Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.72 MB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------------

NGUYỄN THỊ NGUYÊN

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA CÁC VỤ ÁN VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật tố tụng hình sự
Mã số

: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Văn Huyên

Hà Nội – 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập
của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của
Luận văn này.


TÁC GIẢ

Nguyễn Thị Nguyên


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

ĐTV

: Điều tra viên

KSV

: Kiểm sát viên

TTHS

: Tố tụng hình sự


THQCT

: Thực hành quyền công tố

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN
Trang
Bảng 1: Tổng số vụ án, bị can tội trộm cắp tài sản VKSND tỉnh Nam
định đã thụ lý kiểm sát điều tra việc khởi tố giai đoạn 2012 – 2016.

46

Bảng 2: Tỷ lệ các vụ án về tội trộm cắp tài sản so với tổng số các

47

vụ án nói chung trên địa bàn tỉnh Nam Định mà VKS đã thụ lý,
kiểm sát điều tra từ năm 2012 – 2016.
Bảng 3: Số liệu về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn tạm giam

52


trong các tội trộm cắp tài sản giai đoạn 2012 – 2016.
Bảng 4: Số vụ án, bị can tội trộm cắp tài sản đình chỉ, tạm đình chỉ
giai đoạn 2012 – 2016.

53


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1.MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN TRỘM CẮP
TÀI SẢN........................................................................................................... 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các
vụ án trộm cắp tài sản........................................................................................ 8
1.2. Đặc điểm của hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
tra các vụ án trộm cắp tài sản .......................................................................... 20
1.3. Nội dung của thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án
trộm cắp tài sản. .............................................................................................. 23
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM
2003, NĂM 2015 VÀ THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN ÐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN TRỘM CẮP TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH........................................................... 30
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, năm 2015 về thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự............................... 30
2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án
trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định. ................................................. 44
2.2.1. Những kết quả đạt được trong công tác thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra các vụ án trộm cắp tài sản của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Nam Định ........................................................................................................ 45

2.2.2. Những hạn chế trong thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
đối với các vụ án về tội trộm cắp tài sản của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam
Định và nguyên nhân của hạn chế .................................................................. 55


Chương 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH
......................................................................................................................... 66
3.1. Yêu cầu..................................................................................................... 66
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra các vụ án trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định ..................... 68
3.2.1. Giải pháp về pháp luật........................................................................... 68
3.2.2. Những giải pháp khác ........................................................................... 72
KẾT LUẬN .................................................................................................... 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay đã và
đang đem lại sự chuyển biến tích cực trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội tại Việt Nam. Bên cạnh những mặt tích cực, nền kinh tế thị trường
cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó có tình hình tội phạm
diễn biến ngày càng phức tạp. Các vụ án xảy ra nhiều với mức độ nghiêm
trọng và tính chất ngày càng nguy hiểm. Đấu tranh phòng chống tội phạm, ổn
định trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là nhiệm
vụ của Nhà nước.

Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam hiện hành, Viện
kiểm sát nhân dân là cơ quan duy nhất có chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Công tác thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật sẽ giúp
cho việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can được đúng người đúng tội, hoạt động
điều tra được đầy đủ, chính xác và kịp thời, tạo tiền đề cho công tác truy tố và
xét xử đảm bảo đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, tránh làm oan người
vô tội hay bỏ lọt tội phạm.
Trước những yêu cầu của tình hình mới, Viện kiểm sát nhân dân cần
tiếp tục thực hiện đổi mới toàn diện cả về tổ chức và hoạt động thì mới hoàn
thành được nhiệm vụ của mình. Việc đổi mới của VKSND đã được Nghị
quyết số 08- NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới xác định: “Viện kiểm sát
các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi
khởi tố vụ án trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm
của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ…”


2

Với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý… Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (khoá
X) về chiến lược cải cách đến năm 2020 đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế
của các cơ quan tư pháp trong đó có Viện kiểm sát nhân dân : “Tổ chức bộ
máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất
hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu, trình độ nghiệp vụ
và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán

bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình
trạng oan, sai trong điều tra, bắt giam giữ, truy tố xét xử. Cơ sở vật chất,
phương tiện làm việc của các cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu…”
Trong hơn ba mươi năm đổi mới, tỉnh Nam Định đã có bước phát triển
mạnh về nhiều mặt, kinh tế tăng trưởng, đời sống các tầng lớp nhân dân
không ngừng được cải thiện, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Tuy nhiên,
không nằm ngoài ảnh hưởng tác động tiêu cực của phát triển kinh tế thị
trường, địa bàn rộng, dân số đông, tốc độ đô thị hóa nhanh đã làm cho Nam
Định gặp không ít khó khăn trong quản lý xã hội, tệ nạn xã hội và tội phạm,
trong đó có vấn đề đấu tranh phòng và chống tội phạm nói chung, phòng
chống tội phạm xâm phạm sở hữu nói riêng, đặc biệt là tội trộm cắp tài sản
chiếm tỷ lệ lớn và đang có chiều hướng gia tăng. Loại tội phạm này đã và
đang diễn biến phức tạp với tính chất, thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn gây
không ít khó khăn cho công tác điều tra, giải quyết vụ án.
Công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về
tội trộm cắp tài sản của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Nam Định trong những
năm gần đây đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần không nhỏ vào
công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm và tội phạm. Tuy nhiên, qua tổng
kết thực tiễn cho thấy công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra các vụ án về tội trộm cắp tài sản của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Nam
Định còn bộc lộ nhiều hạn chế như: Hoạt động thực hành quyền công tố chưa


3

được thực hiện ngay từ giai đoạn đầu của vụ án, Kiểm sát viên thiếu chủ động
trong việc đề ra yêu cầu điều tra, chưa thường xuyên trao đổi nắm bắt thông
tin về hoạt động điều tra nên còn bị động trong quá trình giải quyết vụ án, kỹ
năng thực hành quyền công tố của nhiều kiểm sát viên còn hạn chế… Điều
này dẫn đến nhiều vụ án bị kéo dài, phải gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn

tạm giam, còn bỏ lọt tội phạm…Những tồn tại nêu trên xuất phát từ nhiều
nguyên nhân khác nhau, tuy nhiên nguyên nhân cơ bản là do nhận thức pháp
luật và áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản
của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát còn chưa thống nhất. Thực tiễn hoạt
động Thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra các
vụ án hình sự nói chung và các vụ án trộm cắp tài sản nói riêng chưa được
quan tâm, nghiên cứu, tổng kết thường xuyên.
Với mong muốn góp phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận và
thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ
án về tội trộm cắp tài sản, đồng thời đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất
lượng của hoạt động này trong xu hướng cải cách tư pháp, tác giả chọn đề tài
"Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về tội trộm
cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định" làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động Thực hành quyền công tố là một chức năng quan trọng của
Viện kiểm sát nhân dân, cho nên thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra là chủ đề đã được nhiều học giả nghiên cứu dưới góc độ lý luận và từ
nhiều phương diện khác nhau, trong đó phải kể đến một số công trình điển
hình như sau:
- Lê Cảm (2001), "Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố",
Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và
việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Hà Nội.


4

- Lê Hữu Thể (Chủ biên) (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Nguyễn Hải Phong (Chủ biên) (2014) Một số vấn đề về tăng cường

trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều
tra theo yêu cầu cải cách tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Trịnh Duy Tám (2005), áp dụng pháp luật trong thực hành quyền
công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt nam hiện nay,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
- Hà Thị Minh Hạnh (2011), Chất lượng thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra các vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp của Viện
kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Hà Nội.
- Bùi Mạnh Cường (2012), Gắn công tố với hoạt động điều tra trong
tố tụng hình sự theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
- Nguyễn Ngọc Ánh (2016) “Thực hành quyền công tố và Kiểm sát
điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu trên địa bàn thành phố Hà Nội”, Luận
văn thạc sỹ Luật học, Hà Nội.
- Nguyễn Công Cường (2016) “Thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự”, Luận văn thạc sỹ Luật học, Hà Nội.
Bên cạnh đó còn có các bài viết của nhiều tác giả khác với các ý kiến,
quan điểm khác nhau được đăng tải trên các báo, tạp chí như: Tổ chức bộ máy
và chức năng, nhiệm vụ của Viện Kiểm sát trong tiến trình cải cách tư pháp
của tác giả Lê Hữu Thể, Tạp chí Kiểm sát số 14 – 16, 2008; Bàn về mô hình
Viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp của tác giả Lại Hợp Việt, Tạp
chí Kiểm sát số 14 – 16, 2008; Thể chế chủ trương “Tăng cường trách nhiệm


5

của công tố trong hoạt động điều tra” trong Bộ luật tố tụng hình sự của tác
giả Nguyễn Tiến Sơn, Tạp chí Kiểm sát số 09, 2015…
Mặc dù các công trình nghiên cứu các bài viết nêu trên đã đề cập các

góc độ khác nhau của hoạt động Thực hành quyền công tố các vụ án hình sự.
Tuy nhiên, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu hoạt động thực
hành công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về tội trộm cắp tài sản trên địa
bàn tỉnh Nam Định. Hơn nữa, Nam Định là một tỉnh mà tình hình tội phạm
trộm cắp tài sản diễn ra hết sức phức tạp, hoạt động ngày càng tinh vi, xảo
quyệt.... Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra các vụ án về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định" là
một đòi hỏi cấp thiết, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận, quy định của
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra các vụ án hình sự và hoạt động thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra các vụ án về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Nam
Định.
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu lý luận về thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra và thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
các vụ án về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hành quyền công
tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh
Nam Định trong 05 năm (2012 - 2016).
Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Nam Định
4. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
Luận văn nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn thực
hành quyền công tố các vụ án trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định.


6


Qua đó đưa ra một số đề xuất, phương hướng nâng cao chất lượng thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về tội trộm cắp tài sản theo
tinh thần cải cách tư pháp mà Nghị quyết số 49/NQ/TW của Bộ Chính trị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đề ra.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
+ Phân tích cơ sở lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra các vụ án về tội trộm cắp tài sản.
+ Phân tích quy định của pháp luật tố tụng hình sự năm 2005, năm
2015 và thực tiễn thực hành quyền công tố các vụ án trộm cắp tài sản trên địa
bàn tỉnh Nam Định, những khó khăn, vướng mắc gặp phải, nguyên nhân dẫn
đến tình trạng đó.
+ Yêu cầu và đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về thực
hành quyền công tố.
+ Đưa ra được những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra nói chung, chất lượng thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
tỉnh Nam Định
5.Các phương pháp nghiên cứu sử dụng để thực hiện luận văn.
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách tố tụng hình sự và hình sự, về vấn đề nâng
cao chất lượng thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp mà Nghị quyết
Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002,
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật tố tụng hình sự, khoa học
điều tra hình sự và các phương pháp, kỹ năng khác, như: phương pháp phân



7

tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch;
phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp
các tri thức khoa học luật tố tụng hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng
được nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa của khoa học và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa khoa học của luận văn.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ và phong phú
thêm lý luận về hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
các vụ án về tội trộm cắp tài sản.
- Ý nghĩa thực tiễn của luận văn.
Kết quả nghiên cứu của luận văn được sử dụng trong thực tiễn nhằm
góp phần giúp Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định cũng như Viện kiểm sát
nhân dân các địa phương trong cả nước nâng cao được chất lượng thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với các vụ án trộm cắp tài sản.
Đồng thời còn được sử dụng như một tài liệu tham khảo phục vụ cho việc
nghiên cứu giảng dạy và học tập tại các trường đào tạo luật và Trường Đại học
Kiểm sát.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra các vụ án trộm cắp tài sản.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự năm 2003, năm
2015 và thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án
về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng công tác thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về tội trộm cắp tài sản

trên địa bàn tỉnh Nam Định


8

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN TRỘM CẮP TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, đặc điểm thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra các vụ án trộm cắp tài sản.
- Quyền công tố
Quyền công tố và thực hành quyền công tố là những khái niệm được
nhắc đến nhiều trong luật tố tụng hình sự nước ta khi đề cập chức năng của
viện kiểm sát các cấp. Nhưng dưới góc độ lập pháp thì Hiến pháp 1980 là văn
bản pháp lý đầu tiên đưa ra thuật ngữ “Thực hành quyền công tố” khi đề cập
đến chức năng của VKSND (Điều 138). Thuật ngữ này được nhắc lại ở Điều
1 và Điều 3 Luật Tổ chức VKSND năm 1981. Như vậy, hoạt động của
VKSND bên cạnh khái niệm truyền thống “kiểm sát việc tuân theo pháp luật”
đã xuất hiện khái niệm “quyền công tố” và “Thực hành quyền công tố”. Từ đó
đến nay đã có nhiều tài liệu giảng dạy, nhiều bài viết trên các tạp chí khoa học
đề cập đến khái niệm này. Song cho đến nay vẫn chưa đạt được sự thống nhất
cao trên phương diện nhận thức về nó.
Xét về mặt thuật ngữ, “công tố” là một từ ghép Hán – Việt. Theo Đại
từ điển tiếng Việt thì “công” có nghĩa “thuộc về nhà nước chung, cho mọi
người, khác với tư” còn “tố” có nghĩa “nói công khai cho mọi người biết việc
làm sai trái, phạm pháp của người khác”; "công tố" có nghĩa là "điều tra, truy
tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Tòa án".1 Như vậy, theo từ
điển tiếng Việt thì công tố được hiểu với các nội dung khác nhau bao gồm:
Điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Tòa án.
Ở nước ta, trong thời gian qua đang tồn tại nhiều quan điểm khác nhau

về khái niệm thế nào là quyền công tố, có thể khái quát một số quan điểm sau:

1

Nguyễn Như Ý (2007), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.


9

Quan điểm thứ nhất: Cho rằng tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của VKS đều là quyền công tố. Những người theo quan điểm
này đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của VKSND. Họ cho rằng tất cả các hoạt động kiểm sát việc
tuân theo pháp luật đều là THQCT. Điều đó có nghĩa là ngay cả khi Viện kiểm
sát kiến nghị yêu cầu các cơ quan nhà nước sửa chữa những vi phạm của mình
trên lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội cũng là THQCT. Theo quan điểm này,
công tố không phải là một chức năng độc lập của VKS mà chỉ là một hình thức
thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS.2
Quan điểm thứ hai: Quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước
đưa các vụ việc vi phạm pháp luật nói chung ra trước Tòa án để xét xử nhằm
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật; ở Việt Nam, quyền này
được giao cho VKSND.3 Theo quan điểm này thì quyền công tố không chỉ có
trong lĩnh vực tố tụng hình sự (TTHS) mà còn có cả trong các lĩnh vực tố tụng
khác như dân sự, kinh tế và các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác.
Quan điểm thứ ba: Cho rằng quyền công tố chỉ tồn tại trong lĩnh vực
hình sự, là quyền của Nhà nước nhân danh công quyền truy tố kẻ phạm tội ra
trước Tòa án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
(duy trì quyền công tố); ở Việt Nam quyền này được Nhà nước giao cho
VKSND. Theo quan điểm này thì chỉ có duy nhất một chủ thể có quyền công
tố - đó là VKS; việc thực hiện quyền công tố chỉ diễn ra ở một lĩnh vực duy

nhất là Tố tụng hình sự (TTHS) và cũng chỉ có ở một giai đoạn duy nhất của
TTHS là giai đoạn xét xử sơ thẩm.4
2

Võ Quang Nhạn (1984), “Bàn về quyền công tố”, Tập san kiểm sát, (2)

3

Trần Văn Độ (1999), "Một số vấn về quyền công tố", Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ: Những vấn đề lý luận về quyền
công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà
Nội.

4

Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2002), "Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực hành quyền công tố ở Việt
Nam từ năm 1945 đến nay", Thông tin khoa học pháp lý, Số chuyên đề, (1)


10

Quan điểm thứ tư: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho các
cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội.5 Theo quan điểm này thì chủ thể thực hành quyền công tố
không chỉ có VKS mà còn có các cơ quan tiến hành tố tụng khác (Cơ quan
điều tra, Tòa án, Thi hành án) và như vậy quyền công tố có trong tất cả các
giai đoạn từ điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án.
Do các quan niệm khác nhau như trên về quyền công tố cho nên dẫn
đến cách lí giải khác nhau về phạm vi thời gian cũng như không gian của
quyền công tố. Về không gian, đa số các quan điểm cho rằng quyền công tố
chỉ có trong lĩnh vực duy nhất là TTHS nhưng cũng có quan điểm cho rằng

quyền công tố được thực hiện trong cả các lĩnh vực hoạt động tư pháp như
TTHS, tố tụng dân sự, kinh tế, lao động...Về thời điểm bắt đầu và kết thúc của
quyền công tố cũng chưa được nhận thức thống nhất. Ngay trong TTHS cũng
có người cho rằng quyền công tố có trong cả giai đoạn điều tra, truy tố, xét
xử; người khác lại cho rằng quyền công tố chỉ có trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm mà thôi...
Như vậy có thể thấy, về khái niệm quyền công tố có rất nhiều quan điểm
khác nhau. Mỗi quan điểm trong số đó đều có những hạt nhân hợp lý của nó.
Tuy vậy, xuất phát từ căn cứ khoa học, các quy định của pháp luật, thực tiễn hoạt
động của các cơ quan tư pháp kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của các cơ quan
tư pháp cũng như kinh nghiệm tổ chức và hoạt động công tố ở các nước khác
cho thấy các quan điểm nêu trên đã bộc lộ một số bất cập như:
+ Hoặc là thể hiện sự phụ thuộc của chức năng thực hành quyền công
tố vào kiểm sát việc tuân theo pháp luật của viện kiểm sát; coi thực hành
quyền công tố chỉ là hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo
5

Lê Thị Tuyết Hoa (2001), “Bàn về quyền công tố”, Nhà nước và pháp luật (10)


11

pháp luật trong TTHS. Vì vậy, dẫn đến xem nhẹ bản chất của quyền công tố
như là hoạt động độc lập của viện kiểm sát được nhà nước uỷ quyền;
+ Hoặc là đánh đồng thực hành quyền công tố với kiểm sát việc tuân
theo pháp luật. Vì vậy, dẫn đến mở rộng phạm vi quyền công tố sang cả các
lĩnh vực tư pháp khác như dân sự, kinh tế...
+ Hoặc là thu hẹp phạm vi quyền công tố, chỉ bó gọn quyền công tố
trong giai đoạn truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Từ đó hạn chế quyền
hạn cũng như trách nhiệm của viện kiểm sát như là cơ quan có trách nhiệm

chính trong truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Có thể thấy rằng, điểm hạn chế chung nhất của hầu hết các công trình
nghiên cứu về quyền công tố là không phân định rõ khái niệm, bản chất, nội
dung, phạm vi quyền công tố, hoạt động thực hành quyền công tố và hoạt
động kiểm sát tuân theo pháp luật. Đa số đều cho rằng hai chức năng của
VKS (Chức năng công tố và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật) như
pháp luật trước đây quy định vừa có tính độc lập tương đối, vừa liên hệ chặt
chẽ, tác động qua lại, bổ sung cho nhau, giữa chúng có những nội dung hòa
nhập với nhau, đan xen lẫn nhau không thể tách rời, tạo nên sự thống nhất
trong chức năng của VKS.
Dù muốn hay không, chúng ta không thể không thừa nhận Nhà nước
ra đời và tồn tại luôn luôn là đại diện chính thức cho xã hội (xét về mọi
phương diện). Trong xã hội có giai cấp, bất kể là xã hội nào, có nhiều loại
quan hệ còn tồn tại, nhưng chung quy lại có hai nhóm quan hệ xã hội cơ bản:
nhóm quan hệ xã hội thể hiện lợi ích công cộng và nhóm quan hệ xã hội thể
hiện lợi ích của từng công dân. Nhà nước nói chung luôn luôn có trách nhiệm
bảo vệ các quan hệ xã hội liên quan đến lợi ích chung, đến trật tự xã hội
chung và trừng trị những hành vi vi phạm các quan hệ xã hội này. Nhà nước
bảo vệ các quan hệ xã hội loại này bằng cách quy định phạm vi những hành vi


12

nguy hiểm cho xã hội là tội phạm và hình phạt với các tội phạm. Nhà nước
thông qua cơ quan chuyên môn của mình là VKS có quyền truy tố kẻ phạm
tội ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội trước phiên tòa. Quyền công tố là
quyền của VKS thay thế Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người có hành vi phạm tội. Quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực duy nhất đó
là lĩnh vực TTHS. Ở nước ta, quyền công tố được Nhà nước giao cho một cơ
quan duy nhất là VKS, không có bất cứ cơ quan nào có thể thay thế được.

Điều này thể hiện qua các quy định của pháp luật, các kiến, tư tưởng chỉ đạo
của Đảng và Nhà nước:
+ Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng nêu rõ: "Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp".6
+ Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về
“Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” chỉ rõ: “Tăng cường trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra”; Nghị quyết đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định: “Tăng cường trách nhiệm công
tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”.7
+ Kết luận tại Hội nghị của ngành kiểm sát nhân dân quán triệt những
nội dung cơ bản của Luật Tổ chức VKSND năm 2002 và những công tác
trọng tâm của VKSND nhằm thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ
Chính trị được tổ chức tháng 6/2002, đồng chí Hà Mạnh Trí - Viện trưởng
VKSNDTC đã khẳng định: "Việc thực hành quyền công tố chỉ có trong lĩnh
vực hình sự và chỉ trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử".
+ Hiến pháp 2013 (Điều 107) quy định: "Viện kiểm sát nhân dân thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp". Quy dịnh này cũng được
6

Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công

tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
7

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sdđ, tr.251.


13


cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật của Nhà nước ta (Điều 2 Luật Tổ chức
VKSND năm 2014, Điều 23 BLTTHS năm 2003).
Như vậy có thể thấy quyền công tố ở nước ta được giao cho một chủ
thể duy nhất đó là Viện kiểm sát. Quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực TTHS
và có ở các giai đoạn tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử
Từ những nội dung được trình bày trên, tác giả cho rằng: Quyền công
tố là quyền lực của Nhà nước giao cho VKSND thực hiện việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong quá trình khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử và bảo vệ việc truy tố trước Tòa án.
- Thực hành quyền công tố
Khái niệm quyền công tố và THQCT có quan hệ mật thiết với nhau,
giải quyết chính xác, rõ ràng, rành mạch những vấn đề liên quan đến khái
niệm quyền công tố và THQCT sẽ giúp cho chúng ta nhận thức đầy đủ, chính
xác vị trí, vai trò của VKSND trong hệ thống cơ quan nhà nước nói chung,
trong mối quan hệ với các cơ quan tư pháp nói riêng cũng như chức năng,
nhiệm vụ của VKS, đặc biệt là trong TTHS. Điều này có nghĩa đặc biệt quan
trọng trong giai đoạn hiện nay khi chúng ta tích cực triển khai thực hiện các
Nghị quyết của Đảng về cải cách bộ máy Nhà nước, cải cách cơ quan tư pháp.
Cũng như khái niệm quyền công tố, khái niệm THQCT cũng ít được
đề cập đến trong các tài liệu pháp lý ở nước ta và cũng còn nhiều ý kiến khác
nhau về vấn đề này.
Theo từ điển tiếng Việt thì “thực hành” có nghĩa là “làm để áp dụng lý
thuyết vào thực tế”, “thực hành” cũng đồng nghĩa với “thực hiện”8. Đối với
khoa học pháp lý, chúng ta có thể hiểu thực hành là thực hiện việc áp dụng
các lý luận vào thực tiễn.

8

Từ điển tiếng Việt (2004), Nxb Đà Nẵng, tr.973



14

Từ điển Luật học giải thích “Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng
hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử”9
Như phân tích trên, quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi phạm tội. Đây là quyền của
Nhà nước nhưng được giao cho cơ quan duy nhất là VKS, điều này đã được tổng
kết và khẳng định một lần trong Nội san công tác kiểm sát số 3/1968: “Không có
cơ quan nhà nước nào có thể thay thế ngành Kiểm sát để sử dụng quyền công tố;
bắt giam, điều tra, tha, truy tố, xét xử có đúng người, đúng tội, đúng pháp luật
hay không, có đúng đường lối chính sách của Đảng hay không, điều đó chính là
Viện kiểm sát phải trông nom, đảm bảo làm tốt”10.
Do vậy, có thể hiểu: Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện
kiểm sát trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong
suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và buộc tội họ trước Tòa án.
- Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án trộm cắp tài sản
Theo tố tụng hình sự Việt Nam thì quá trình giải quyết vụ án hình sự nói
chung và vụ án trộm cắp tài sản nói riêng được chia thành 5 giai đoạn: giai đoạn
khởi tố, giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố, giai đoạn xét xử, giai đoạn thi hành
án. Trong đó, mỗi giai đoạn đề thực hiện những nhiệm vụ khác nhau, giai đoạn
trước làm căn cứ để thực hiện giai đoạn sau. Đại đa số các quan điển đều cho
rằng Viện kiểm sát là cơ quan phải chịu trách nhiệm đối với mỗi hoạt động của
Cơ quan điều tra trong các giai đoạn khởi tố, điều tra. Trong 5 giai đoạn đó thì
giai đoạn điều tra là giai đoạn góp phần quan trong thực hiện mục tiêu phát hiện
chính xác, kịp thời mọi hành vi phạm tội và người phạm tội, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội. Do giai đoạn điều tra có vị trí, vai trò như

9


Từ điển Luật học (2006), Nxb Từ điển bách khoa – Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.457

10

Kết luận về công tác kiểm sát năm 1968, Nội san công tác kiểm sát số 3/1968, tr.55


15

vậy, nên việc xác định đúng phạm vi tố tụng hình sự của Viện kiểm sát ở giai
đoạn điều tra vụ án trộm cắp tài sản là hết sức cần thiết.
Theo từ điển tiếng Việt, điều tra là “tìm hỏi, xem xét để biết rõ sự
thật”11. Từ điển Luật học thì giải thích: “Điều tra là công tác trong tố tụng
hình sự được tiến hành nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách
quan, toàn diện và đầy đủ”12
* Về tội trộm cắp tài sản: Điều 138 Bộ luật hình sự quy định về tội
trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, điều luật không mô tả hành vi trộm cắp tài sản
được thực hiện như thế nào, nhưng căn cứ vào lý luận và thực tiễn xét xử thì
trộm cắp tài sản là hành vi lén lút lấy tài sản của chủ sở hữu hoặc người có
trách nhiệm quản lý tài sản mà không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực
hoặc bất cứ một thủ đoạn nào nhằm uy hiếp tinh thần của người quản lý tài
sản. Thông thường người phạm tội lợi dụng sự mất cảnh giác của người quản
lý tài sản để lấy tài sản mà người quản lý tài sản không hề hay biết. Đặc điểm
nổi bật của tội trộm cắp tài sản là người phạm tội lén lút lấy tài sản mà chủ sở
hữu hoặc người quản lý tài sản không hề biết mình bị mất tài sản, chỉ sau đó
họ mới biết bị mất tài sản. Tính chất lén lút của hành vi trộm cắp tài sản thể
hiện ở chỗ người phạm tội giấu diếm hành vi phạm tội.13 Tuy nhiên, lén lút
không phải là đặc trưng duy nhất của tội trộm cắp tài sản mà là phải đi kèm
với mục đích chiếm đoạt tài sản. Có thể nói trộm cắp tài sản là chiếm đoạt tài

sản bằng thủ đoạn lén lút.
Chúng ta có thể hiểu giai đoạn điều tra tội trộm cắp tài sản cũng như điều
tra các tội phạm khác là giai đoạn phát hiện, thu thập chứng cứ theo trình tự, thủ
tục do Bộ luật hình sự quy định nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án, tội
phạm và người thực hiện tội phạm. Các nhiệm vụ thu thập chứng cứ này thường
11

Từ điển tiếng Việt (2004), Nxb Đà Nẵng, tr.322.

12

Từ điển Luật học (2006), Nxb Từ điển bách khoa – Nxb Tư pháp, Hà Nội.

13

Đinh Văn Quế (2012), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, tập 2, NXB Lao động, Hà Nội, tr.435


16

do Cơ quan điều tra thực hiện và Viện kiểm sát có trách nhiệm giám sát việc
thực hiện này. Cũng chính vì đó mà gây ra sự nhầm lẫn rằng trong quá trình điều
tra Viện kiểm sát chỉ thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp hoặc nhầm
lẫn giữa hoạt động thực hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát hoạt động tư
pháp. Hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát là hoạt động nhằm
vào việc buộc tội và các biện pháp tác động vào quyền nhân thân của người
phạm tội như hạn chế hoặc tước bỏ một số quyền của người phạm tôi còn hoạt
động kiểm sát tư pháp trong giai đoạn điều tra là hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan,
tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp.

Vì vậy, có thể hiểu: Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
các vụ án trộm cắp tài sản là hoạt động của Viện kiểm sát thực hiện việc buộc
tội đối với người có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, bảo đảm
mọi hành vi phạm tội được phát hiện đều phải được khởi tố, điều tra, không để
lọt người phạm tội, không làm oan người vô tội.
Từ khái niệm trên có thể rút ra một số điểm chung về THQCT trong giai
đoạn điều tra các vụ án trộm cắp tài sản như sau:
+ Đối tượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ
án trộm cắp tài sản
Đối tượng của quyền công tố là yếu tố mà quyền công tố tác động tới
nhằm thực hiện mục đích truy cứu trách nhiệm hình sự. Với cách hiểu này,
đối tượng của thực hành quyền công tố không gì có thể khác hơn là tội phạm
và người phạm tội. Do đối tượng tác động của thực hành quyền công tố cũng
chính là đối tượng của quyền công tố, nên đối tượng tác động của thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án trộm cắp tài sản cũng chính
là tội phạm và người phạm tội.
+ Phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án trộm
cắp tài sản.


17

Phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra và kết thúc khi
bản án đã có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị. Để đảm bảo thực hiện
quyền công tố thì Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật, trong đó quy định
các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố. Các quyền năng đó được
giao cho VKS thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội.
Còn phạm vi thực hành quyền công tố thì chỉ phát sinh kể từ thời
điểm vụ án được khởi tố bằng quyết định chính thức của cơ quan có thẩm

quyền - tức là khi cơ quan tố tụng đã áp dụng một trong các biện pháp thực
hành quyền công tố. Tuy nhiên, trên thực tế có không ít những trường hợp
mặc dù có tội phạm xảy ra nhưng không được khởi tố; điều này do nhiều
nguyên nhân khác nhau, trong khoa học pháp lý gọi là "tội phạm ẩn" (tức là
những tội phạm trên thực tế đã xảy ra nhưng chưa được khởi tố để điều tra)14
cho nên cơ quan tố tụng không áp dụng được bất cứ một biện pháp thực hành
quyền công tố nào. Qua đây, có thể thấy rằng phạm vi của thực hành quyền
công tố hẹp hơn so với phạm vi của quyền công tố, nó chỉ bắt đầu từ khi có
quyết định khởi tố vụ án và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật (trừ
trường hợp vụ án bị tạm đình chỉ, đình chỉ).
Tại Điều 3 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 cũng đã có quy định cụ thể
về THQCT: “ Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với
người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử vụ án hình sự”. Theo quy định này thì thực hành quyền công tố từ khi giải
quyết tin báo tội phạm đến điều tra, truy tố đến xét xử (bao gồm cả xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm).
14

Lê Thị Tuyết Hoa (2001), “Bàn về quyền công tố”, Nhà nước và pháp luật (10)


18

Về phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra:
Có quan điểm cho rằng: Phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra và kết thúc khi việc điều tra kết thúc hoặc
đình chỉ vụ án.15 Theo quan điểm này thì phạm vi thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi giải quyết tin báo tố giác tội phạm.

Khởi tố vụ án là giai đoạn tố tụng mở đầu của TTHS, trong đó cơ quan
có thẩm quyền xác định có hay không dấu hiệu tội phạm để ra quyết định
khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án. Còn điều tra là giai đoạn tố tụng
hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS
quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hiện hành vi phạm tội làm
cơ sở cho việc giải quyết vụ án.16 Khởi tố vụ án là giai đoạn tố tụng mở đầu
cho các hoạt động điều tra, chưa khởi tố vụ án thì không được tiến hành các
hoạt động điều tra, trừ một số trường hợp đặc biệt. Do đó, không thể xem
khởi tố vụ án hình sự như một hoạt động trong giai đoạn điều tra. Hoạt động
điều tra chỉ được tiến hành sau khi đã có quyết định khởi tố vụ án. Vì vậy,
theo quan điểm của tác giả, phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra bắt đầu từ thời điểm sau khi khởi tố vụ án đến khi kết thúc điều tra
hoặc đình chỉ vụ án.
Theo cách hiểu như vậy, thì phạm vi thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra các vụ án trộm cắp tài sản cũng bắt đầu từ thời điểm sau khi
khởi tố vụ án đến khi kết thúc điều tra hoặc đình chỉ vụ án.
+ Chủ thể thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án
trộm cắp tài sản

15

Nguyễn Hải Phong (2014) “Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra,
gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.13.
16

Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật tố tụng hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
tr.233,265.


19


Việc Cơ quan điều tra và Tòa án thực hiện việc khởi tố vụ án hình sự, cơ
quan điều tra bắt giữ người phạm tội, điều tra thu thập chứng cứ...thực chất chỉ là
những hoạt động hỗ trợ, phục vụ cho thực hành quyền công tố. Các quyết định
khởi tố của các cơ quan đó chỉ thực sự có ý nghĩa phát động công tố quyền
sau khi được Viện kiểm sát xem xét; nếu quyết định khởi tố hoặc không khởi
tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra trái pháp luật thì Viện kiểm sát có
quyền hủy bỏ. Tòa án có quyền khởi tố vụ án hình sự, nếu qua việc xét xử
phát hiện có tội phạm bị bỏ lọt, nhưng các quyết định khởi tố vụ án hình sự
của Tòa án đều phải được gửi cho Viện kiểm sát xem xét, nếu có vi phạm
pháp luật thì Viện kiểm sát sẽ kháng nghị. Như vậy, về mặt pháp lý chỉ có
Viện kiểm sát là cơ quan có quyền độc lập phát động quyền công tố mà không
chịu sự can thiệp của bất cứ cơ quan nhà nước nào.
Trong giai đoạn điều tra, cơ quan điều tra chỉ có quyền đề nghị áp
dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, còn việc quyết định là
do Viện kiểm sát; Cơ quan điều tra có quyền độc lập thu thập tài liệu chứng
cứ, nhưng việc bảo đảm cho các tài liệu chứng cứ ấy có đủ cơ sở để truy tố bị
can hay không là do Viện kiểm sát chịu trách nhiệm. Khi có đủ tài liệu chứng
cứ chứng minh hành vi phạm tội và xét thấy cần xử lý người đó trước Tòa án
thì Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can ra Tòa. BLTTHS nước ta đã quy
định thẩm quyền công tố của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự rất lớn là
“được áp dụng các biện pháp do BLTTHS để xác định tội phạm và xử lý
người phạm tội” (Điều 23 BLTTHS 2003).
Thực hành quyền công tố là chức năng hiến định của Viện kiểm sát
trong việc thực thi quyền lực nhà nước để truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội. Căn cứ vào các quy định của Hiến pháp và pháp luật và
thực tiễn thì từ trước đến nay quyền này được giao cho duy nhất VKS. Do
vậy, Viện kiểm sát là chủ thể duy nhất được giao nhiệm vụ truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội, nên Viện kiểm sát phải được trao đầy



×