Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Địa vị pháp lý của công ty hợp danh theo pháp luật lào và việt nam dưới góc độ so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.21 MB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHOUTSAVANH CHANTHASITH

ĐỀ TÀI:
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CÔNG TY HỢP DANH THEO PHÁP
LUẬT LÀO VÀ VIỆT NAM DƢỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành

: Luật Kinh tế

Mã số

: 60380107

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. VŨ ĐẶNG HẢI YẾN

HÀ NỘI - NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.


Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phoutsavanh CHANTHASITH


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CHDCND

: Cộng hòa dân chủ nhân dân

CHXHCN

: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

CTHD

: Công ty hợp danh

ĐKDN

: Đăng ký doanh nghiệp

LDN

: Luật Doanh nghiệp

NĐT


: Nhà đầu tư

Nxb

: Nhà xuất bản

TLDN

: Thành lập doanh nghiệp

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

TVHD

: Thành viên hợp danh

TVGV

: Thành viên góp vốn

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1


Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CÔNG TY
HỢP DANH......................................................................................................... 6

1.1. Khái quát về công ty hợp danh ........................................................... 6
1.1.1. Định nghĩa về công ty hợp danh .......................................................... 6
1.1.2. Đặc điểm pháp lý của công ty hợp danh .............................................. 8
1.1.3. Các loại công ty hợp danh .................................................................11

1.2. Khái quát về địa vị pháp lý của công ty hợp danh.......................... 13
1.2.1. Địa vị pháp lý và vấn đề tiếp cận địa vị pháp lý ................................13
1.2.2. Khái niệm địa vị pháp lý của công ty hợp danh ................................15
1.2.3. Nội dung địa vị pháp lý của công ty hợp danh ..................................16
1.2.4. Các yếu tố chi phối đến việc xác định địa vị pháp lý của công ty hợp
danh ..............................................................................................................17

1.3. Quá trình hình thành, phát triển của pháp luật về công ty hợp
danh ở Lào và Việt Nam ........................................................................... 21
1.3.1. Quá trình hình thành, phát triển của pháp luật về công ty hợp danh ở
Lào ...............................................................................................................21
1.3.2. Quá trình thành, phát triển của pháp luật về công ty hợp danh ở Việt
Nam ..............................................................................................................22
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 .................................................................................... 25

Chƣơng 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CÔNG TY
HỢP DANH THEO PHÁP LUẬT LÀO VÀ VIỆT NAM DƢỚI

GÓC

ĐỘ


SO

SÁNH ..................................................................................................... 26

2.1. Điểm tƣơng đồng và khác biệt về địa vị pháp lý của công ty hợp
danh theo pháp luật hiện hành của Lào và Việt Nam ........................... 26
2.1.1. Điểm tương đồng và khác biệt về địa vị pháp lý trong quy định về
thành lập công ty hợp danh ..........................................................................26


2.1.2. Điểm tương đồng và khác biệt về địa vị pháp lý trong quy định về cơ
cấu tổ chức và quản lý công ty hợp danh.....................................................38
2.1.3. Điểm tương đồng và khác biệt về địa vị pháp lý trong quy định về
sáp nhập, giải thể, phá sản công ty hợp danh ..............................................43

2.2. Điểm tƣơng đồng và khác biệt về địa vị pháp lý của thành viên
công ty hợp danh ....................................................................................... 51
2.2.1. Điểm tương đồng và khác biệt về quyền và nghĩa vụ của thành viên
hợp danh .......................................................................................................51
2.2.2. Điểm tương đồng và khác biệt về quyền và nghĩa vụ của thành viên
góp vốn.........................................................................................................53
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 .................................................................................... 55

Chƣơng 3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ RÚT RA TỪ VIỆC SO SÁNH VÀ GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CÔNG TY HỢP DANH Ở

LÀO




VIỆT NAM ....................................................................................................... 57

3.1. Một số vấn đề rút ra từ việc so sánh các quy định của pháp luật
Lào và Việt Nam về địa vị pháp lý của công ty hợp danh ..................... 57
3.1.1. Những bất cập, hạn chế của pháp luật Lào về địa vị pháp lý của công
ty hợp danh...................................................................................................57
3.1.2. Những bất cập, hạn chế của pháp luật Việt Nam về địa vị pháp lý của
công ty hợp danh ..........................................................................................63

3.2. Giải pháp nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý của công ty hợp danh ở
Lào và Việt Nam ........................................................................................ 66
3.2.1. Một số giải pháp hoàn thiện địa vị pháp lý của công ty hợp danh ở
Lào ...............................................................................................................66
3.2.2. Một số giải pháp hoàn thiện địa vị pháp lý của công ty hợp danh ở
Việt Nam ......................................................................................................71
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 .................................................................................... 74

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 76


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công ty hợp danh (CTHD) là một trong những loại hình công ty ra đời
sớm trong lịch sử hình thành công ty trên thế giới. Cho đến ngày hôm nay
CTHD vẫn tiếp tục khẳng định được sự tồn tại và không ngừng phát triển.
Cùng với các công ty khác, CTHD góp phần giải phóng và phát triển sức sản

xuất; tập trung và phát huy nội lực vào thúc đẩy nền kinh tế xã hội, giúp cho
nền kinh tế phục hồi và tăng trưởng, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết
có hiệu quả các vấn đề xã hội như: Tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo,… Mặc
dù có vai trò như vậy, nhưng trên thực tế CTHD nhận được rất ít sự quan tâm,
chú ý của nhà đầu tư (NĐT) và cả sự quan tâm điều chỉnh của pháp luật. Ở
Việt Nam, CTHD lần đầu tiên được quy định tại Luật Doanh nghiệp (LDN)
năm 1999. Sau đó pháp luật về CTHD tiếp tục được kế thừa và phát triển trong
LDN năm 2005 và LDN năm 2014 với 11 điều luật là chưa đảm bảo được
khung pháp lý cho sự hoạt động CTHD. Sau nhiều năm thi hành các luật này
về CTHD đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, các quy định pháp luật về CTHD
còn thiếu tính thống nhất, gây khó khăn cho việc áp dụng và trở thành rào cản
kìm hãm sự phát triển của CTHD.
Ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân (CHDCND) Lào, CTHD là một
trong những loại hình doanh nghiệp, công ty, lần đầu tiên được ghi nhận trong
Luật Kinh doanh năm 1994 và tiếp tục được kế thừa và phát triển trong LDN
năm 2005 và LDN năm 2013. Tuy nhiên, sự quan tâm điều chỉnh của các luật
này đối với CTHD chưa thực sự nhiều, các quy định đã có về CTHD còn thiếu
tính thống nhất, còn có nhiều mâu thuẫn, chưa quy định cụ thể, chi tiết. Do vậy
đã không tạo ra cơ sở pháp lý đầy đủ để tạo điều kiện cho CTHD phát triển
trong thực tế nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở nước CHDCND Lào.
Trong xu thế hội nhập quốc tế, giữa các quốc gia không chỉ có sự giao
lưu, hợp tác về kinh tế mà còn trên tất cả các mặt của đời sống xã hội như văn
hóa, giáo dục, y tế và lập pháp. Đứng trước bối cảnh đó và trên cơ sở những


2

điểm tương đồng về chế độ chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội nên nước
CHDCND Lào và nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam
cần phải tích cực học tập, tiếp thu kinh nghiệm quý báu của nhau trong lĩnh

vực lập pháp nói chung và vấn đề xây dựng, hoàn thiện địa vị pháp lý của
CTHD nói riêng.
Chính vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài: “Địa vị pháp lý của công
ty hợp danh theo pháp luật Lào và Việt Nam dưới góc độ so sánh” để làm
đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mặc dù là loại hình công ty, doanh nghiệp không được các NĐT ưu
tiên lựa chọn khi đầu tư thành lập doanh nghiệp (TLDN). Tuy nhiên, dưới góc
độ nghiên cứu pháp lý, CTHD nói chung và địa vị pháp lý của CTHD nói
riêng được các học giả quan tâm nghiên cứu. Dưới đây là một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu về CTHD có liên quan đến đề tài: Ngô Huy Cương
(2013), Giáo trình luật thương mại phần chung và phần thương nhân, Nxb.
Đại học Quốc gia Hà Nội; Ngô Huy Cương (2007), “Khái niệm công ty hợp
danh tại Luật Doanh nghiệp năm 2005”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp; Vũ
Đặng Hải Yến (2003), Một số vấn đề pháp lý về công ty hợp danh, Luận văn
thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Thị Huế (2012), Pháp
luật về công ty hợp danh, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội;
Lục Việt Dũng (2015), So sánh pháp luật Việt Nam và pháp luật Nhật Bản về
công ty hợp danh, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội;
Soulasin Xayvongsa (2015), Hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp của nước
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học
Luật Hà Nội; Phanyasith Kongsanga (2012), Pháp luật về công ty hợp danh,
Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Quốc gia Lào… Các công trình nghiên
cứu này là những công trình nghiên cứu khoa học cho thấy cái nhìn tổng thể
và đầy đủ về CTHD nói chung và địa vị pháp lý của CTHD nói riêng.


3

Tuy nhiên các công trình nghiên cứu nổi bật trên lại chưa đề cập đến

việc nghiên cứu về CTHD, địa vị pháp lý của CTHD theo pháp luật của nước
CHDCND Lào, đặc biệt là so sánh địa vị pháp lý của CTHD theo pháp luật
Lào và Việt Nam.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định
về địa vị pháp lý của CTHD là đối tượng điều chỉnh của LDN năm 2013 của
Lào và LDN năm 2014 của Việt Nam và các văn bản pháp luật có liên quan.
Các nội dung chủ yêu liên quan đến quyền và nghĩa vụ của CTHD trong
thành lập CTHD; cơ cấu tổ chức, quản lý CTHD; sáp nhập, giải thể, phá sản
CTHD; quyền và nghĩa vụ của thành viên CTHD.
* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn có phạm vi nghiên cứu về nội dung
là các quy định pháp luật hiện hành của Lào và Việt Nam về địa vị pháp lý
của CTHD; quyền và nghĩa vụ của thành viên CTHD. Luận văn có phạm vi
nghiên cứu về không gian là quy định pháp luật ở nước CHDCND Lào và
CHXHCN Việt Nam về địa vị pháp lý của CTHD, thành viên CTHD. Luận
văn có phạm vi nghiên cứu về thời gian là từ khi các luật có quy định về địa
vị pháp lý của CTHD ở nước CHDCND Lào và nước CHXHCN Việt Nam
được ban hành.
4. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Từ việc nghiên cứu so sánh các quy định của pháp luật hiện hành của
nước CHDCND Lào và nước CHXHCN Việt Nam về địa vị pháp lý của
CTHD, thành viên CTHD để tìm ra những ưu điểm, hạn chế của pháp luật hai
nước về địa vị pháp lý của CTHD, thành viên CTHD mà hai nước có thể tham
khảo, lựa chọn và vận dụng sáng tạo để hoàn thiện về địa vị pháp lý của
CTHD, thành viên CTHD.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Từ mục đích nghiên cứu của luận văn các câu hỏi nghiên cứu của luận
văn được xác định như sau:



4

(i) CTHD được hiểu như thế nào dưới góc độ pháp lý?
(ii) Địa vị pháp lý của CTHD được hiểu như thế nào dưới góc độ pháp lý?
(iii) Những yếu tố nào chi phối đến địa vị pháp lý của CTHD?
(iv) Pháp luật nước CHDCND Lào và nước CHXHCN Việt Nam có
những điểm tương đồng nào về địa vị pháp lý của CTHD, thành viên CTHD?
(v) Pháp luật nước CHDCND Lào và nước CHXHCN Việt Nam có
những điểm khác biệt nào về địa vị pháp lý của CTHD, thành viên CTHD?
(vi) Có những điểm bất cập, hạn chế nào trong quy định về địa vị pháp lý
của CTHD theo pháp luật nước CHDCND Lào và nước CHXHCN Việt Nam?
(vii) Các giải pháp nào cần được thực hiện để hoàn thiện địa vị pháp lý của
CTHD trong pháp luật của nước CHDCND Lào và nước CHXHCN Việt Nam?
6. Các phƣơng pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Để nghiên cứu đề tài, tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng macxit và quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Nhà nước nước CHDCND Lào; quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước CHXHCN
Việt Nam về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
các loại hình doanh nghiệp được đối xử bình đẳng như nhau.
Về phương pháp nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể
như: Phân tích; chứng minh; so sánh, diễn giải, quy nạp; tổng hợp, phương
pháp lịch sử; thống kê v.v… Trong đó, nhấn mạnh đến việc sử dụng phương
so sánh để tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt trong quy định của
pháp luật hiện hành hai nước về địa vị pháp lý của CTHD.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung, phát triển
những vấn đề lý luận về CTHD nói chung và địa vị pháp lý của CTHD nói
riêng, cũng như đóng góp những ý kiến có cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn cho
việc xây dựng và hoàn thiện địa vị pháp lý của CTHD ở nước CHDCND Lào,

cũng như ở nước CHXHCN Việt Nam.


5

Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của luận văn được sử dụng làm tài
liệu giảng dạy, nghiên cứu khoa học về CTHD nói chung và địa vị pháp lý
của CTHD nói riêng ở các cơ sở nghiên cứu, đào tạo có liên quan ở nước
CHDCND Lào, cũng như nước CHXHCN Việt Nam.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, bố
cục của luận văn được chia làm 3 chương sau:
- Chương 1. Một số vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của công ty hợp danh;
- Chương 2. Thực trạng quy định về địa vị pháp lý của công ty hợp
danh theo pháp luật Lào và Việt Nam dưới góc độ so sánh;
- Chương 3. Một số vấn đề rút ra từ việc so sánh và giải pháp hoàn
thiện địa vị pháp lý của công ty hợp danh ở Lào và Việt Nam.


6

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
CÔNG TY HỢP DANH
1.1. Khái quát về công ty hợp danh
1.1.1. Định nghĩa về công ty hợp danh
Nền kinh tế thị trường phát triển từng ngày, từng giờ. Kéo theo đó là sự đa
dạng của các loại hình công ty nhằm thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của
thị trường. Chính vì thế, việc đưa ra định nghĩa chung cho tất cả các loại hình
công ty là điều nan giải. Không chỉ riêng đối với Việt Nam mà đối với các nước

khác trên thế giới, kể cả những nước có nền lập pháp tiên tiến cũng khó có thể
đưa ra một định nghĩa chung nhất về công ty nói chung và CTHD nói riêng.
CTHD là một dạng của công ty đối nhân. Đây là loại công ty trọng về
người chứ không trọng về vốn. Ban đầu sự liên kết trong CTHD chỉ là giữa
những người hoàn toàn quen biết nhau, nhưng sau này do nhu cầu về vốn nên
CTHD đã chấp nhận các thành viên góp vốn (TVGV)1.
Vì vậy, bên cạnh thành viên hợp danh (TVHD), trong CTHD còn có
thêm cả các TVGV. TVHD luôn chịu trách nhiệm vô hạn bằng tài sản của
mình (bao gồm cả tài sản thương mại và tài sản dân sự) đối với mọi khoản nợ
và nghĩa vụ tài sản khác của công ty và có quyền quản lý công ty. Ngược lại,
TVGV chỉ chịu trách nhiệm trong phần vốn đã góp vào CTHD và không có
quyền quản lý CTHD.
Vấn đề đáng lưu ý là từ khi CTHD ra đời, quan niệm về “công ty” luôn
gắn liền với tư cách pháp nhân. Điều này có nghĩa là một công ty sẽ luôn có
tư cách pháp nhân. Đây là một quan niệm truyền thống. Tuy nhiên, đối với
loại hình CTHD, đây lại là vấn đề có nhiều tranh cãi, không thống nhất giữa
các quốc gia. Có một số quốc gia cho rằng CTHD có tư cách pháp nhân; một
số quốc gia khác lại cho rằng CTHD không có tư cách pháp nhân. Điều này
1

Nguyễn Thị Thùy Giang (2012), Pháp luật Việt Nam về công ty hợp danh, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại
học Quốc gia Hà Nội, tr.8.


7

khiến cho việc khái niệm về CTHD không thống nhất giữa các quốc gia.
Chính vì thế, để có một định nghĩa hoàn hảo, chung nhất về CTHD trên thế
giới là điều khó khăn2.
Tuy vậy, có thể đưa ra một khái niệm mang tính khái quát tương đối về

CTHD như sau: CTHD là một loại hình liên kết mang bản chất đối nhân; có
thể có hoặc không có tư cách pháp nhân; thành viên của CTHD có thể chỉ bao
gồm các TVHD, chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty hoặc
bao gồm cả các TVGV, chịu trách nhiệm hữu hạn (TNHH) trong phần vốn
góp vào công ty.
- Theo LDN năm 2013 của nước CHDCND Lào định nghĩa về CTHD
như sau: “Công ty hợp danh là hình thức công ty được thành lập trên cơ sở
hợp đồng giữa ít nhất hai nhà đầu tư để huy động vốn, với mục đích cùng
hoạt động kinh doanh và cùng chia lợi nhuận” (khoản 4 Điều 3 LDN năm
2013 của nước CHDCND Lào). CTHD ở nước CHDCND Lào hiện nay có
hai hình thức là:
+ CTHD vô hạn là một loại hình CTHD do các thành viên cùng điều
hành kinh doanh dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau giữa họ và tất các các cổ đông
đều có trách nhiệm vô hạn về những khoản nợ của công ty (khoản 5 Điều 3
LDN năm 2013).
+ CTHD trách nhiệm hữu hạn là một loại hình CTHD trong đó một số
thành viên chịu trách nhiệm vô hạn về những khoản nợ của doanh nghiệp và
một số cổ đông khác chịu TNHH về những khoản nợ của công ty (khoản 6
Điều 3 LDN năm 2013)3.
- Theo LDN năm 2014 của nước CHXHCN Việt Nam định nghĩa về
CTHD như sau: “Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó phải có ít nhất
02 thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới
2

Nguyễn Thị Huế (2012), Pháp luật về công ty hợp danh, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã
hội, tr.21-22.
3
Anousone Vongphachanh (2016), Pháp luật về quyền thành lập doanh nghiệp của Việt Nam và Lào dưới
góc độ so sánh, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.35.



8

một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh). Ngoài các thành viên
hợp danh, công ty có thể có thêm thành viên góp vốn; Thành viên hợp danh
phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa
vụ của công ty; Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của
công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty” (Điều 172).
Như vậy, về cơ bản thì LDN năm 2013 của nước CHDCND Lào và
LDN năm 2014 của Việt Nam định nghĩa tương đồng nhau về CTHD mặc dù
cách diễn đạt có thể khác nhau. Tuy nhiên, thay vì LDN năm 2014 của Việt
Nam không quy định về loại hình CTHD TNHH thì LDN năm 2013 của nước
CHDCND Lào lại quy định về loại hình CTHD TNHH.
1.1.2. Đặc điểm pháp lý của công ty hợp danh
Do định nghĩa về CTHD của mỗi quốc gia trên thế giới không giống
nhau. Chính vì thế, ở mỗi một quốc gia khác nhau, CTHD sẽ có những đặc
điểm pháp lý khác nhau, nhưng tựu chung lại nếu đứng trên góc độ lý luận,
CTHD thường có các đặc điểm pháp lý sau đây:
Thứ nhất, về vốn góp. Mỗi thành viên đều phải đóng góp những phần
vốn nhất định vào CTHD. Tuy nhiên, khái niệm “vốn” của CTHD được hiểu
một cách linh hoạt và theo nghĩa rộng. Nói đến phần vốn góp trong các loại
hình công ty khác như công ty cổ phần hay công ty TNHH là nói tới giá trị
vật chất mà các thành viên đóng góp vào công ty. Còn trong CTHD, đối với
TVHD, phần góp vốn ấy có thể được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau và
có thể liên quan đến nhân thân của người góp vốn. Đó là uy tín, danh tiếng, hệ
thống khách hàng, kinh nghiệm làm việc,… TVHD không nhất thiết phải góp
vốn bằng các giá trị vật chất cụ thể.
Nhân sự là vấn đề quan trọng bậc nhất của công ty đối nhân, là nguyên
nhân và điều kiện tồn tại của CTHD. Việc chuyển nhượng phần vốn góp của
các TVHD sẽ làm thay đổi nhân sự và nó có thể là nguyên nhân chấm dứt sự

tồn tại của CTHD. Vì lý do này, pháp luật của hầu hết các quốc gia đều cấm
hoặc hạn chế tối đa việc chuyển nhượng phần vốn góp của TVHD. Hiện nay,


9

trong CTHD, ngoài TVHD còn có các TVGV. Các TVGV không phải là
nguyên nhân ra đời của CTHD và các TVHD chỉ quan tâm đến vốn của
những TVGV mà không quan tâm đến nhân thân của họ. Nói cách khác, đây
là những thành viên giống như trợ lực về tài chính, vật chất của CTHD. Do
vậy, việc chuyển nhượng vốn góp của các TVGV này không bị cấm hoặc bị
hạn chế4.
Theo quy định của LDN năm 2013 của Lào và LDN năm 2014 của Việt
Nam đều quy định vốn góp của CTHD gồm có tài sản hữu hình và tài sản vô
hình. Vốn góp của CTHD có thể chỉ gồm tài sản vô hình mà không cần có tài
sản hữu hình.
Thứ hai, về chế độ trách nhiệm của mỗi loại thành viên trong CTHD.
CTHD có thể có hai thành viên là TVHD và TVGV, hai loại thành viên này
hưởng hai chế độ trách nhiệm khác nhau. TVHD là nòng cốt của CTHD, đại
diện cho bản chất đối nhân của CTHD, tham gia quản lý và điều hành công ty.
Chính vì vậy, pháp luật của hầu hết các quốc gia quy định cho các TVHD một
chế độ chịu trách nhiệm hết sức khắt khe. Đó là chế độ trách nhiệm vô hạn và
liên đới đối với mọi khoản nợ và mọi nghĩa vụ tài sản khác của công ty. Ngược
lại với TVHD, thì TVGV chỉ đóng vai trò là trợ lực của công ty, không tham
gia quản lý, điều hành công ty, nên pháp luật của các quốc gia chỉ quy định
TVGV được hưởng chế độ TNHH trong phạm vi phần vốn góp vào công ty.
Như vậy, trong CTHD, có thể tồn tại song song hai chế độ trách nhiệm tương
ứng với mỗi loại thành viên. Đây là một đặc điểm lớn của CTHD đồng thời
cũng là đặc điểm để phân biệt CTHD với các loại hình công ty khác. Đối với
các loại hình công ty khác, dù có nhiều loại thành viên thì chế độ trách nhiệm

vẫn nhất quán. Tức là chỉ có một chế độ trách nhiệm duy nhất trong công ty,
như công ty cổ phần, công ty TNHH tất cả các thành viên đều chịu TNHH.
Công ty cổ phần là công ty có nhiều thành viên và có thể tồn tại nhiều loại
4

Nguyễn Thị Huế (2012), Pháp luật về công ty hợp danh, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã
hội, tr.25.


10

thành viên như thành viên quản lý và thành viên không có quyền quản lý công
ty (nắm giữ cổ phiếu ưu đãi ở một số lĩnh vực khác). Tuy nhiên, chỉ có môt loại
trách nhiệm chung đối với tất cả các thành viên này là TNHH5.
Thứ ba, tên gọi của CTHD. Doanh nghiệp muốn đi vào hoạt động kinh
doanh cần thiết phải có một cái tên theo quy định của pháp luật. Điều này có ý
nghĩa rất lớn đối với các doanh nghiệp. Nó dùng để phân biệt các doanh
nghiệp này với doanh nghiệp khác, tránh mọi sự nhầm lẫn dẫn đến những
thiệt hại không đáng có cho khách hàng và chính bản thân công ty. CTHD
cũng không phải là một ngoại lệ. Muốn đi vào hoạt động, CTHD cũng cần có
một cái tên. Tuy nhiên, với CTHD, yếu tố “danh” đặc biệt quan trọng. Thông
thường tên của CTHD được đặt sao cho cái tên đó liên quan đến nhiều nhất
các TVHD của CTHD. Đặc biệt tên của TVGV không được ghi vào tên của
công ty. Quy định này nhằm tránh sự nhầm lẫn của người thứ ba đến giao
dịch với CTHD khi họ lầm tưởng TVGV có tên đó là thành viên chịu trách
nhiệm vô hạn6.
Thứ tư, tư cách pháp nhân. Hiện có hai quan điểm liên quan đến vấn đề
này. Một số quốc gia cho rằng, CTHD có tư cách pháp nhân với mục đích
đảm bảo sự bình đẳng giữa CTHD với các loại hình công ty khác, nâng cao
quyền lợi của công ty. Một số quốc gia lại cho rằng CTHD không có tư cách

pháp nhân. Quan điểm này được lý giải như sau: Điều quan trọng nhất của
một pháp nhân là sự độc lập về tài sản, tài sản của pháp nhân phải độc lập với
tài sản của thành viên tạo nên pháp nhân đó. Bằng khối tài sản độc lập của
mình, pháp nhân phải chịu trách nhiệm tuyệt đối với mọi khoản nợ và nghĩa
vụ tài sản khác do mình xác lập và thực hiện. Thành viên của pháp nhân
không phải trả nợ thay cho pháp nhân. Trong CTHD, TVHD chịu trách nhiệm
vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi khoản nợ và những nghĩa vụ tài
sản khác của CTHD. Như vậy, không có sự tách bạch giữa tài sản của CTHD
5

Nguyễn Thị Thùy Giang (2012), Pháp luật Việt Nam về công ty hợp danh, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại
học Quốc gia Hà Nội, tr.15.
6
Tlđđ, tr.15.


11

và các TVHD. Cũng chính vì lí do này mà CTHD không có khả năng chịu
trách nhiệm độc lập và trách nhiệm của CTHD luôn luôn gắn liền với trách
nhiệm của TVHD. Vì vậy, quan điểm cho rằng CTHD không có tư cách pháp
nhân không phải là không hợp lý. Thực tế, dù có tư cách pháp nhân hay
không thì CTHD vẫn là một chủ thể kinh doanh với những quyền và nghĩa vụ
như mọi chủ thể kinh doanh độc lập khác.
Tóm lại, mặc dù được định nghĩa khác nhau ở mỗi quốc gia nhưng
CTHD vẫn mang những được điểm pháp lý cơ bản nêu trên. Ở một mức độ
nhất định những đặc điểm này thể hiện bản chất đối nhân của CTHD và cho
phép phân biệt CTHD với các loại hình công ty khác.
1.1.3. Các loại công ty hợp danh
Về bản chất, có thể chia CTHD ra làm 2 loại. Đó là CTHD thông

thường và CTHD hữu hạn.
- CTHD thông thường. Đây là CTHD truyền thống, mang bản chất đối
nhân tuyệt đối. Sự liên kết trong CTHD chỉ dựa vào một yếu tố duy nhất là là
yếu tố nhân thân. CTHD thông thường chỉ có các TVHD mà không có TVGV.
Các TVHD chia sẻ quyền quản lý công ty, chịu trách nhiệm vô hạn liên đới đối
với mọi khoản nợ của CTHD. Trách nhiệm vô hạn trong CTHD thông thường
áp dụng với mọi thành viên công ty và không có ngoại lệ. Các TVHD không
thể thỏa thuận cho một hay một số thành viên nào đó được hưởng chế độ
TNHH. Một thỏa thuận như thế sẽ làm thay đổi bản chất của CTHD và nó sẽ
không còn là CTHD thông thường nữa mà đã trở thành CTHD hữu hạn. Các
thành viên chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn với mọi khoản nợ của CTHD
ngay từ khi trở thành thành viên của CTHD. Tuy nhiên, việc một thành viên
nào đó ra khỏi công ty chưa hẳn đã là kết thúc sự liên đới về trách nhiệm giữa
thành viên này với CTHD. Mỗi quốc gia khác nhau cũng có những quy định
khác nhau về vấn đề này. Một số nước đưa ra những con số cụ thể về thời gian
như năm năm hay mười năm,….để ràng buộc trách nhiệm giữa TVHD với
CTHD; một số quốc gia khác lại yêu cầu TVHD phải có trách nhiệm đối với


12

những hợp đồng thương vụ mà CTHD đã thiết lập trước thời điểm thành viên
đó không còn tư cách là thành viên của CTHD này7.
Vấn đề nhân sự trong CTHD thông thường được đặc biệt lưu ý. Một sự
thay đổi về nhân sự bất kỳ trong CTHD thông thường cũng có thể được coi là
điều kiện giải thể công ty. Điều này cũng bắt nguồn từ bản chất đối nhân tuyệt
đối của CTHD thông thường.
Trong CTHD thông thường, quyền quản lý của các thành viên công ty
là ngang nhau. Các TVHD có thể cử một người trong số các TVHD hoặc thuê
người khác đảm nhận chức danh quản lý CTHD (Giám đốc hay Tổng giám

đốc). Không giống với các loại hình doanh nghiệp, công ty khác, người quản
lý của CTHD thông thường chỉ có quyền điều hành CTHD theo những
phương hướng, kế hoạch có sẵn mà không được tự ý quyết định bất cứ vấn đề
gì. Vấn đề người quản lý CTHD có phải là đại diện cho CTHD trước Tòa án
hay không cũng phụ thuộc vào quan điểm của từng quốc gia.
- CTHD hữu hạn. Các quốc gia cũng đưa ra những định nghĩa khác nhau
đối với loạt CTHD này. Dù pháp luật các quốc gia có ghi nhận như thế nào đi
nữa thì tất cả các CTHD hữu hạn đều có một bản chất, một đặc điểm pháp lý
chung. Đó là CTHD hữu hạn có hai loại thành viên: TVHD chịu trách nhiệm vô
hạn và TVGV chịu TNHH. Chính cơ cấu thành viên này đã lý giải cho tên gọi
của loại CTHD hữu hạn. Rõ ràng trong loại hình CTHD hữu hạn có sự “hợp
danh” của các thành viên chịu trách nhiệm vô hạn. Bên cạnh đó, sự hợp vốn
mang lại chế độ TNHH cho TVGV cũng xuất hiện, tồn tại trong công ty này8.
Khác với CTHD thông thường, trong CTHD hữu hạn, các TVHD
(thành viên chịu trách nhiệm vô hạn) có quyền quản lý công công ty, còn các
TVGV thì không có quyền quản lý công ty. Các TVGV chỉ chịu TNHH trong
phạm vi phần vốn góp và không có quyền quản lý CTHD nên pháp luật của
hầu hết các quốc gia đều không cấm hay hạn chế việc chuyển nhượng phần
7
8

Tlđđ, tr.16.
Tlđđ, tr.16.


13

vốn của TVGV. Ngoài những điểm đã nêu trên, các vấn đề khác của CTHD
hữu hạn đều giống với CTHD thông thường9.
1.2. Khái quát về địa vị pháp lý của công ty hợp danh

1.2.1. Địa vị pháp lý và vấn đề tiếp cận địa vị pháp lý
Theo cách hiểu truyền thống thì địa vị pháp lý của doanh nghiệp, công
ty nói chung và CTHD nói riêng là tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý
của doanh nghiệp, công ty đó được pháp luật ghi nhận, đảm bảo sự độc lập về
mặt pháp lý và khả năng tham gia các quan hệ pháp luật, trước hết là quan hệ
luật kinh tế và từ đó có thể phân biệt với chủ thể kinh doanh khác.
Một doanh nghiệp không chỉ tham gia các quan hệ pháp luật kinh tế,
các quan hệ kinh doanh mà có thể đồng thời tham gia nhiều quan hệ khác
như: Quan hệ dân sự, hành chính, lao động,… Khi xem xét địa vi pháp lý của
một doanh nghiệp, công ty với tính chất tổng thể là các quyền và nghĩa vụ
pháp lý của một doanh nghiệp, công ty, trong khoa học pháp lý đã có lúc có
quan niệm xem xét vấn đề theo phương diện khái niệm thẩm quyền, bao gồm
những quyền và nghĩa vụ trong nhiều lĩnh vực và phương diện tồn tại, hoạt
động của doanh nghiệp10. Trong đó, thẩm quyền trong lĩnh vực kinh tế, kinh
doanh được coi là một nội dung chủ yếu trong hệ thống thẩm quyền của
doanh nghiệp, công ty, với lý do doanh nghiệp đó là tổ chức kinh tế, được
đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các
hoạt động kinh doanh.
Thẩm quyền kinh tế của doanh nghiệp, công ty bao gồm các quyền và
nghĩa vụ của nó trong quá trình tổ chức và thực hiện các hoạt động kinh
doanh. Đối với các loại hình doanh nghiệp, công ty khác nhau thì hệ thống
thẩm quyền này cũng có những điểm khác nhau. Cũng chính vì vậy, đối với

9

Tlđđ, tr.17.
Phạm Ngọc Ánh (2010), Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp tư nhân, Nxb. Lao động., Hà Nội, tr.12.

10



14

mỗi loại hình doanh nghiệp, công ty pháp luật đều dành cho chung những quy
chế pháp lý riêng11.
Ngoài ra, khi nghiên cứu địa vị pháp lý của một doanh nghiệp, công ty
độc lập, từ trước đến nay, trong khoa học pháp lý vẫn thường đề cập đến khái
niệm pháp nhân (hay tư cách pháp nhân). Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay thì
tư cách pháp nhân và tư cách chủ thể pháp lý không phải là hai phạm trù đồng
nhất nhau.
Trước đây, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, khi mà pháp luật
kinh tế chỉ điều chỉnh các quan hệ và hoạt động kinh tế của doanh nghiệp nhà
nước và hợp tác xã, thì vấn đề pháp nhân hay tư cách pháp nhân của những chủ
thể này cũng không được quan tâm nhiều, tuy nhiên khi những loại hình chủ
thể kinh doanh mới như CTHD, công ty TNHH, công ty cổ phần xuất hiện thì
vấn đề tư cách pháp nhân đã được đặt ra và xem xét một cách cụ thể hơn. Nội
dung khái niệm pháp nhân theo quan niệm của pháp luật dân sự truyền thống
đã trở nên quá chật hẹp đối với các loại hình doanh nghiệp, công ty trong nền
kinh tế thị trường. Hơn thế nữa, từ hệ thống pháp luật hiện hành về các doanh
nghiệp, công ty ở nước CHDCND Lào và nước CHXHCN Việt Nam cho phép
khẳng định: Bên cạnh những chủ thể kinh doanh là pháp nhân còn có sự tồn tại
của những doanh nghiệp tuy không phải là pháp nhân, nhưng chúng vẫn là
những thực thể pháp lý có tư cách pháp lý độc lập, tham gia vào các quan hệ
kinh tế và các quan hệ pháp luật, đó chính là doanh nghiệp tư nhân.
Hơn nữa, khi xác định địa vị pháp lý của doanh nghiệp, công ty, chúng
ta phải gắn chúng với sự phát triển của các mô hình kinh tế, cơ chế kinh tế mà
trong khuôn khổ đó các doanh nghiệp, công ty tồn tại và phát triển. Như vậy,
có thể thấy nội hàm địa vị pháp lý cùa doanh nghiệp, công ty được phản ánh
và thể hiện ở những phương diện sau:
Thứ nhất, tổng hợp các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của doanh

nghiệp, công ty được pháp luật quy định phù hợp với vị trí, vai trò và chức
11

Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo Luật Kinh tế, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.17.


15

năng của doanh nghiệp, công ty và những quyền hạn, nghĩa vụ mà doanh
nghiệp đảm nhận trên cơ sở những quy định pháp luật khi doanh nghiệp, công
ty tham gia vào các quan hệ pháp luật trong quá trình hoạt động.
Những quyền và nghĩa nghĩa vụ này được quy định trong hệ thống các
văn bản như: Các văn bản chung về quyền và nghĩa vụ cho mọi doanh nghiệp,
công ty trong hoạt động kinh tế - xã hội (luật về thuế, luật về lao động, luật
hải quan, các quy định về bảo hiểm, xuất nhập khẩu,...); Các văn bản quy định
cụ thể về tổ chức và hoạt động đối với các loại hình doanh nghiệp được quy
định trong hệ thống LDN (luật công ty); Các quyết định thành lập, Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh (Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp).
1.2.2. Khái niệm địa vị pháp lý của công ty hợp danh
Địa vị pháp lý của CTHD là một chế định quan trọng trong pháp luật
kinh doanh của tất cả các quốc gia, trong đó có nước CHDCND Lào và nước
CHXHCN Việt Nam. Khi nghiên cứu địa vị pháp lý của CTHD, vấn đề đầu
tiên cần làm sáng tỏ là định nghĩa và các đặc điểm pháp lý của CTHD.
Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học, địa vi pháp lý của doanh
nghiệp, công ty là tổng thể các quyền và trách nhiệm mà pháp luật quy định cho
doanh nghiệp, công ty với tư cách là chủ thể kinh doanh, tạo cho doanh nghiệp,
công ty khả năng tham gia vào các quan hệ kinh tế một cách độc lập12.
Từ các lý giải trên, ở mức độ khái quát nhất, địa vị pháp lý của CTHD
là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về vấn đề thành lập, giải thể
CTHD; quy định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của CTHD trong nền kinh

tế. Nội dung cơ bản trong chế định về địa vị pháp lý của CTHD là tổng hợp
các quyền và nghĩa vụ CTHD. Các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của
CTHD không chỉ được tìm thấy Trong LDN năm 2013 của nước CHDCND
Lào và LDN năm 2014 của Việt Nam, mà còn được tìm thấy trong rất nhiều
các văn bản có liên quan.

12

Tập thể tác giả (2000), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học , Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2000.


16

1.2.3. Nội dung địa vị pháp lý của công ty hợp danh
Khi xác định địa vị pháp lý cho doanh nghiệp, công ty nói chung và
CTHD nói riêng, bên cạnh việc tìm hiểu về khái niệm của CTHD với tính
chất là một chủ thể kinh doanh, thì về cơ bản cần làm rõ các nội dung sau:
Thứ nhất, việc thành lập CTHD. CTHD muốn tham gia vào các quan
hệ kinh tế, muốn tiến hành các hoạt động kinh doanh trước tiên phải được
pháp luật thừa nhận sự ra đời hợp pháp. Quy chế thành lập và đăng ký kinh
doanh chính là thước đo cho sự ra đời hợp pháp của CTHD. Cho nên xác định
địa vị pháp lý của CTHD không thể không xác định quy chế thành lập và
đăng ký kinh doanh của CTHD.
Thứ hai, cơ cấu, tổ chức và quản lý CTHD. Việc tổ chức và điều hành
CTHD được thực hiện thông qua các cơ quan của nó. Cơ cấu tổ chức và quản
lý CTHD ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của CTHD. Do vậy, xác định địa
vị pháp lý của CTHD không thể không tìm hiểu về cơ cấu tổ chức và quản lý
CTHD.
Thứ ba, quyền và nghĩa vụ của CTHD. Quyền và nghĩa vụ của CTHD
là sự thể hiện năng lực pháp lý và năng lực hành vi của CTHD. Công ty là chủ

thể kinh doanh có tư cách pháp nhân, có đầy đủ quyền và nghĩa vụ để tham
gia vào các quan hệ pháp luật. Trong quá trình hoạt động CTHD tự tạo cho
mình những quyền và nghĩa vụ thông qua các hành vi pháp lý, đồng thời giảm
gánh chịu những hậu quả pháp lý do hành vi của mình gây ra. Việc xác định
một cách cụ thể các quyền và nghĩa vụ của CTHD, của thành viên CTHD là
điều cần thiết khi xác định địa vị pháp lý của CTHD.
Thứ tư, tổ chức lại, giải thể CTHD. Để bảo vệ quyền lợi của các chủ thể
khác tham gia quan hệ với CTHD, pháp luật không chỉ thừa nhận sự ra đời của
CTHD mà còn có những quy định về việc chấm dứt sự tồn tại của CTHD trên
thương trường cũng như tổ chức lại công ty, chấm dứt tư cách chủ thể của công ty
hoặc thay đổi hình thức của CTHD. Trước khi tư cách chủ thể của CTHD bị chấm
dứt, thay đổi thì tất cả các vấn đề liên quan đến công ty phải được pháp luật giải


17

quyết theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ. Vì vậy, khi xác định địa vị pháp lý của
CTHD không thể thiếu chế định tổ chức lại, giải thể, phá sản CTHD13.
1.2.4. Các yếu tố chi phối đến việc xác định địa vị pháp lý của công ty
hợp danh
Nghiên cứu các yếu tố chi phối đến việc xác định địa vị pháp lý của
CTHD là cần thiết, bởi yếu tố chi phối có mối quan hệ biện chứng với địa vị
pháp lý của CTHD, chúng có sự tác động qua lại với nhau. Từ đó có hướng
điều chỉnh sao cho tác động của các yếu tố chi phối đó ở mức độ hợp lý, tạo
đà cho CTHD phát triển.
Các yếu tố tác động đến địa vị pháp lý của CTHD có thể chia thành ba
nhóm sau:
- Nhóm thứ nhất: Vai trò của CTHD trong nền kinh tế. Là một trong
trong những loại hình công ty xuất hiện sớm nhất trong lịch sử và cho đến
ngày nay vẫn tiếp tục phát triển về số lượng, điều này cho thấy vai trò vô

cùng quan trọng của CTHD trong nền kinh tế. Bên cạnh vai trò chung như các
loại hình doanh nghiệp khác, CTHD còn có vai trò riêng khiến cho nó không
thể thiếu được trong nền kinh tế.
Trước hết, sự ra đời của CTHD đáp ứng được nhu cầu của những nhà
đầu tư nhỏ, mong muốn cùng liên kết, chia sẻ với những người quen thân, anh
em họ hàng trong gia đình, dòng tộc, đồng nghiệp. Có rất nhiều lý do khiến
những nhà đầu tư thích tìm kiếm người hợp tác với mình là những người họ
đã quen biết từ trước hoặc những người có uy tín nghề nghiệp. Bên cạnh đó
nó cũng đáp ứng nhu cầu liên kết giữa các tập đoàn, công ty bằng cách tạo ra
chi nhánh hoặc công ty con14.
CTHD ra đời cũng đáp ứng được nhu cầu kinh doanh các dịch vụ như
khám chữa bệnh, tư vấn thiết kế công trình xây dựng, kiểm toán, tư vấn
13

Beng Sayachit (2016), Địa vị pháp lý của công ty trách nhiệm hữu hạn theo pháp luật Lào và Việt Nam
dưới góc độ so sánh, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.20.
14
Hoàng Yến (2013), Địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.23.


18

luật,…những ngành nghề đòi phải có tính nghiêm túc và trách nhiệm cao của
những người hành nghề. Sự đòi hỏi của pháp luật đối với tư cách pháp lý của các
thành viên sẽ khiến cho người tiêu dùng yên tâm hơn về những dịch vụ mà họ
chỉ có thể đánh giá ban đầu bằng cảm tính, bằng sự cam kết của người hành
nghề. Các loại hình công ty khác như công ty cổ phần, công ty TNHH hay doanh
nghiệp tư nhân không phải là sự lựa chọn thích hợp cho những ngành nghề trên.
CTHD cũng có vai trò quan trọng trong việc làm phong phú thêm kênh

huy động vốn cho nền kinh tế, thêm sự lựa chọn cho các nhà đầu tư, những
người giỏi về kiến thức, trình độ quản lý, kinh nghiệm kinh doanh nhưng
không có vốn và những người có vốn nhưng không giỏi kinh doanh. CTHD là
sự kết hợp hoàn hảo của hai nhóm đối tượng trên, tạo ra sự tương hỗ lẫn nhau
trong việc phát triển kinh tế cua CTHD nói chung và từng thành viên trong
CTHD nói riêng15.
Như vậy, với vai trò rất lớn của mình đối với nền kinh tế nên CTHD cần
phải được mở rộng địa vị pháp lý để phát huy vai trò của mình. Chính yếu tố này
đã chi phối đến sự ghi nhận và mở rộng địa vị pháp lý của CTHD trong pháp
luật các quốc gia, trong đó có pháp luật của nước CHDCND Lào và Việt Nam.
- Nhóm thứ hai: Sự ảnh hưởng của chế độ chính trị - kinh tế. Thực tiễn ở
nhiều quốc gia cho thấy, sự phát triển của kinh tế tư nhân trong đó có sự đóng
góp của loại hình CTHD đã đóng góp không ít những thành tựu về phát triển
kinh tế - xã hội cho các quốc gia như huy động được nhiều nguồn vốn khác
nhau vào sản xuất kinh doanh, góp phần nâng cao sức sản xuất cho xã hội, tạo
thêm nhiều việc làm mới vừa tăng của cải vật chất cho xã hội, vừa giảm áp lực
giải quyết việc làm cho người lao động, thúc đẩy sự hình thành và phát triển
của các loại thị trường, làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong
nước, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, vừa góp phần tạo nên tốc độ tăng trưởng cao, vừa
15

Nguyễn Thị Thùy Giang (2012), Pháp luật Việt Nam về công ty hợp danh, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại
học Quốc gia Hà Nội, tr.22.


19

tham gia giải quyết các vấn đề xã hội,…đã thể hiện rõ định hướng đúng đắn
của Nhà nước đó trong việc xây dựng phát triển nền kinh tế xã hội16.

Để có được những thành tựu trên về phát triển kinh tế nói chung và
khẳng định vai trò của các thành phần kinh tế tư nhân, trong đó có loại hình
CTHD thì cần phải có một đường lối, chủ trương và một nền tảng kinh tế phù
hợp. Chính vì lẽ đó, mà chế độ kinh tế - xã hội ảnh hưởng, chi phối rất nhiều
đến sự phát triển hay không phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, trong đó
có loại hình CTHD. Điều này được thể hiện rõ nét nhất ở nước CHDCND
Lào và nước CHXHCN Việt Nam.
Ở nước CHDCND Lào, bắt đầu từ Đại hội lần thứ V (năm 1991) của
Đảng Nhân dân cách mạng Lào, một quá trình đổi mới về chính trị, kinh tế, xã
hội đã được vạch ra và minh chứng rõ nét nhất cho tư tưởng đổi mới về kinh
tế đó là Hiến pháp năm 1991 đã được ban hành với việc thừa nhận nhiều
thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển, trong đó có kinh tế tư nhân,
nhưng kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể vẫn giữ vai trò chủ đạo. Như vậy,
chính sự thay đổi về tư duy chính trị - kinh tế này đã tạo tiền đề quan trọng
cho các loại hình doanh nghiệp, trong đó có CTHD phát triển và việc coi
trọng các loại hình doanh nghiệp, trong đó có CTHD sẽ là tiền đề để ghi nhận
và mở rộng địa vị pháp lý của CTHD nói riêng và các loại hình doanh nghiệp
tư nhân nói chung ở nước CHDCND Lào17.
Ở nước CHXHCN Việt Nam cũng vậy, Đại hội lần thứ VI (1986) của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh dấu quá trình chuyển đổi nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Đường lối phát triển nền kinh
tế thị trường của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã được ghi nhận trong Hiến
pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã tạo điều kiện tiền đề cho kinh
tế tư nhân phát triển, trong đó có loại hình CTHD. Chính những sự thay đổi
về tư duy chính trị - kinh tế này đã tạo điều kiện tiền đề cho ghi nhận và mở
16

Soulasin Xayvongsa (2015), Hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.18.
17

Tlđđ, tr.19.


20

rộng địa vị pháp lý của CTHD nói riêng và các loại hình doanh nghiệp tư
nhân nói chung ở nước CHXHCN Việt Nam.
- Nhóm yếu tố thứ ba: Sự ảnh hưởng của các yếu tố thuộc cơ chế quản
lý nhà nước. Địa vị pháp lý của doanh nghiệp, công ty nói chung và CTHD
nói riêng, đều chịu sự tác động và chi phối về phương diện quản lý từ Nhà
nước. Xu hướng chung trong các nền kinh tế thị trường đều khẳng định vai trò
quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp, công ty. Pháp luật được Nhà
nước ban hành để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp,
công ty. Bên cạnh đó, Nhà nước còn nâng cao hiệu quả của các cơ chế giám
sát hoạt động của các doanh nghiệp sau ký đăng ký kinh doanh (đăng ký
doanh nghiệp - ĐKDN) nhằm đảm bảo yêu cầu tiếp tục hoàn thiện và nâng
cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, công ty theo nguyên tắc
minh bạch, công khai.
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới tư duy kinh tế, đẩy mạnh cải cách hành
chính trong lĩnh vực quản lý kinh tế, LDN và các văn bản hướng dẫn thi hành
của nước CHDCND Lào và Việt Nam đều khẳng định sự cần thiết của quản lý
nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp, công ty, trong đó có CTHD. Tất cả
đều thể hiện đây là một công cụ cơ bản và quan trọng trong nội dung và phương
pháp quản lý, vừa đạt được mục đích quản lý, vừa tạo thuận lợi cho doanh
nghiệp, công ty trong kinh doanh.
Vấn đề đặt ra trong thời gian tới không phải là xóa bỏ sự ưu đãi của
Nhà nước đối với doanh nghiệp, công ty mà chọn cách thức ưu đãi như thế
nào để không có sự phân biệt đối xử theo theo thành phần kinh tế ở nước
CHDCND Lào và Việt Nam như bấy lâu nay.
Tóm lại, sự hình thành và phát triển địa vị pháp lý của CTHD là một

quá trình. Đó là quá trình thừa nhận, thay đổi và hoàn thiện quan niệm về
CTHD, về vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của nó trong nền kinh tế.


×