2015.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ là một trong
những nội dung được bổ sung một cách cơ bản so với quy định tại Bộ luật
Dân sự 2005. Thay vì chỉ quy định chung trong một điều luật (Điều 307 Bộ
luật Dân sự 2005), Bộ luật Dân sự 2015 dành tới 04 (bốn) điều luật để quy
định về nội dung này (từ Điều 360 đến Điều 363 Bộ luật Dân sự 2015). Từ
quy định tại những điều này có thể thấy một số nội dung mới phát triển, nổi
bật như sau:
Thứ nhất, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường được ghi nhận đầy đủ

và rõ ràng hơn.
Điều 360 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Trường hợp có thiệt hại do vi
phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường tồn bộ thiệt hại,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác” – đây là quy
định mới được bổ sung tại Bộ luật Dân sự 2015. Quy định này chỉ rõ trách
nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ phát sinh khi có các yếu tố sau: (i) có thiệt hại;
(ii) có hành vi vi phạm nghĩa vụ; (iii) có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại
và hành vi vi phạm nghĩa vụ; (iv) có lỗi. Tuy “lỗi” khơng phải là một điều
kiện được nhắc đến trực tiếp trong điều luật nhưng có thể hiểu, khi các bên
trong hợp đồng có hành vi vi phạm nghĩa vụ thì hành vi đó được coi là có lỗi.
Bên cạnh đó, bên có hành vi vi phạm nghĩa vụ gây thiệt hại nhưng sẽ không
phải bồi thường thiệt hại khi rơi vào trường hợp “luật có quy định khác” hoặc
“các bên có thỏa thuận khác”.
Như vậy, thay vì quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại một cách
chung chung như quy định tại Bộ luật Dân sự 2005, việc quy định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ thành một điều độc lập như
19


×