Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Quy chế pháp lý về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp và thực tiễn áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.19 MB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN THỊ THU THẢO

QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO
PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh Tế
Mã số: 60380107

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS - TS Vũ Thị Lan Anh

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài: “Quy chế pháp lý về người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp và thực tiễn áp dụng” là công trình nghiên cứu của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Vũ Thị Lan Anh. Các kết quả nêu trong
luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Ngƣời cam đoan

Trần Thị Thu Thảo



LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn này, tuy có những khó khăn trong quá
trình nghiên cứu bởi vì chúng tôi là những học viên đầu tiên theo học hệ cao học
theo định hướng ứng dụng của Trường Đại học Luật Hà Nội, nhưng tôi đã hoàn
thành luận văn với sự hỗ trợ, hướng dẫn, giúp đỡ của nhiều thầy cô giáo, gia đình và
bạn bè. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo thuộc Khoa Pháp luật kinh tế,
Bộ môn Luật Thương mại của Trường Đại học Luật Hà Nội. Đặc biệt, tôi xin trân
trọng cảm ơn sự chỉ dạy và hướng dẫn nhiệt tình của giảng viên hướng dẫn là PGS.
TS. Vũ Thị Lan Anh đã đồng hành cùng tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài
luận văn thạc sĩ này.
Học viên

Trần Thị Thu Thảo


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
Chƣơng 1 VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
CỦA DOANH NGHIỆP VÀ QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN
THEO PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP .......................................................8
1.1. Khái quát về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.......................8
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của đại diện ..................................................................8
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.....10
1.1.3. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về người đại diện theo pháp luật 13
1.1.4. Vai trò của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ....................15
1.2. Khái quát về quy chế pháp lý về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ..16
1.2.1. Khái niệm quy chế pháp lý về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp...16
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quy chế pháp lý về người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp................................................................................................20

1.2.3. Nguồn pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ......22
1.2.4. Nội dung cơ bản của quy chế pháp lý về người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp……………………………………………………………………….25
1.2.5. Quy chế pháp lý về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo
pháp luật một số quốc gia trên thế giới .....................................................................25
Chƣơng 2 NỘI DUNG QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO
PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ................29
2.1. Nội dung quy chế pháp lý về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ....29
2.1.1. Quy định của pháp luật về xác lập quyền đại diện của ngườvi đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp ...............................................................................29
2.1.2. Quy định của pháp luật về số lượng người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp .............................................................................................................33
2.1.3. Quy định của pháp luật về thời hạn và phạm vi đại diện của người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp ...............................................................................34


2.1.4. Quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp .......................................................................................36
2.1.5. Quy định của pháp luật về trường hợp vượt quá phạm vi đại diện và x lý
vi phạm về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ....................................37
2.2. Thực tiễn áp dụng quy chế pháp lý về người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp .............................................................................................................39
2.2.1. Một số kết quả đạt được từ thực tiễn áp dụng quy chế pháp lý về người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp .......................................................................39
2.2.2. Một số hạn chế trong thực tiễn thực hiện của người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp và nguyên nhân ............................................................................53
Chƣơng 3 GIẢI PHÁP N NG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN QUY CHẾ PHÁP
LÝ VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP .........59
3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế pháp lý về người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp .......................................................................59

3.1.1. Việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp phải thể chế hóa chủ chương, chính sách của Đảng và pháp
luật của nhà nước ......................................................................................................59
3.1.2. Việc nâng cao hiệu quả thực hiện chế người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp cần áp dụng hành lang pháp lý rõ ràng quy định địa vị pháp lý của
người đại diện theo pháp luật kinh tham gia điều hành, quản lý doanh nghiệp .......60
3.1.3. Việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp phải hướng tới bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá
nhân, cơ quan, tổ chức có quan hệ với doanh nghiệp ...............................................60
3.1.4. Việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp phải phù hợp với thực tiễn và có sự thống nhất giữa các văn
bản pháp luật khác nhau ............................................................................................61
3.2. Một số giải pháp đối với doanh nghiệp nh m nâng cao hiệu quả thực hiện
quy chế pháp lý về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.......................62
3.2.1. Nâng cao hiệu quả xây dựng Điều lệ doanh nghiệp ..................................62


3.2.2. Về phạm vi thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật ......................64
3.2.3. Nâng cao trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình ....................................................66
3.2.4. Cần đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ của người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp................................................................................................66
3.3. Một số giải pháp đối với cơ quan quản lý nhà nước nh m nâng cao hiệu quả
thi hành quy chế pháp lý về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp .........67
3.3.1. Giải pháp đối với Chính phủ .....................................................................67
3.3.2. Giải pháp đối với ngành Tòa Án ...............................................................69
3.3.3. Đối với các cơ quan nhà nước cấp Sở, địa phương ...................................69
3.4. Một số giải pháp đối với các tổ chức xã hội nghề nghiệp nh m nâng cao hiệu
quả thi hành quy chế pháp lý về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp .......70
3.4.1. Giải pháp đối với Phòng Thương mại công nghiệp Việt Nam ..................70

3.4.2. Giải pháp đối với Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ ...............................71
3.4.3. Giải pháp đối với một số Hiệp hội nghề nghiệp ........................................73
KẾT LUẬN ..............................................................................................................75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................77


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

STT

Viết đầy đủ

1.

BLDS

Bộ luật dân sự

2.

LDN

Luật doanh nghiệp

3.

TNHH


Trách nhiệm hữu hạn

4.

HĐQT

Hội đồng quản trị

5.

TP

Thành phố


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển hay không trước hết phụ thuộc
vào người đứng đầu doanh nghiệp có đưa ra những quyết sách sáng suốt để doanh
nghiệp phát triển hay không. Chính vì vậy, trong quá trình nghiên cứu về pháp luật
doanh nghiệp, vấn đề chúng ta phải quan tâm đầu tiên đó là chế định người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp. Vấn đề này có tính cấp thiết bởi các lý do sau đây:
Thứ nhất, theo tinh thần Nghị quyết 35/NQ-CP của Chính phủ về hỗ trợ và phát
triển doanh nghiệp đến năm 2020 ngày 16/5/2016 là văn bản đầu tiên đưa ra thông
điệp để phát triển doanh nghiệp, đó là: “Doanh nghiệp là động lực của sự phát triển,
chính phủ vai trò kiến tạo, khởi nghiệp là sự nghiệp của nhân dân”. Trong Nghị quyết
35/NQ-CP có nhắc đến mục tiêu: “Đến năm 2020, xây dựng doanh nghiệp Việt Nam
có năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững, cả nước có ít nhất một triệu doanh

nghiệp hoạt động, trong đó có các doanh nghiệp có quy mô lớn, nguồn lực mạnh”. Để
đạt được mục tiêu đó thì cần phải tuân thủ nhiều nguyên tắc, trong đó có nguyên tắc về
quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp; nguyên tắc bảo đảm điều kiện kinh doanh
phải rõ ràng minh bạch, dễ thực hiện, loại bỏ các thủ tục hành chính phức tạp bất hợp
lý. Trong bối cảnh đó, Luật doanh nghiệp số 68/2014/QH13 (sau đây gọi chung là
Luật doanh nghiệp năm 2014) thay thế Luật doanh nghiệp năm 2005; Bộ luật Dân sự
số 91/2015/QH13 (sau đây gọi chung Bộ luật Dân sự năm 2015) ra đời thay thế Bộ
luật Dân sự số 33/2005/QH11 (sau đây gọi chung là Bộ luật Dân sự năm 2005) đã trao
quyền tự chủ cho doanh nghiệp đặc biệt đề cao chế định người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp, cho phép doanh nghiệp tự do lựa chọn số lượng người đại diện của mình
nâng cao vai trò của người đại diện theo pháp luật đối với hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ hai, Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận sự thay đổi của nhiều nguyên tắc,
trong đó có nhiều nguyên tắc mà Bộ luật Dân sự năm 2005 chưa kịp dự liệu như:
Nguyên tắc pháp luật bảo đảm nguyên tắc quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế bởi luật
trong những trường hợp đặc biệt như Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận; Pháp luật chưa
tạo được cơ chế pháp lý hữu hiệu để bảo vệ quyền, lợi ích của bên thứ ba ngay tình,
của bên thiện chí, bên yếu thế trong quan hệ dân sự. Pháp luật dân sự còn hạn chế


2

nhiều quy định về chủ thể, giao dịch, đại diện, nghĩa vụ và hợp đồng, thừa kế còn bất
hợp lý, thiếu tính khả thi. Riêng đối với các quy định về đại diện thì Bộ luật Dân sự
năm 2005 còn nhiều thiếu sót như chưa có quy định về việc pháp nhân có thể là đại
diện theo ủy quyền là không phù hợp với nhu cầu chính đáng của các doanh nghiệp về
đại diện, chưa bảo đảm tính hiệu quả trong quản lý, nhất là trong điều kiện các doanh
nghiệp Việt Nam hiện nay đang có nhu cầu và khả năng mở rộng quy mô, địa bàn hoạt
động của mình và có sự cạnh tranh của nhiều công ty xuyên quốc gia. Chính vì vậy,
cần nghiên cứu về chế định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp để hiểu
được sự thay đổi của pháp luật và những ưu điểm nhược điểm trong thực tiễn áp dụng.

Thứ ba, hiện nay có nhiều trường hợp người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp thiếu trách nhiệm để xảy ra những hậu quả nghiêm trọng, gây thất thoát cho
nguồn vốn của doanh nghiệp hoặc ảnh hưởng đến lợi ích của doanh nghiệp. Người đại
diện theo pháp luật sẽ nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp xác lập, thực hiện các
giao dịch, thể hiện mối quan hệ với các chủ thể trong doanh nghiệp (như với các thành
viên, cổ đông góp vốn) hoặc với các chủ thể khác bên ngoài doanh nghiệp (đối tác,
khách hàng, cơ quan quản lý nhà nước...). Do chế định về người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp chưa thực sự được quan tâm một cách thích đáng, doanh nghiệp
dễ rơi vào trường hợp thất thoát về tài sản, hoặc doanh nghiệp và những người quản lý
doanh nghiệp có thể còn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại thậm chí chịu trách
nhiệm hình sự.
Thứ tư, về mặt lý luận, từ khi có Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật doanh
nghiệp năm 2014 với rất nhiều mối liên quan đến người đại diện theo pháp luật, chưa
có những nghiên cứu đầy đủ và toàn diện về chế định này, đồng thời, chưa có những
nghiên cứu cụ thể về thực tiễn thực hiện chế định này. Chính vì vậy, tác giả mong
muốn nghiên cứu để đưa ra một cái nhìn toàn diện về chế định người đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp.
Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài “Quy chế pháp lý về
ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp và thực tiễn áp dụng” để làm luận
văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình.


3

2. Tình hình nghiên cứu
Trên thế giới, những học thuyết nghiên cứu về chế định “đại diện” xuất hiện từ
rất sớm. Điển hình là các tác phẩm: Tài sản của Quốc gia (The Wealth of Nations) của
Adam Smith1: Nhà kinh tế học nổi tiếng Adam Smith đã cho r ng với đặc tính của
công việc quản lý, các cổ đông không nên kỳ vọng và tin tưởng r ng người quản lý
công ty sẽ hành động như họ muốn, bởi lẽ người quản lý công ty luôn có xu hướng

thiếu siêng năng, mẫn cán và lợi dụng vị trí của mình để tìm kiếm lợi ích cá nhân cho
chính họ hơn là cho các cổ đông và công ty. Trong nghiên cứu của mình, Adam Smith
đã dự đoán xu hướng phát triển của các công ty hiện đại với sự phân tách giữa quyền
sở hữu và quản lý, kiểm soát công ty (separation of ownership and control). Hay tác
phẩm Công ty hiện đại và sở hữu tư nhân (The Modern Corporation and Private
Property) của Adolf A. Berle và Gardiner C. Means2: Hai tác giả cũng cho r ng, mô
hình công ty hiện đại ngày nay là đại diện của một hình thức mới về tài sản, mà tài sản
đó lại được kiểm soát, quản lý bởi những người quản lý công ty (những người làm
thuê) hơn là các cổ đông (những chủ sở hữu thực sự của tài sản). Nhìn chung, các tác
giả nói trên đã chỉ ra xu hướng phát triển của các công ty hiện đại cần có sự phân tách
giữa quyền sở hữu và quản lý, kiểm soát công ty. Tuy nhiên, các học thuyết nói trên
chỉ dừng lại ở các quan hệ tài chính giữa các cổ đông (người được đại diện) và giám
đốc điều hành công ty (người đại diện).
Ở Việt Nam chế định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được
nghiên cứu ở nhiều phạm vi và góc độ khác nhau. Cụ thể như sau:
Nghiên cứu trong một số luận văn, luận án như: Nguyễn Văn Thắng (2007),
Người đại diện theo pháp luật trong Luật doanh nghiệp 2005, Luận văn thạc sĩ luật
học, Khoa luật Trường Đại học quốc gia Hà Nội; Vũ Thị Bích Thùy (2014), Đại diện
theo pháp luật của công ty cổ phần ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật
Trường Đại học quốc gia Hà Nội; Hồ Ngọc Hiển (2012), Đại diện cho thương nhân
1

truy cập ngày
28/5/2017
2
truy cập ngày 28/5/2017


4


theo pháp luật thương mại Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện
khoa học xã hội; Lê Việt Phương (2014), Người đại diện theo pháp luật của công ty
theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học; Phạm Lâm Hải
Nguyên (2014), Chế định người đại diện của doanh nghiệp theo pháp lauajt Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Nguyễn Thị
Anh Đào (2016), Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo luật doanh
nghiệp năm 2014, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Nghiên cứu trong các bài viết, tạp chí như: Bùi Xuân Hải (1999) “Người quản
lý công ty theo Luật doanh nghiệp 1999 - Nhìn từ góc độ luật so sánh”, Tạp chí Khoa
học Pháp lý, (4); Bùi Xuân Hải (2007) “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của
pháp luật công ty Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, (4). Trong hai bài viết này,
tác giả đã phân tích những vấn đề cơ bản của học thuyết về đại diện và s dụng những
luận điểm của học thuyết này để bình luận một số vấn đề trong thực tiễn quản trị
doanh nghiệp và pháp luật công ty Việt Nam; Lê Thị Bích Thọ (2001) “Một số ý kiến
về vấn đề đại diện trong ký kết hợp đồng kinh tế”, Tạp chí Khoa học Pháp lý, (2);
Nguyễn Văn Tuyến (2003) “Vấn đề đại diện hợp pháp của ngân hàng thương mại”,
Tạp chí Luật học, (5); Ngô Huy Cương (2009) “Chế định đại diện theo quy định của
pháp luật Việt Nam – Nhìn từ góc độ Luật so sánh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
(4); Nguyễn Ngọc Thanh (2010) “Vấn đề chủ sở hữu và người đại diện, một số gợi ý
về chính sách cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học, Kinh tế và Kinh doanh, (26); Hồ
Ngọc Hiển (2011) “Khái niệm đại diện và phân loại đại diện trong lĩnh vực thương
mại”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (18); Lê Văn Thiệp (2012), “Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về đại diện theo pháp luật”, Tạp chí Kiểm sát, số Tân Xuân; Nguyễn
Vũ Hoàng (2013) “Chế định đại diện trong pháp luật Việt Nam và vấn đề đặt ra trong
thực tiễn áp dụng”, Tạp chí Luật học, (2); Thân Văn Tài (2015) “Một số nội hàm khái
niệm đại diện trong dự thảo Bộ luật dân sự (s a đổi)”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật,
Viện Nhà nước và Pháp luật, (10).
Các công trình trên chủ yếu tiếp cận vấn đề đại diện dưới một góc độ nhất định
pháp luật dân sự hoặc luật thương mại như khái niệm, đại diện trong giao kết hợp đồng



5

hoặc những bài viết ngắn trong Bộ luật Dân sự năm 2005 mà chưa có bài viết nào
nghiên cứu tổng thể các góc độ về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật doanh nghiệp năm 2014.
Chính vì vậy, tác giả trong luận văn này sẽ đi sâu nghiên cứu một cách có hệ
thống về vấn đề này để làm rõ những góc cạnh của chế định và bổ sung vào những
nghiên cứu đã có.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định pháp luật và thực tiễn áp
dụng các quy định pháp luật về chế định người đại diện của doanh nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: luận văn nghiên cứu quy chế pháp lý người đại
diện theo pháp luật hiện hành của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật doanh nghiệp năm
2014. Các văn bản pháp luật đã hết hiệu lực như Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật doanh
nghiệp năm 2005 chỉ được giới thiệu để làm rõ những điểm mới, tiến bộ của các văn
bản pháp luật mới ban hành. Nội dung quy chế pháp lý về người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp tập trung vào các vấn đề: xác lập quyền đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp; số lượng người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp; thời hạn
và phạm vi đại diện; quyền và nghĩa vụ của người đại diện và vấn đề x lý vi phạm
của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là: Nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận và thực
tiễn các quy định về người đại diện của doanh nghiệp theo Bộ luật Dân sự năm 2015
và Luật doanh nghiệp 2014, từ đó, đề xuất một số giải pháp cơ bản nh m nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật doanh nghiệp Việt Nam về chế định người đại diện của
doanh nghiệp.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu cụ
thể sau: (i) Nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cơ bản về quan hệ đại diện và
người đại diện của doanh nghiệp; (ii) Phân tích các quy định của Bộ luật Dân sự năm

2015 và Luật doanh nghiệp năm 2014 về chế định người đại diện của doanh nghiệp;
(iii) Đánh giá thực tiễn những điểm còn hạn chế khi áp dụng quy định pháp luật về chế


6

định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiêp; (vi) Đề xuất một số giải pháp
nh m nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về chế định
người đại diện của doanh nghiệp.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu b ng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ
nghĩa Mác - LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Trong từng
chương cụ thể có s dụng các phương pháp: phương pháp lịch s , logic, phương pháp
phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh.
Phương pháp nghiên cứu của từng chương như sau:
Chương 1: Tác giả s dụng chủ yếu phương pháp lịch s cụ thể, liệt kê, phân
tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống để đưa ra những vấn đề lý luận cơ bản về
người đại diện theo pháp luật;
Chương 2: Tác giả s dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp luật
học so sánh và phương pháp thống kê để làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành
và thực tiễn thực hiện về người đại diện theo pháp luật;
Chương 3: Tác giả s dụng phương pháp liên hệ, tổng hợp, hệ thống và đối
chiếu để đưa ra một số giải pháp cụ thể nh m nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
người đại diện theo pháp luật.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
Luận văn làm rõ các vấn đề pháp lý cơ bản về người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp, từ đó, có có cơ sở khoa học để nghiên cứu sâu hơn về lý luận về người
đại diện theo pháp luật. Đề tài có thể s dụng trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu
khoa học tại các cơ sở đào tạo luật.
Luận văn có ý nghĩa thực tiễn. Luận văn đánh giá thực tiễn thi hành quy định về

người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị để nâng cao hiệu quả thực hiện quy định
pháp luật dân sự và quy định pháp luật doanh nghiệp về chế định.


7

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 03
chương như sau:
- Chƣơng

1: Khái quát chung về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

và quy chế pháp lý về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
- Chƣơng

2: Nội dung quy chế pháp lý về người đại diện theo pháp luật của

doanh nghiệp và thực tiễn áp dụng.
- Chƣơng

3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế pháp lý về người đại

diện theo pháp luật của doanh nghiệp.


8

Chƣơng 1

VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA
DOANH NGHIỆP VÀ QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO
PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát về ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của đại diện
Để tìm hiểu về người đại diện theo pháp luật, trước hết phải hiểu thế nào là
“Đại diện”. Theo Từ điển tiếng Việt, đại diện là: “Thay mặt cho cá nhân hoặc tổ chức
làm việc gì”.3 Theo Từ điển Luật học, đại diện là: “Việc một người, một cơ quan, tổ
chức nhân danh người, cơ quan tổ chức khác xác lập, thực hiện hành vi pháp lí trong
phạm vi thẩm quyền đại diện”4.
Trên thế giới, chế định đại diện là chế định quan trọng trong pháp luật tư, được
ghi nhận trong pháp luật nhiều quốc gia và hệ thống pháp luật. Theo truyền thống
Common law, “đại diện” có vai trò trong mọi mặt đời sống xã hội nói chung và trong
hoạt động kinh doanh thương mại nói riêng. Đại diện thúc đẩy sự phân công lao động
xã hội với một ảnh hưởng vô cùng rộng lớn và được những học thuyết riêng ghi nhận.
Sự phát triển của chế định đại diện dựa trên nền tảng tư tưởng của trường phái luật tự
nhiên trong bối cảnh thương mại và công nghiệp đang phát triển mạnh.5 Có quan niệm
cho r ng pháp luật về đại diện trong Commonlaw bắt nguồn từ một châm ngôn La
tinh: “Đại diện là hành động của một người thông qua một chủ thể khác được pháp
luật coi là hành động của chính người đó”6. Có quan niệm cho r ng vấn đề đại diện
lúc này như “giao một con tàu cho thuyền trưởng điều khiển và quản lý hay hoạt động
7

kinh doanh thông qua sự điều hành của người khác” . Quan hệ đại diện là một dạng
3

Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hoá thông tin, Hà Nội, tr. 325.
Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học, Nxb. Tư pháp và NXB Từ
Điển Bách khoa, Hà Nội, tr. 225.
5

Nguyễn Vũ Hoàng (2013), Chế định đại điện trong pháp luật Việt Nam và vấn đề đặt ra
trong thực tiễn áp dụng, Tạp chí Luật học (2), tr. 2.
6
Abdul Kadar, Ken Hoyle, Geoffrey Whitehead (1985), Business Law, Made Simple Books,
London, p.166.
7
Ngô Huy Cương (2009), Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam – Nhìn từ
góc độ Luật so sánh, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (4), tr.26-28.
4


9

quan hệ phức hợp được tạo bởi quan hệ giữa người ủy quyền (principal), người đại
8

diện (agent) và người thứ ba (third party) . Đối với pháp luật công ty, các nước có nền
kinh tế thị trường phát triển đều quan tâm điều chỉnh vấn đề đại diện. Theo lý thuyết
về đại diện của mình, Jensen và Mecklin cho r ng: “Lý thuyết đại diện liên quan đến
một hợp đồng theo đó một hoặc vài người (cổ đông) giao cho người khác (thành viên
HĐQT) thay mặt họ thực hiện một số dịch vụ, trong đó có việc ủy quyền ra quyết định
cho đại diện. Nếu cả hai bên trong mối quan hệ này là những người muốn tối đa hóa
lợi ích, chúng ta có lý do để tin rằng đại diện sẽ không luôn luôn hành động vì lợi ích
9

của người chủ” . Sự phát triển của vấn đề phân tách giữa quyền sở hữu và quản lý,
kiểm soát công ty làm tiền đề cho sự xuất hiện lý thuyết về người chủ và người đại
diện. Mối quan hệ này được coi như là quan hệ hợp đồng mà theo đó, các cổ đông
(những người chủ sở hữu – principals), bổ nhiệm, chỉ định người khác, người quản lý
công ty (người thụ ủy – agents) để thực hiện việc quản lý công ty cho họ, mà trong đó

10

bao gồm cả việc trao thẩm quyền để ra quyết định định đoạt tài sản của công ty . Theo
Từ điển Black Law Dictionary bản thứ 9 thì thuật ngữ “Đại diện” được dùng để biểu
đạt quan hệ một chủ thể nhân danh và vì lợi ích của một chủ thể khác để giao kết, thực
hiện một giao dịch11.
Điều 134 BLDS năm 2015 có định nghĩa về đại diện như sau: “Đại diện là việc
cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của
cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự”12. Mặc dù mới hình thành và phát triển chưa lâu nhưng
pháp luật dân sự Việt Nam đã có tiếp thu tương đối đầy đủ những học thuyết về đại
diện. Pháp luật Việt Nam tiếp cận khái niệm đại diện theo quan điểm tương đối hài hòa
8

Hồ Ngọc Hiển (2007), Nghĩa vụ người đại diện và người ủy quyền theo pháp luật kinh
doanh của Hoa Kỳ trong sự so sánh với các quy định pháp luật tương ứng của Việt Nam, Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật, (3), tr.57.
9
Michael C Jensen and William Meckling (1976), Theory of the Firm: Managerial Behavior,
Agency Costs and Ownership Structure, Journall of Financial Economics, October, 3, p. 26.
10
Bùi Xuân Hải (2007), “Nghĩa vụ người đại diện và người ủy quyền theo pháp luật kinh
doanh của Hoa Kỳ trong sự so sánh với các quy định pháp luật tương ứng của Việt Nam”, tạp
chí nhà nước và pháp luật, (4), tr. 11-18.
11
Từ điển Black Law Dictionary, p.1058.
12
Điều 134 Bộ luật dân sự năm 2015.



10

với các hệ thống pháp luật trên thế giới, có lẽ xuất phát từ việc vấn đề đại diện của
pháp luật Việt Nam có nguồn gốc từ trường phái luật tự nhiên giống với BLDS Pháp13.
Từ những học thuyết nói trên, tác giả đồng tình với khái niệm đại diện trong
BLDS năm 2015 của Việt Nam như sau: “Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây
gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác
(sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng
kí thành lập theo quy định của pháp luật nh m mục đích kinh doanh. Doanh nghiệp có
thể có tư cách pháp nhân (công ti cổ phần, công ti trách nhiệm hữu hạn, công ti hợp
danh) hoặc không có tư cách pháp nhân (doanh nghiệp tư nhân). Nếu là pháp nhân,
doanh nghiệp là pháp nhân thương mại theo quy định tại Điều 75 BLDS năm 2015.
Do là một tổ chức, là một thực thể pháp lý, không phải là con người cụ thể nên tổ
chức đó cần có cá nhân đại diện cho mình, thay mặt mình thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của tổ chức. Khi thực hiện chức năng đại diện, người đại diện phải nhân
danh và vì lợi ích của doanh nghiệp (Điều 134 BLDS năm 2015).
Ở Việt Nam, khái niệm người đại diện theo pháp luật được quy định tại khoản
1 Điều 13 LDN năm 2014: “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá
nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao
dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước trọng tài, toà án và các quyền và nghĩa
vụ khác theo quy định của pháp luật”.
Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có đặc điểm như sau:
Thứ nhất, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trước hết phải là con
người cụ thể nên mang đầy đủ năng lực cá nhân, con người. Cụ thể, đó là năng lực
pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả
năng của cá nhân b ng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.
người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trước hết có đầy đủ năng lực này và

13

Ngô Huy Cương (2009), “Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam – Nhìn
từ góc độ Luật so sánh”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, tr. 29.


11

không bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đây là điều kiện bắt buộc và
tiên quyết để trở thành người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp mà nếu không
đáp ứng thì pháp luật có quy định thay thế người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp. Đặc điểm này phù hợp với quy định của BLDS năm 2015 và quy định về các
chức danh quản lý trong LDN năm 2014.
Thứ hai, người đại diện của doanh nghiệp nhân danh doanh nghiệp, vì lợi ích
của doanh nghiệp và thực hiện quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp. Người đại diện
của doanh nghiệp là người có thẩm quyền nhân danh doanh nghiệp tham gia, xác lập
và thực hiện các giao dịch vì lợi ích của doanh nghiệp là phù hợp với quy định của
BLDS năm 2015 về phạm vi đại diện tại Khoản 3 Điều 141 quy định: “Người đại
diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của
người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Trong mối quan hệ
với người chủ sở hữu (cổ đông, thành viên) thì người đại diện được coi như là người
nhận ủy quyền và phải có nghĩa vụ của người thụ ủy. Đây cũng được xem là mối
quan hệ ủy thác tài sản, khi tài sản được đặt dưới sự kiểm soát của người được ủy
thác vì lợi ích của một người thụ hưởng hoặc cho một mục đích đã định. Người được
ủy thác có quyền và bổn phận và chịu trách nhiệm quản lý, s dụng theo các điều
khoản ủy thác và nhiệm vụ đặc biệt mà luật pháp áp đặt. Trong BLDS năm 2015 quy
định việc xác lập quyền đại diện của người đại diện theo ba phương thức, trong đó có
quy định về xác lập theo điều lệ doanh nghiệp, xác lập theo quy định pháp luật hoặc
theo quyết định của Tòa án. Nếu doanh nghiệp là nguyên đơn, bị đơn trong các vụ
kiện tại toà án, trọng tài thì người đại diện đương nhiên của doanh nghiệp tham gia

các thủ tục tố tụng phải là người đại diện theo pháp luật. Nếu người này không tham
gia được thì có thể uỷ quyền cho người khác những người không có quyền đương
nhiên như người đại diện theo pháp luật. Ngoài ra, người đại diện theo pháp luật có
thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác của doanh nghiệp ngoài những quyền và
nghĩa vụ đã phân tích ở trên. Người đại diện của doanh nghiệp là người có trách
nhiệm thực hiện các công việc vì quyền và lợi ích của doanh nghiệp.
Thứ ba, người đại diện chỉ được nhân danh doanh nghiệp xác lập, thực hiện


12

giao dịch trong phạm vi đại diện. Giao dịch do người đại diện xác lập, thực hiện chỉ
có hiệu lực pháp lý đối với người được đại diện khi và chỉ khi giao dịch đó phù hợp
với phạm vi đại diện. Đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng và tác động đến hầu hết
mọi vấn đề liên quan đến quan hệ đại diện. Quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của
doanh nghiệp, của người đại diện và của người thứ ba có phát sinh hay không, được
thực hiện như thế nào phụ thuộc vào việc người đại diện có thực hiện đúng phạm vi
đại diện của mình hay không. Do đó, đòi hỏi người đại diện phải minh bạch trong
việc cung cấp thông tin về phạm vi đại diện trước khi xác lập các giao dịch, nhất là
trong điều kiện BLDS năm 2015 và LDN năm 2014 cho phép một doanh nghiệp có
nhiều người đại diện theo pháp luật.
Thứ tư, công ty TNHH, CTCP có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo
pháp luật. Số lượng người đại diện theo pháp luật do doanh nghiệp tự quyết định, trừ
doanh nghiệp tư nhân. Số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp được quy định cụ thể tại điều lệ công ty. Đây là
quy định hoàn toàn mới, lần đầu tiên được LDN ghi nhận nh m tạo điều kiện thuận
lợi cho doanh nghiệp tận dụng được mọi cơ hội kinh doanh với bên ngoài thông qua
các đại diện theo pháp luật. Nếu như trước đây, theo LDN năm 2005, mỗi doanh
nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật, tất cả những người khác muốn thực
hiện các giao dịch nhân danh công ti đều phải có uỷ quyền của người đại diện theo

pháp luật thì nay, với quy định mới này của LDN năm 2015, tất cả những người được
điều lệ quy định là đại diện theo pháp luật đều có quyền nhân danh công ti thực hiện
các giao dịch đó mà không cần bất cứ uỷ quyền nào. Bên cạnh đó, quy định này còn
giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong việc quản lí nội bộ, tăng trách nhiệm của
những người được chỉ định là đại diện theo pháp luật, giảm bớt các thủ tục hành
chính khi không cần phải tiến hành thủ tục uỷ quyền. Đồng thời, quy định này còn gỡ
rối cho doanh nghiệp trong một số trường hợp đặc biệt, ví dụ, người đại diện duy nhất
của doanh nghiệp không hợp tác, không thực hiện các yêu cầu của thành viên, cổ
đông trong quá trình quản lí điều hành nội bộ cũng như giao dịch với bên ngoài.


13

1.1.3. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về người đại diện theo
pháp luật
Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hình thành và phát triển cùng
với sự phát triển của pháp luật doanh nghiệp Việt Nam và được quy định ở những văn
bản pháp luật sau đây:
- Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 là văn bản pháp luật đầu tiên
góp phần tạo ra khung pháp lý cho việc hình thành nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Tại Điều 12 Luật này khi quy định về xí nghiệp liên doanh, khái niệm về người đại
diện của doanh nghiệp lần đầu tiên xuất hiện14. Theo đó, mỗi bên trong xí nghiệp liên
doanh c người của mình vào HĐQT, Tổng giám đốc và các Phó Tổng giám đốc có
nhiệm vụ điều hành các hoạt động của xí nghiệp và chịu trách nhiệm trước HĐQT.
Tuy nhiên, các quy định này không thể hiện rõ tư tưởng đại diện theo pháp luật và đại
diện theo uỷ quyền như các văn bản pháp luật sau này.
- Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 đã có một số quy định về người đại diện
của pháp nhân khi ký kết hợp đồng kinh tế, đã ghi nhận quan hệ đại diện giữa chủ thể
pháp nhân và người đại diện trong việc ký kết hợp đồng kinh tế với chủ thể thứ ba.
Nhưng những quy định này mang nặng tính hình thức đã gây những trở ngại, thậm

chí là thiệt hại về kinh tế cho các chủ thể. Đó cũng là điểm hạn chế lớn của Pháp lệnh
hợp đồng kinh tế 198915.
- Pháp luật công ty Việt Nam đã có bước phát triển mới khi ban hành Luật
Công ty 1990 và LDN tư nhân 1990. Trong hai đạo luật này đã có những quy định
mang đặc trưng cơ bản về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Mặc dù có
những điểm tiến bộ nhưng do ban hành vào những năm đầu của công cuộc đổi mới
14

Điều 12 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 quy định: Cơ quan lãnh đạo của xí
nghiệp liên doanh là Hội đồng quản trị. Mỗi bên chỉ định người của mình tham gia Hội đồng
quản trị theo tỷ lệ tương ứng với phần góp vốn nhưng ít nhất có hai thành viên trong Hội
đồng. Chủ tịch Hội đồng do hai bên thoả thuận c ra Tổng giám đốc và các Phó Tổng giám
đốc do Hội đồng quản trị c ra để điều hành các hoạt động hàng ngày của xí nghiệp và chịu
trách nhiệm trước Hội đồng về hoạt động của xí nghiệp. Tổng giám đốc hoặc Phó Tổng giám
đốc thứ nhất là công dân Việt Nam.
15
Bùi Ngọc Cường (2001), “Vấn đề hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế nước ta hiện nay”,
Tạp chí Khoa học Pháp lý, (4), tr. 20.


14

nên các quy định về người đại diện của doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở những chế
định cơ bản nhất, còn mang tính nguyên tắc và chưa được cụ thể hoá16.
- BLDS 1995 và LDN 1999 đã quy định có sự tách biệt giữa hệ thống pháp
luật điều chỉnh quan hệ dân sự và hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế.
Song về thực chất, sự phân biệt này trong luật thực định chưa được làm rõ từ luật vật
chất cho tới luật hình thức, chưa có một hệ thống lý thuyết rõ ràng của hai ngành luật
dân sự và luật kinh tế17. Vì thế, pháp luật về đại diện đã được ghi nhận song vẫn chưa
có sự thống nhất với nhiều hạn chế về nội dung và phạm vi điều chỉnh.

- BLDS năm 2005 và LDN năm 2005 được ban hành đánh dấu một bước cải
cách quan trọng trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho thể chế kinh tế thị
trường, cùng với đó là một hệ thống pháp luật dân sự - thương mại thống nhất, liên
thông được xác lập dựa trên nguyên tắc mối quan hệ luật chung và luật riêng. BLDS
được xác định là luật chung18. LDN và các đạo luật khác liên quan đến các hành vi
kinh doanh thương mại được xác định là luật chuyên ngành. Các quy định về đại diện
cũng dựa trên nguyên tắc này. Do tầm quan trọng của chế định đại diện nên BLDS
năm 2005 đã dành một chương riêng để quy định về đại diện trong quan hệ pháp luật
dân sự. Về nguyên tắc, pháp luật Việt Nam đã tiếp nhận và có sự hài hoà nhất định
với pháp luật của các nước về đại diện khi quy định tại Điều 139 BLDS năm 2005 đại
diện là việc một người nhân danh và vì lợi ích của người khác xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự trong phạm vi đại diện. Quan hệ đại diện được xác lập theo pháp luật
hoặc theo ủy quyền. Song BLDS năm 2005 và LDN năm 2005 vẫn còn nhiều điểm
hạn chế, gây ra khó khăn cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Hiện nay, BLDS năm 2015 và LDN năm 2014 đã có những quy định đầy đủ
và thống nhất hơn về chế định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. BLDS

16

Nguyễn Thị Thu Vân (1998), Một số vấn đề về công ty và hoàn thiện pháp luật về công ty ở
Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 124-125.
17
Nguyễn Như Phát, Ngô Huy Cương, Những khác biệt giữa Luật thương mại Việt Nam và
các
chế
định
pháp
luật
thương
mại

các
nước.
Tại
địa
chỉ:
sanh.doc
18
Hồ Ngọc Hiển (2012), Đại diện cho thương nhân theo pháp luật thương mại Việt Nam hiện
nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, tr. 97.


15

năm 2015 quy định về nguyên tắc đại diện, số lượng đại diện và phạm vi thời hạn đại
diện để thống nhất với LDN. LDN năm 2014 đã quy định đầy đủ việc xác lập đại
diện, vấn đề quyền nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Vấn
đề nào chưa được ghi nhận trong LDN thì có thể áp dụng nguyên tắc chung của
BLDS năm 2015.
Ngoài ra chế định về đại diện còn được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật
khác như Luật thương mại, Luật đầu tư, Luật các tổ chức tín dụng…. hình thành nên
một hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ đại diện, có sự tương thích
nhất định với các quy định của pháp luật Việt Nam và nước ngoài.
Tóm lại, sự hình thành và phát triển chế định người đại diện theo pháp luật
doanh nghiệp ở nước ta đã phát triển theo từng giai đoạn lịch s của đất nước. Ở giai
đoạn đầu các chế định này xuất hiện và phát triển sơ khai nhưng tính đến nay đã đi
vào hoàn thiện và phát triển, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển.
1.1.4. Vai trò của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Vai trò của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thể hiện qua các
yếu tố sau đây:
Thứ nhất, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là vị trí bắt buộc,

thiếu nó các doanh nghiệp không thể hoạt động.
Thứ hai, với vai trò là người đại diện theo pháp luật, cá nhân đó nhân danh
doanh nghiệp tiếp xúc, giao dịch với những người bên ngoài và ý chí của công ty
được thể hiện thông qua hành động của người đại diện. B ng hoạt động của người đại
diện theo pháp luật, doanh nghiệp không thể thoái thác trách nhiệm của mình với các
chủ thể khác. Người thứ ba khi giao dịch với công ty thì chỉ cần quan tâm đến việc
ràng buộc trách nhiệm công ty thông qua hành động của người đại diện.
Thứ ba, trong mối quan hệ với chủ sở hữu, người đại diện doanh nghiệp nhân
danh chủ sở hữu thực hiện việc quản lý công ty cho họ, mà trong đó bao gồm cả thẩm
quyền ra những quyết định nhất định để hành động cho và vì lợi ích của công ty cũng
như định đoạt tài sản công ty19. Đồng thời cùng với chủ sở hữu hoạch định các chiến
19

Bùi Xuân Hải (2007), “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt
Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, tr. 14-20.


16

lược, kinh doanh của công ty, góp phần nâng cao giá trị tài sản góp vốn của chủ sở
hữu.
Thứ tư, người đại diện đóng vai trò hỗ trợ chủ sở hữu kiểm soát hành vi của
các chức danh quản lý khác, nhất là trong giao dịch với bên ngoài thông qua cơ chế
người đại diện theo pháp luật là (những) người duy nhất có thẩm quyền xác lập, thực
hiện các giao dịch theo các hình thức xác lập quyền đại diện, mặc dù theo quy định
của pháp luật, giao dịch đó có thể thuộc thẩm quyền của các chức danh quản lý khác
theo cơ chế ủy quyền của người đại diện theo pháp luật. Nhờ đó, cơ chế giám sát nội
bộ của doanh nghiệp chặt chẽ hơn, hạn chế tình trạng lạm quyền của các chức danh
quản lý và người đại diện.
Thứ năm, trong mối quan hệ với khách hàng và các bên liên quan khác, người

đại diện chính là người nhân danh doanh nghiệp trong các mối quan hệ đối ngoại.
Tầm quan trọng của chữ ký người đại diện theo pháp luật trên một văn bản của công
ty n m ở chỗ ràng buộc công ty vào nội dung văn bản. Hành vi của người đại diện
chính là chứng cứ pháp lý để ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp. Bên cạnh đó,
thông qua hành vi của người đại diện, các cơ quan quản lý nhà nước có thể kiểm soát,
đánh giá ý thức chấp hành pháp luật của doanh nghiệp để có những biện pháp x lý,
can thiệp kịp thời nh m đảm bảo doanh nghiệp phát triển lành mạnh theo khuôn khổ
pháp luật.
1.2. Khái quát về quy chế pháp lý về ngƣời đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp
. . . Khái niệm qu ch pháp l về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
1.2.1.1. Khái niệm
Thuật ngữ “quy chế pháp lý” thông thường được dùng để chỉ tổng thể các quy
phạm pháp luật liên quan tới một đối tượng điều chỉnh nhất định. Theo Đại từ điển
tiếng Việt quy chế là:“Quy chế là những điều đã được quy định thành chế độ để mọi
người theo đó mà thực hiện trong những hoạt động nhất định nào đó”20. Theo Từ
điển Luật học: “Quy chế là một văn bản hoặc toàn thể các văn bản có chứa quy phạm
20

Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hoá thông tin, Hà Nội, tr. 550.


17
pháp luật hoặc quy phạm xã hội do cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ban
hành theo thủ tục, trình tự nhất định, có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các thành
viên của cơ quan, tổ chức thuộc phạm vi điều chỉnh của quy chế”21. Qua nghiên cứu
cho thấy, quy chế pháp lý là một thuật ngữ được s dụng nhiều trong khoa học pháp
lý. Quy chế pháp lý có nghĩa khác với nội quy. Quy chế chính là thuật ngữ chỉ tổng
thể các quy định được đặt ra để điều chỉnh một đối tượng nhất định, có hiệu lực bao
trùm toàn bộ một hệ thống pháp luật nhất định. Còn nội quy được dùng để chỉ quy tắc

ứng x mang tính nội bộ cho một tập thể nhất định liên quan tới một hoạt động nhât
định. Như vậy, có thể hiểu đơn giản quy chế pháp lý về người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành theo thủ
tục luật địnhvề người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp mang tính bắt buộc
cho người đại diện theo pháp luật của các doanh nghiệp
1.2.1.2. Mối quan hệ giữa các thành viên của doanh nghiệp và người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp
Trong các doanh nghiệp đương đại, quyền sở hữu được mở rộng ra hàng ngàn
cá nhân và các tổ chức tài chính khác nhau. Mà trong đó, người quản lý với vai trò là
người đại diện cho người chủ sở hữu nhận các quyền điều phối và kiểm soát doanh
nghiệp. Chính vì vậy, trong mối quan hệ đại diện, luôn tiềm ẩn sự xung đột lợi
ích giữa những thành viên góp vốn và người quản lý, điều hành doanh nghiệp. Đây
22

được xem là mâu thuẫn cơ bản của công ty. Xem xét mối quan hệ giữa người chủ sở
hữu và người đại diện qua lăng kính của một số lý thuyết về kiểm soát quản trị sẽ
cho chúng ta góc nhìn bao quát về vấn đề này.
Theo học thuyết về đại diện, mối quan hệ giữa các cổ đông và người quản lý
công ty được hiểu như là quan hệ đại diện – hay quan hệ ủy thác.23 Mà trong đó, chủ
sở hữu bổ nhiệm, chỉ định người đại diện thực hiện việc quản lý công ty, trao cho họ
một số thẩm quyền, bao gồm cả quyền định đoạt tài sản để phục vụ lợi ích của chủ sở
21

Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Tư pháp và Nxb Từ điển bách khoa,
tr. 624.
22
Lê Thị Hiền (2010), Tranh chấp nội bộ công ty theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.11
23
Bùi Xuân Hải (2007), tldd 6, tr.11-18.



18
hữu. Nếu cả hai bên trong mối quan hệ này (cổ đông và người quản lý công ty) đều
muốn tối đa hóa lợi tích của mình, thì có cơ sở để tin r ng người quản lý công ty sẽ
không luôn luôn hành động vì lợi ích tốt nhất cho người chủ, tức các cổ đông và công
ty. Làm thế nào để đảm bảo r ng người đại diện chỉ hành động duy nhất vì lợi ích
người chủ (principal) là một thách thức lớn lao.
Nguyên nhân của hiện tượng trên là, trong mỗi công ty đều có những mối quan
hệ ẩn chứa sự xung đột lợi ích ở những mức độ khác nhau, giữa một bên là cổ đông
với tư cách là người sở hữu vốn với một bên là những người quản lý điều hành công
ty với tư cách là người trực tiếp quản lý, s dụng vốn, tài sản của công ty. Trên cả
phương diện lý luận và thực tiễn, tất cả các cổ đông,thành viên công ty nói chung –
bất kể là cổ đông/thành viên góp nhiều vốn hay ít vốn – đều có thể phải đối mặt với
việc bị “bóc lột” bởi những người quản lý điều hành công ty.24 Các đặc tính của tự
nhiên của quan hệ đại diện dẫn đến giả thiết r ng, các cổ đông thường xuyên giám sát
hoạt động của người quản lý công ty nh m đảm bảo lợi ích của mình, b ng cách thiết
lập những cơ chế đãi ngộ thích hợp cho nhà quản trị, và thiết lập cơ chế giám sát hiệu
quả để hạn chế những hành vi không bình thường, tư lợi của người quản lý công ty25.
Mối quan hệ giữa người chủ và người đại diện còn được nhìn ở khía cạnh
khác. Dưới lăng kính của lý thuyết về người quản gia (stewardship theory) cho chúng
ta một góc nhìn trái ngược hẳn. Lý thuyết người quản gia phản ánh các ý tưởng cổ
điển về kiểm soát quản trị. Thành viên HĐQT có trách nhiệm pháp lý với cổ đông
chứ không phải với chính mình, cũng không phải với các nhóm có quyền lợi khác.
Ngược với lý thuyết đại diện, lý thuyết người quản gia tin r ng thành viên HĐQT
không luôn luôn hành động theo hướng tối đa hóa lợi ích cá nhân của họ, họ có thể và
thực sự đã hành động một cách có trách nhiệm với sự độc lập và chính trực. Như
Cairns đã nói, “Không một người nào, với tư cách là đại diện, lại được phép đặt mình
vào vị trí mà lợi ích và trách nhiệm của bản thân mâu thuẫn nhau”. 26Chuyên ngành
cơ bản n m sau lý thuyết người quản gia là các nghiên cứu pháp lý và tổ chức. B ng

24

Bùi Xuân Hải (2011), Luật Doanh nghiệp – Bảo vệ cổ đông pháp luật và thực tiễn, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.147.
25
Bùi Xuân Hải (2007), tldd 6, tr.11-18
26
Bob Tricker (2009), Corporate Governane: Kiểm soát quản trị, NXB Thời đại, Hà Nội,
tr.405.


×