BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
ĐỖ VIỆT ANH
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN
CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ THANH HÓA
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
ĐỖ VIỆT ANH
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN
CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ THANH HÓA
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60380103
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN THỊ LAN
Hà Nội – 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn
Đỗ Việt Anh
BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS
Bộ luật dân sự
BLTTDS
Bộ luật tố tụng dân sự
GCNQSDĐ
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
HN&GĐ
Hôn nhân và gia đình
TAND
Tòa án nhân dân
TANDTC
Tòa án nhân dân Tối cao
TP
Thành phố
UBND
Ủy ban nhân dân
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1 ....................................................................................................................6
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN CỦA
VỢ CHỒNG KHI LY HÔN .....................................................................................6
1.1. Khái niệm chung về giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn 6
1.1.1. Khái niệm tài sản, tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng ..........................6
1.1.2. Khái niệm giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn ....................9
1.2. Pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly
hôn ............................................................................................................................11
1.2.1. Căn cứ xác định tài sản chung, tài sản riêng khi vợ chồng lựa chọn chế độ tài
sản theo luật định ......................................................................................................11
1.2.1.1. Căn cứ vào thời kỳ hôn nhân .......................................................................11
1.2.1.2. Căn cứ vào nguồn gốc tài sản ......................................................................14
1.2.1.3. Căn cứ xác định nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản: .............................23
1.2.2. Căn cứ xác định tài sản chung, tài sản riêng khi vợ chồng áp dụng chế độ tài
sản theo thoả thuận ...................................................................................................26
1.2.3. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn ................30
1.2.4. Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn trong một số trường
hợp cụ thể ..................................................................................................................34
1.2.4.1. Chia tài sản của vợ chồng khi vợ chồng sống chung với gia đình ..............34
1.2.4.2. Chia tài sản của vợ chồng là nhà ở và quyền sử dụng đất ..........................36
1.2.4.3. Giải quyết quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba khi ly
hôn .............................................................................................................................38
Kết luận chƣơng 1 ...................................................................................................39
Chƣơng 2 ..................................................................................................................40
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ THANH HÓA VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ..................................40
2.1. Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn tại Tòa án nhân dân
thành phố Thanh Hóa .............................................................................................40
2.1.1. Những vấn đề còn vướng mắc trong việc giải quyết tranh chấp tài sản của vợ
chồng tại Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá ...................................................43
2.1.2. Một số vụ việc điển hình..................................................................................54
2.2. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả điều chỉnh những tranh chấp tài sản
của vợ chồng khi ly hôn ..........................................................................................60
2.2.1. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành ....60
2.2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án nhân dân thành
phố Thanh Hóa trong việc giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn ..66
Kết luận chƣơng 2 ...................................................................................................70
KẾT LUẬN ..............................................................................................................71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự phát triển bền vững và phồn thịnh của xã hội là nhờ dựa vào sự hòa thuận
và hạnh phúc của mỗi gia đình. Vì vậy, vai trò của gia đình đối với xã hội là vô
cùng quan trọng. Nhận thức được vị thế của gia đình trong xã hội, Đảng và Nhà
nước ta luôn quan tâm, chú trọng đến việc xây dựng và giữ gìn gia đình êm ấm, hòa
thuận. Sự quan tâm đó đã được thể hiện qua việc ban hành các quy phạm pháp luật
về hôn nhân và gia đình góp phần giúp cho sự tồn tại và phát triển của gia đình đi
vào khuôn khổ và tạo ra tính bền vững trong quan hệ gia đình.
Để xây dựng gia đình tốt thì phải dựa trên nền tảng hôn nhân bền vững, nên
ngoài việc hình thành trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, tiến bộ thì việc tạo lập tài
sản của vợ chồng là một trong những điều kiện để duy trì cuộc sống gia đình. Tuy
nhiên, trong nhiều trường hợp, do nhiều yếu tố chủ quan đã khiến cuộc sống của vợ
chồng không còn hạnh phúc như ban đầu, vì vậy pháp luật đã dự liệu khả năng cho
họ được giải phóng khỏi quan hệ nhân bằng việc ly hôn. Và khi ly hôn, vợ, chồng
thường xảy ra các tranh chấp về nhân thân và tài sản. Quan hệ sở hữu đối với tài sản
vợ chồng là quan hệ tài sản gắn liền với nhân thân, tồn tại trong thời kỳ hôn nhân,
không có tính đền bù ngang giá, khó xác định công sức cụ thể của các bên, nên khi
xảy ra tranh chấp thì việc phân chia tài sản của vợ chồng là vấn đề rất khó khăn,
phức tạp.
Hiện nay, cùng với xu thế phát triển của xã hội, số lượng các vụ án ly hôn có
tranh chấp về tài sản của vợ chồng có xu hướng gia tăng, tính chất phức tạp cũng
như giá trị của tài sản tranh chấp lớn đã gây ra nhiều khó khăn, áp lực cho cơ quan
xét xử, nhiều vụ việc đã trải qua nhiều cấp xét xử, kháng cáo, kháng nghị. Chính vì
vậy, việc nghiên cứu vấn đề giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn
qua thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa (TAND TP Thanh
Hóa) đã góp phần thấy những bất cập trong quá trình xét xử và đưa ra những giải
pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng là việc làm
cần thiết và có ý nghĩa. Với những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Thực trạng
2
giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn tại Tòa án nhân dân thành
phố Thanh Hóa” để làm đề tài nghiên cứu Luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ vai trò quan trọng của gia đình trong xã hội nên việc nghiên cứu
các tranh chấp trong hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) luôn được quan tâm, đặc biệt
là những tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Các công trình nghiên cứu
khoa học nói chung về chế độ tài sản, chia tài sản của vợ, chồng cũng luôn thu hút
được nhiều sự quan tâm, nghiên cứu. Đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu
về vấn đề này như:
Một số giáo trình, sách chuyên khảo điển hình như: “Giáo trình Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam” (2009) - Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội; “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật HN&GĐ năm 2000”
của TS. Nguyễn Văn Cừ- ThS. Ngô Thị Hường (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội; “Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000” của TS.
Đinh Thị Mai Phương (2004), Nxb Chính trị quốc gia; “Bình luận khoa học Luật
Hôn nhân và gia đình Việt Nam” của tác giả Nguyễn Ngọc Điện (2002), Nxb trẻ,
Hồ Chí Minh;…
Bên cạnh đó, một số đề tài nghiên cứu khoa học như: “Thực trạng giải quyết
các vụ việc hôn nhân và gia đình trong hơn thập niên vừa qua” của TS. Nguyễn Thị
Lan (2014); “Nghiên cứu phát hiện những bất cập của Luật Hôn nhân và gia đình
Việt Nam năm 2000” của TS. Nguyễn Văn Cừ (2011);…
Ngoài ra còn có một số Luận văn thạc sĩ luật học như: “Chia tài sản chung
của vợ chồng theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000” luận văn thạc sĩ
của Nguyễn Thị Lan (2012); “Pháp luật về giải quyết tranh chấp nhà ở và quyền sử
dụng đất khi ly hôn” của Nguyễn Thị Thanh Xuân (2013); “Giải quyết tranh chấp
về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn” của Đinh Thị Minh Mẫn (2014);
“Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng”, luận văn thạc sĩ của Chu Minh
Khôi (2015); “Áp dụng pháp luật chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại
tỉnh Sơn La”, luận văn thạc sĩ của Lò Thị Thu Hoa (năm 2016),…
3
Các tác giả mới chỉ đề cập đến một khía cạnh hoặc một trường hợp cụ thể liên
quan đến chia tài sản của vợ chồng mà chưa đi phân tích toàn diện các trường hợp
tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
Một số bài viết đăng trên báo, tạp chí chuyên ngành pháp luật như: “Bàn thêm
về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân” của ThS. Nguyễn Hồng
Hải - Tạp chí luật học số 5/2003; “Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”, Nguyễn Phương Lan, Tạp chí Luật học, số
6/2002; “Một số vấn đề cơ bản về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo
Luật Hôn nhân và gia đình- Thực tiễn giải quyết”, Thu Hương - Duy Kiên, Tạp chí
Tòa án nhân dân, Số 5,6/2013; “Bàn về công sức trong vụ án HN&GĐ”, Nguyễn
Hoàng Long Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 9/2015; “Tặng cho quyền sử dụng đất
thực tiễn và tồn tại”, Đỗ Văn Chỉnh, Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 3/2008; “Xác
định quyền sử dụng đất là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ chồng”, Nguyễn
Văn Tuấn, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số 1/2010,…
Trong những công trình trên, các tác giả đã đề cập đến các quy định của pháp
luật về tài sản của vợ chồng như căn cứ xác lập, nguyên tắc chia tài sản, những
vướng mắc mà Tòa án gặp phải khi giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi
ly hôn.
Như vậy, pháp luật về tài sản của vợ chồng cũng như thực tiễn áp dụng đã
được nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên
cứu của các công trình đã được công bố trước đó, luận văn đi sâu vào nghiên cứu
khía cạnh thực trạng giải quyết những tranh chấp về tài sản khi ly hôn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của luận văn thạc sỹ, tác giả tập trung vào nghiên cứu các
quy định của pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục, căn cứ pháp luật giải quyết
tranh chấp tài sản khi ly hôn và thực tiễn giải quyết tại Tòa án nhân dân thành phố
Thanh Hóa.
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định của Luật hôn nhân và gia
đình năm 2014, Bộ luật dân sự năm 2015, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015… Đồng
thời, nghiên cứu việc áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp tài sản của vợ
chồng khi ly hôn qua thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa
4
trong 5 năm từ năm 2012 đến năm 2016. Trong đó, chủ yếu là tranh chấp tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn. Trong phạm vi của đề tài, Luận văn chỉ nghiên cứu
giải quyết các tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn, còn những tranh chấp
về tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tranh chấp tài sản chung,
riêng của vợ chồng với những chủ thể khác khi ly hôn, các tranh chấp về tài sản
trong các vụ việc có yếu tố nước ngoài không thuộc phạm vi nghiên cứu.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu những vấn đề pháp lý về giải quyết tranh
chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn đồng thời tìm hiểu thực trạng giải quyết tranh
chấp tài sản khi ly hôn tại Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa có khác biệt như
thế nào so với địa phương khác. Nhằm chỉ ra những vấn đề còn vướng mắc, bất cập
trong các quy định của pháp luật cũng như một số quan điểm áp dụng pháp luật
chưa thống nhất trong ngành Tòa án; từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả điều chỉnh những tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Nghiên cứu những vấn đề pháp lý về giải quyết tranh chấp tài sản của vợ
chồng khi ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
+ Nghiên cứu thực trạng giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn
tại Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa. Qua đó, chỉ ra những vướng mắc, bất
cập trong áp dụng pháp luật khi giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn.
+ Đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh những tranh
chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và các
quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia
đình. Luận văn có sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phân tích, tổng hợp, so
sánh, diễn giải, thống kê và nghiên cứu thực tiễn những vụ việc Tòa án nhân dân
thành phố Thanh Hóa đã giải quyết các tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly
hôn, các bài viết, tham luận của một số tác giả về vấn đề nghiên cứu.
5
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận
Luận văn là một công trình nghiên cứu tương đối khoa học, đầy đủ và có hệ
thống về vấn đề liên quan đến thực tiễn giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng
khi ly hôn tại Tòa án nhân thành phố Thanh Hóa.
Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận, luận văn còn tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp
luật thông qua hoạt động xét xử tại địa phương, đồng thời đề xuất một số biện pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật để giải quyết những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng
pháp luật, nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa.
Với đề tài này, tác giả hi vọng có thể xây dựng được một nguồn tài liệu tham
khảo hữu ích cho công tác nghiên cứu, giảng dạy luật học nói chung và Luật hôn
nhân và gia đình nói riêng. Bên cạnh đó, luận văn cũng có ý nghĩa thiết thực cho
những cá nhân không hoạt động trong lĩnh vực pháp luật, đặc biệt là các cặp vợ
chồng. Luận văn góp phần cung cấp những kiến thức lý luận và thực tiễn về xác
định tài sản của vợ chồng, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản, nguyên tắc giải
quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn…
Các kết quả nghiên cứu của đề tài này có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho các hoạt động học tập và nghiên cứu sau này về các chủ đề có liên quan.
Những đề xuất, kiến nghị mà luận văn nêu ra đều có cơ sở khoa học và thực tiễn, vì
vậy chúng có giá trị tham khảo trong việc sửa đổi pháp luật và trong công tác áp
dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp tài sản chung vợ chồng khi ly hôn.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 02 chương:
Chương 1: Những vấn đề pháp lý về giải quyết tranh chấp tài sản của vợ
chồng khi ly hôn.
Chương 2: Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn tại Toà án
nhân dân thành phố Thanh Hoá và một số kiến nghị.
6
Chƣơng 1
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN
CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
1.1.
Khái niệm chung về giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi
ly hôn
1.1.1. Khái niệm tài sản, tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng
Khái niệm tài sản
Tài sản luôn được coi là một điều kiện vật chất để duy trì các hoạt động trong
lĩnh vực kinh tế và đời sống xã hội. Nó là vấn đề trung tâm, cốt lõi của mọi quan hệ
xã hội nói chung và quan hệ pháp luật nói riêng. Tài sản không thể được xem xét
tách rời các giá trị xã hội. Tài sản là một công cụ của đời sống xã hội nên khái niệm
về tài sản không phải là một khái niệm thuần túy có tính học thuật mà là một khái
niệm có tính mục đích cao. Khái niệm này phải đáp ứng được các nhu cầu cần thiết
của xã hội.
Trong lịch sử lập pháp và nghiên cứu pháp luật thế giới có rất nhiều quan niệm
khác nhau về tài sản. Tài sản là đối tượng của quyền sở hữu hay nói các khác thì tài
sản là các quyền, tài sản là bất kể những gì có khả năng sở hữu bởi cá nhân, tập thể
hoặc cho lợi ích của người khác, các quan niệm này về tài sản đều coi tài sản là các
quyền được thiết lập trên vật có hiệu lực chống lại những người khác.
Tài sản là một khái niệm động và phụ thuộc vào giá trị kinh tế của nó bởi tài
sản là công cụ của đời sống con người. Trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau
của xã hội loài người, tài sản có một phạm vi khác nhau nhưng đều là công cụ đáp
ứng các nhu cầu sống của con người.
Khái niệm tài sản lần đầu tiên được pháp luật Việt Nam quy định khái niệm tài
sản là tại Điều 172 Bộ luật dân sự (BLDS) năm 1995, theo đó “Tài sản bao gồm vật
có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản”. Tiếp đó, Điều
163 BLDS năm 2005 quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các
quyền tài sản”. Đến nay, tại Điều 105 BLDS năm 2015 đã quy định đầy đủ hơn, rõ
ràng hơn như sau:
7
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có
thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”.
Như vậy, có thể khái quát về tài sản là các lợi ích vật chất đáp ứng các nhu cầu
của con người mà pháp luật cho phép cá nhân, pháp nhân chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt để phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, nhu cầu sản xuất kinh doanh của
chủ sở hữu.
Khái niệm tài sản chung
Trong quan hệ hôn nhân gia đình, xuất phát từ yếu tố đặc biệt của mối quan hệ
này nên không phải lúc nào tài sản do người chồng hoặc do người vợ làm ra, thu
được đều thuộc quyền sở hữu của họ mà có thể sẽ thuộc sở hữu chung của hai vợ
chồng. Theo đó, trong khối tài sản của vợ chồng sẽ được phân chia thành tài sản
chung và tài sản riêng.
Trong quá trình chung sống, ngoài tình cảm thì vợ chồng còn phát sinh quyền
sở hữu tài sản. Tài sản của vợ chồng là điều kiện không thể thiếu để duy trì quan hệ
hôn nhân. Tài sản của vợ chồng là tài sản thuộc quyền sở hữu chung của vợ chồng,
là hình thức sở hữu chung đặc biệt. Xuất phát từ quan hệ hôn nhân, nên sự tồn tại
tài sản của vợ chồng phụ thuộc vào sự tồn tại của quan hệ hôn nhân và nó chấm dứt
khi vợ hoặc chồng chết hoặc có bản án hoặc có quyết định của Tòa án về ly hôn,
chia tài sản chung.
Tài sản của vợ chồng là tài sản do vợ, chồng tạo ra do lao động, hoạt động sản
xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, tặng cho chung và những tài sản vợ
chồng thỏa thuận là tài sản chung, quyền sử dụng đất của vợ chồng có được sau khi
kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Khác với tài sản chung theo phần, tài sản
chung của vợ chồng có nguồn gốc tạo ra từ thời kỳ hôn nhân, có thể là do vợ, chồng
lao động tạo ra hoặc từ những hành vi pháp lý diễn ra trong thời kỳ hôn nhân (thỏa
thuận tài sản riêng trở thành tài sản chung; được thừa kế, tặng cho…). Tài sản
chung có thể chỉ do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân. Đây là đặc điểm thể
8
hiện sự khác biệt giữa tài sản chung của vợ chồng với tài sản chung theo phần khác.
Tài sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất, khi vợ, chồng
chưa phân chia tài sản thì không xác định được tỷ lệ tài sản của mỗi người. Khi hai
bên thỏa thuận phân chia xong hoặc có quyết định phân chia của Tòa án thì phần tài
sản của vợ, chồng trong khối tài sản chung mới được xác định. Đây là điểm khác
biệt, thể hiện đặc trưng của tài sản chung vợ chồng so với tài sản chung theo phần.
Vợ, chồng có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
chung. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thoả thuận hoặc theo
quyết định của Toà án. Theo quy định tại Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 thì tài
sản chung của vợ chồng được xác lập bởi các căn cứ sau:
- Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và
thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại
khoản 1 Điều 40 của Luật HN&GĐ năm 2014; tài sản mà vợ chồng được thừa kế
chung hoặc được tặng cho chung, tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản
chung.
- Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của
vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng
hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Như vậy, từ những phân tích trên, có thể hiểu: “Tài sản chung vợ chồng là
những tài sản được hình thành hoặc tạo ra phù hợp với những căn cứ xác lập tài
sản chung vợ chồng theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình và luật khác có
liên quan”.
Khái niệm tài sản riêng
Xuất phát từ tư tưởng phong kiến truyền thống mà pháp luật thời kỳ phong
kiến, thời kỳ Pháp thuộc khá hạn chế việc ghi nhận tài sản riêng của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân. Quy định về tài sản riêng của vợ chồng chỉ mới bước đầu xuất
hiện trong Bộ Quốc triều hình luật1. Tuy nhiên, phải đến Luật HN&GĐ năm 1986
1
Điều 374, 375, 376 bộ Quốc triều hình luật
9
thì quyền có tài sản riêng của vợ chồng mới chính thức được ghi nhận nhưng chưa
có khái niệm cụ thể về tài sản riêng. Đến luật HN&GĐ năm 2000, khái niệm này
mới được đưa ra trong một điều luật cụ thể và được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
một cách đầy đủ hơn tại Điều 43 Luật HN&GĐ năm 2014 như sau:
- Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn;
tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn; tài sản được chia
riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản
phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp
luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
- Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng
của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân
được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 Luật này.
Như vậy, có thể thấy khái niệm tài sản riêng đã được luật hóa theo hình thức
liệt kê. Trên cơ sở đó, có thể hiểu một cách khái quát như sau: “Tài sản riêng của
vợ, chồng là những tài sản thuộc sở hữu của một bên vợ, chồng được xác lập dựa
trên các căn cứ mà pháp luật quy định bao gồm: tài sản mà mỗi người có trước khi
kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kì hôn nhân; tài
sản mà vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân thông qua giao dịch bằng tài sản
riêng; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng; tài sản được hình thành từ
tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ chồng; hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ tài sản riêng nhận được sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân;
tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng”.
1.1.2. Khái niệm giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn
Trong cuộc sống hàng ngày, có rất nhiều các loại tranh chấp xảy ra như tranh
chấp đất đai, tranh chấp lao động,... Tranh chấp được hiểu là đấu tranh giằng co khi
có ý kiến bất đồng, thường là trong vấn đề quyền lợi giữa hai bên2.
Trong hôn nhân gia đình, ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản
án, quyết định có hiệu lực của Tòa án. Đời sống vợ chồng có mâu thuẫn về tình
2
Từ điển Tiếng Việt- Nxb Đà Nẵng 1998, tr.890
10
cảm, không tìm được tiếng nói chung thì đây là biện pháp mà pháp luật cho phép
thực hiện. Khi quan hệ hôn nhân chấm dứt có thể sẽ kéo theo cả những tranh chấp
về quyền nuôi con, tranh chấp về tài sản, tranh chấp về cấp dưỡng,...Sự kiện ly hôn
sẽ dẫn đến khối tài sản chung của vợ chồng cũng chấm dứt theo. Đây chính là
nguyên do dẫn đến tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
Chính vì vậy việc chia tài sản chung của vợ chồng trở thành một nhu cầu tất
yếu. Việc phân chia tài sản chung của vợ chồng, một mặt giải toả được những xung
đột, mâu thuẫn trong gia đình, giúp cho các cá nhân tự phát huy được các khả năng
của mình trong xã hội. Mặt khác giúp cho các Toà án giải quyết nhanh chóng các vụ
việc.
Khi ly hôn hoặc sau khi ly hôn, việc tranh chấp tài sản của vợ chồng đều có
thể xảy ra. Như vậy, giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn là
tổng hợp các hành vi tố tụng của Tòa án, đương sự và các chủ thể khác theo trình
tự, thủ tục do luật định, từ giai đoạn nộp đơn khởi kiện, thụ lý đơn khởi kiện, hòa
giải, thu thập, đánh giá chứng cứ và đưa ra phán quyết dựa trên quy định của pháp
luật về tài sản của vợ chồng và các nguyên tắc chia tài sản chung khi ly hôn nhằm
nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của của vợ chồng và người thứ ba liên
quan.
Bản chất việc giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn chính là
việc chấm dứt quyền sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng đối với toàn bộ khối tài
sản chung của vợ chồng hoặc một phần khối tài sản chung của vợ chồng. Sau khi
phân chia, tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia thành tài sản riêng của vợ,
chồng gắn với sự kiện ly hôn. Do đặc thù của quan hệ hôn nhân và gia đình nên việc
giải quyết tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn có những đặc thù
riêng, đó là:
Thứ nhất, việc giải quyết tranh chấp tài sản chung vợ chồng khi ly hôn được
thực hiện bởi Tòa án là cơ quan tài phán mang tính quyền lực nhà nước và được tiến
hành theo trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ. Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện
quyền tư pháp, nhân danh Nhà nước giải quyết các tranh chấp hôn nhân và gia đình
11
nói chung và tranh chấp tài sản của vợ chồng nói riêng. Theo quy định của Luật tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì hệ thống Tòa án được tổ chức và hoạt động
theo địa giới lãnh thổ tương ứng với bốn cấp gồm: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án
nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp huyện.
Thứ hai, giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn tại Tòa án là
một trong những hoạt động giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình theo quy định của
Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) và quy định của pháp luật về hôn nhân và gia
đình.
Thứ ba, các phán quyết của Tòa án về vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình nói
chung và tranh chấp tài sản của vợ chồng nói riêng được đảm bảo thi hành bằng các
biện pháp cưỡng chế nhà nước thông qua cơ quan thi hành án. Mục đích của đương
sự khi khởi kiện là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Chính vì vậy,
sự bảo đảm thi hành phán quyết của Tòa án bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước là
một trong những ưu điểm trong cơ chế thi hành phán quyết của các cơ quan tài
phán.
1.2. Pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi
ly hôn
1.2.1. Căn cứ xác định tài sản chung, tài sản riêng khi vợ chồng lựa chọn
chế độ tài sản theo luật định
Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích các quy định của pháp luật HN&GĐ hiện
hành chúng ta có thể đưa ra một số căn cứ để xác định tài sản chung, tài sản riêng
của vợ chồng như sau:
1.2.1.1. Căn cứ vào thời kỳ hôn nhân
Căn cứ xác lập tài sản vợ chồng trước hết phải dựa vào “thời kỳ hôn nhân”.
Về khái niệm thời kỳ hôn nhân, theo khoản 13 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 quy
định: “Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ
ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân”. Đây là căn cứ quan trọng và
đầu tiên để xác định tài sản chung của vợ chồng.
12
Như vậy, thời kỳ hôn nhân được tính từ thời điểm phát sinh quan hệ vợ
chồng trước pháp luật (được đánh dấu bằng sự kiện kết hôn). Và việc kết hôn này
phải đúng thủ tục và đáp ứng được các điều kiện kết hôn do pháp luật quy định.
Để xác định chính xác thời điểm bắt đầu thời kì hôn nhân không phải là vấn
đề đơn giản. Theo quy định của pháp luật hiện hành, thời kỳ hôn nhân được tính từ
ngày nam nữ đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, thời
điểm bắt đầu thời kỳ hôn nhân chính là ngày đăng ký kết hôn được ghi trong Giấy
chứng nhận đăng ký kết hôn do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Kể từ ngày
đăng kí kết hôn, thời kỳ hôn nhân được bắt đầu, quan hệ hôn nhân chính thức được
thiết lập đồng thời quan hệ tài sản của vợ chồng cũng bắt đầu chịu sự điều chỉnh của
pháp luật HN&GĐ. Theo nguyên tắc xác định quyền sở hữu tài sản thì tài sản mà
mỗi bên vợ, chồng có được trước thời kỳ hôn nhân mà cụ thể là có trước ngày đăng
ký kết hôn là tài sản riêng của bên vợ, chồng đó nếu giữa vợ chồng không thỏa
thuận nào liên quan đến việc nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung của vợ
chồng.
Tuy nhiên trong thực tế có nhiều trường hợp nam nữ kết hôn chỉ được gia
đình hai bên tổ chức lễ cưới theo tập quán địa phương mà không đăng ký kết hôn;
do ý thức của người dân còn hạn chế, chỉ tôn trọng nghi thức cưới theo tập quán mà
không đăng ký kết hôn theo luật định, đặc biệt là vùng núi, vùng dân tộc thiểu
số,…khi phát sinh mâu thuẫn họ xin ly hôn và phân chia tài sản.
Pháp luật cũng công nhận trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ
chồng trước ngày 03/01/1987 (ngày Luật HN&GĐ năm 1986 có hiệu lực), đối với
những trường hợp này thì dù họ đăng ký kết hôn hay không đăng ký kết hôn thì thời
kỳ hôn nhân của họ vẫn được tính từ thời điểm họ chung sống với nhau, tài sản
chung của họ cũng đồng thời được xác lập cùng thời điểm họ chung sống.
Tại Khoản 4 Điều 2 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTCVKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 Hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật
hôn nhân và gia đình quy định “Người đang có vợ có chồng” quy định tại điểm c
khoản 2 Điều 5 Luật HN&GĐ năm 2014 là “Người xác lập quan hệ vợ chồng với
13
người khác từ ngày 03/01/1987 mà chưa đăng ký kết hôn và chưa ly hôn hoặc
không có sự kiện vợ (chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố
là đã chết”.
Ngoài ra còn có trường hợp kết hôn trái pháp luật nhưng không bị huỷ, theo
Điều 11 luật HN&GĐ năm 2014 thì thời kỳ hôn nhân được tính từ ngày các bên đủ
điều kiện kết hôn; trường hợp kết hôn không đúng thẩm quyền mà đăng ký lại thì
thời kỳ hôn nhân được tính từ ngày đăng ký kết hôn trước (theo Điều 13 Luật
HN&GĐ năm 2014).
Theo điểm a Khoản 2 Điều 4 TTLT số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTCBTP thì trường hợp tại thời điểm kết hôn, hai bên kết hôn không có đủ điều kiện kết
hôn nhưng sau đó có đủ điều kiện kết hôn quy định tại Điều 8 của Luật hôn nhân và
gia đình thì Tòa án xử lý như sau:
“Nếu hai bên kết hôn cùng yêu cầu Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân
thì Tòa án quyết định công nhận quan hệ hôn nhân đó kể từ thời điểm các bên
kết hôn có đủ điều kiện kết hôn.
Ví dụ 1: Anh A sinh ngày 25-01-1996, chị B sinh ngày 10-01-1995. Ngày
08-01-2015, anh A và chị B đăng ký kết hôn. Ngày 25-9-2016, Tòa án mở
phiên họp giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật. Tại phiên họp,
anh A và chị B đều yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân, nếu xét thấy đã đủ
các điều kiện kết hôn khác thì Tòa án xem xét công nhận quan hệ hôn nhân
của anh A và chị B kể từ thời điểm cả anh A và chị B đủ tuổi kết hôn, tức là kể
từ ngày 25-01-2016.
Ví dụ 2: Anh A và chị B đăng ký kết hôn hợp pháp ngày 05-7-2009 và
chưa ly hôn. Ngày 10-5-2012, anh A lại kết hôn với chị C. Ngày 12-6-2014,
chị B chết. Ngày 15-5-2015, Tòa án mở phiên họp giải quyết yêu cầu hủy việc
kết hôn trái pháp luật giữa anh A và chị C. Tại phiên họp, anh A và chị C đều
yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân, nếu xét thấy đã đủ các điều kiện kết hôn
khác thì Tòa án xem xét công nhận quan hệ hôn nhân của anh A và chị C kể từ
thời điểm chị B chết, tức là ngày 12-6-2014.
14
Ví dụ 3: Ngày 27-5-2009, chị A bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi
dân sự. Ngày 30-9-2009, chị A kết hôn với anh B. Ngày 12-8-2012, Tòa án
quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố chị A mất năng lực hành vi dân sự.
Ngày 12-02-2015, Tòa án mở phiên họp giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn
trái pháp luật. Tại phiên họp, chị A và anh B đều yêu cầu công nhận quan hệ
hôn nhân, nếu xét thấy đã đủ các điều kiện kết hôn khác thì Tòa án xem xét
công nhận quan hệ hôn nhân của chị A và anh B kể từ thời điểm chị A không
còn bị mất năng lực hành vi dân sự theo quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật”.
1.2.1.2. Căn cứ vào nguồn gốc tài sản
Tài sản chung của vợ chồng (Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014) bao gồm:
Thứ nhất, tài sản chung của vợ chồng là tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập
do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và thu nhập hợp pháp của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân.
Đây là tài sản chủ yếu, quan trọng đối với khối tài sản chung của vợ chồng,
bởi bản chất của cuộc sống chung giữa vợ chồng là cùng nhau chung vai gánh vác
mọi công việc gia đình, tạo ra tài sản để đáp ứng mọi nhu cầu tinh thần, vật chất của
gia đình mình. Tài sản chung của vợ chồng có thể là do công sức của cả hai vợ
chồng tạo ra hoặc chỉ do mình người vợ hoặc người chồng tạo ra trong thời kỳ hôn
nhân, bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các giao dịch dân sự.
Theo điểm b khoản 2 điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014: “Lao động của vợ,
chồng trong gia đình được coi như là lao động có thu nhập”, vì thế trong cuộc sống
gia đình, vì sức khỏe, hoặc vì hoàn cảnh và khả năng lao động mà tài sản chỉ do một
người tạo ra thì vẫn coi như vợ chồng cùng đóng góp công sức vào việc tạo lập khối
tài sản chung. Trong lao động của người chồng đã bao hàm cả lao động của người
vợ và ngược lại, bởi vì nếu như không có vợ hoặc chồng chăm lo gia đình, bảo quản
tài sản, chăm lo cho con cái tạo điều kiện cho người kia lao động tạo thu nhập thì
khó có thể tạo ra được khối tài sản chung một cách trọn vẹn. Đây chính là đặc trưng
mang tính chất cộng đồng của cuộc sống vợ, chồng.
15
Tài sản do vợ chồng tạo ra là những tài sản mà vợ chồng có được do công sức
của vợ hoặc chồng tạo ra theo nghề nghiệp, chuyên môn của mỗi người hoặc do vợ
và chồng cùng lao động, sản xuất tạo ra tài sản.
Những thu nhập do lao động, sản xuất kinh doanh…là những thu nhập thường
xuyên, cơ bản, chính đáng và chủ yếu của gia đình để đảm bảo cuộc sống vật chất
ổn định, lâu dài của gia đình. Cho dù vợ chồng làm việc ở những ngành nghề khác
nhau với mức thu nhập khác nhau nhưng mọi thu nhập từ hoạt động lao động, sản
xuất kinh doanh của vợ chồng đều là tài sản chung của vợ chồng. Quy định này là
phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay và cũng hoàn toàn phù hợp với quy định về quyền nhân thân của vợ chồng
là tự do lựa chọn việc làm. Chính công việc cũng như sức lao động của mỗi người
đều góp phần vào khối tài sản chung trong gia đình.
Theo Điều 9 Nghị đinh số 126/2014/NĐ- CP ngày 31/12/2014 quy định chi
tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật HN&GĐ năm 2014 thì “những thu nhập
hợp pháp khác” của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân là khoản tiền thưởng, tiền
trúng thưởng xổ số, tiền trợ cấp, trừ trường hợp khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng
được nhận theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng;
quyền tài sản gắn liền với nhân thân của vợ, chồng. Bên cạnh đó, những thu nhập
hợp pháp khác còn là tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy
định của BLDS đối với vật vô chủ, vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, vật bị đánh rơi, bị
bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước; Thu nhập hợp pháp khác
theo quy định của pháp luật.
Như vậy dù vợ chồng ở nhiều ngành nghề khác nhau, mức thu nhập khác
nhau, song mọi thu nhập từ lao động, sản xuất kinh doanh theo quy định của Luật
HN&GĐ năm 2014 đều là tài sản chung của vợ chồng trừ trường hợp vợ chồng có
thỏa thuận tài sản mà có quy định khác.
16
Thứ hai, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng.
Hoa lợi phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng là sản vật tự nhiên mà vợ,
chồng có được từ tài sản riêng của mình. Lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ,
chồng là khoản lợi mà vợ, chồng thu được từ việc khai thác tài sản riêng của mình.
Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân đều
được coi là tài sản chung của vợ chồng trừ trường hợp hoa lợi, lợi tức phát sinh từ
tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng.
Thứ ba, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung.
Trong thời kỳ hôn nhân, vợ hoặc chồng có thể được người thân hoặc bạn bè
tặng cho chung tài sản, hay có thể là vợ chồng được thừa kế chung. Đối với tài sản
vợ hoặc chồng được thừa kế riêng sẽ trở thành tài sản chung của vợ chồng khi có sự
thể hiện ý chí của người sở hữu đồng ý nhập vào khối tài sản chung. Đây là tài sản
có tính chất đặc thù trong khối tài sản chung của vợ chồng, bởi tài sản này hình
thành không phải dựa trên cơ sở vợ chồng tạo ra từ lao động, sản xuất mà nó hình
thành trên cơ sở ý chí định đoạt của người khác và phải tuân theo quy định của pháp
luật về tặng cho tài sản và pháp luật về thừa kế.
Nếu tặng cho động sản thì vợ chồng có quyền sở hữu chung kể từ thời điểm
nhận tài sản (đối với động sản không phải đăng ký) hoặc từ khi xác lập kể từ thời
điểm đăng ký (đối với động sản bắt buộc phải đăng ký). Trường hợp tặng cho bất
động sản thì vợ chồng có quyền sở hữu chung kể từ thời điểm đăng ký tên cả hai vợ
chồng. Việc tặng cho phải được lập thành văn bản được công chứng, chứng thực.
Khi xác lập hợp đồng tặng cho vợ chồng tài sản thì hợp đồng tặng cho cần phải ghi
rõ là cho vợ và chồng.
Thứ tư, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản
chung của vợ, chồng (khoản 1 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014).
Quyền sử dụng đất là một tài sản đặc biệt có giá trị lớn. Đây là tài sản quan
trọng của vợ chồng và của hộ gia đình cho nên việc xác định quyền sử dụng đất là
tài sản chung hoặc riêng theo nguyên tắc là nếu quyền sử dụng đất của vợ chồng có
được trước thời kỳ hôn nhân; được tặng cho, thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân là
17
tài sản riêng. Đối với quyền sử dụng đất mà vợ và chồng có được trong thời kỳ hôn
nhân do Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, do vợ chồng nhận chuyển
nhượng, do thừa kế chung, được tặng cho chung thì là tài sản chung của vợ chồng.
Vì vậy, việc quy định quyền sử dụng đất có được sau khi kết hôn cũng là tài sản
chung của vợ, chồng có ý nghĩa bảo đảm sự bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan
hệ tài sản, đồng thời đây cũng sẽ là một cơ sở pháp lý cần thiết cho vấn đề giải
quyết tranh chấp về đất đai khi chia tài sản chung của vợ chồng.
Thứ năm, không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh
chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Trong quan hệ hôn nhân, nhiều trường hợp không có sự phân biệt rạch ròi tài
sản dẫn đến tài sản chung và tài sản riêng có sự trộn lẫn. Do đó, nếu vợ chồng xảy
ra tranh chấp về xác định tài sản chung riêng thì các bên có quyền đưa ra những
chứng cứ nhằm chứng minh đó là tài sản riêng của mình, nhưng nếu mỗi bên đều
không có chứng cứ chứng minh đó là tài sản riêng của mình thì coi đó là tài sản
chung của vợ chồng (khoản 3 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014). Quy định này
mang tính nguyên tắc suy đoán được áp dụng trong các trường hợp chia tài sản khi
ly hôn hoặc các trường hợp khác khi có tranh chấp về tài sản của vợ chồng. Có ý
nghĩa như một nguyên tắc có tính chất định hướng trong việc giải quyết tranh chấp
tài sản của vợ chồng.
Thứ sáu, tài sản chung xác lập dựa trên ý chí của các bên:“Tài sản chung của
vợ chồng còn bao gồm cả những tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung”
(khoản 1 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014).
Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có thể thỏa thuận nhập tài sản riêng của
mình vào tài sản chung. Có những tài sản thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng do vợ
hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế, được tặng cho riêng về nguyên
tắc đây là tài sản riêng, tuy nhiên những tài sản này sẽ là tài sản chung nếu như
trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có thỏa thuận coi là tài sản chung của vợ chồng.
Việc sáp nhập tài sản có thể thực hiện bằng hành vi như vợ hoặc chồng tự mình sử
dụng tài sản riêng vào việc chung của gia đình hoặc đưa tài sản riêng cho chồng
18
hoặc vợ định đoạt, chi tiêu chung hoặc vợ chồng thỏa thuận bằng lời nói. Đối với tài
sản là bất động sản thì việc nhập tài sản phải bằng văn bản có công chứng hoặc
chứng thực.
Quy định này hoàn toàn hợp lý và có cơ sở bởi vì trong cuộc sống gia đình,
nhiều tài sản riêng của vợ chồng được đưa vào sử dụng chung, phục vụ nhu cầu sinh
hoạt chung của tất cả các thành viên trong gia đình. Nếu cả hai vợ chồng đều có
thỏa thuận và đồng ý nhập vào khối tài sản chung thì đó là tài sản chung của vợ
chồng. Quy định này mang tính mềm dẻo, linh hoạt, nhằm đảm bảo quyền tự định
đoạt của vợ chồng về phạm vi tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất. Quy định này
cũng phù hợp với xu hướng phát triển của pháp luật nước ta là ưu tiên và khuyến
khích việc xây dựng, củng cố chế độ tài sản chung hợp nhất của vợ chồng, góp phần
củng cố sự bền vững của gia đình. Việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản
chung phải đáp ứng điều kiện quy định tại Điều 46 Luật HN&GĐ năm 2014.
Tài sản riêng của vợ, chồng (Điều 43 Luật HN&GĐ năm 2014) bao gồm:
Thứ nhất, tài sản hình thành trước khi kết hôn
Theo quy định tại Điều 43 Luật HN&GĐ 2014 thì tài sản mà mỗi bên vợ,
chồng có trước khi kết hôn là tài sản riêng của mỗi người. Tài sản mà vợ, chồng có
được trước khi kết hôn do chính công sức của vợ, chồng làm ra theo tính chất nghề
nghiệp, công việc của mình, cũng có thể có được do người khác chuyển dịch từ
quyền tài sản của họ cho người vợ, chồng thông qua các giao dịch dân sự cũng như
được tặng, cho riêng, thừa kế riêng. Vì thế, trước khi kết hôn, với tư cách là một
công dân, theo quy định của pháp luật, vợ, chồng có quyền có tài sản riêng và có thể
xác lập quyền sở hữu của mình đối với những tài sản riêng.
Quy định tài sản mà mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn là tài sản riêng
của vợ chồng đã bảo vệ được quyền sở hữu cá nhân của vợ, chồng, là căn cứ pháp
lý bảo đảm tài sản riêng của vợ chồng khi giải quyết tranh chấp trên thực tế; đồng
thời phù hợp với quy định quyền sở hữu riêng của công dân được Hiến pháp ghi
nhận và bảo vệ.
19
Thứ hai, tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn
nhân
Tài sản riêng hình thành do những căn cứ riêng do luật quy định trong thời kỳ
hôn nhân. Tài sản có nguồn gốc không phải do vợ chồng cùng nhau tạo lập mà có
nguồn gốc từ việc một bên vợ hoặc chồng được tặng cho riêng, được thừa kế riêng
trong thời kỳ hôn nhân.
Xét về nguồn gốc tài sản, những tài sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng,
được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thuộc quyền sở hữu riêng của vợ chồng.
Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014 đã quy định những tài sản này thuộc khối tài sản
riêng của vợ, chồng nhằm đảm bảo quyền tự định đoạt của các chủ sở hữu tài sản
theo quy định của pháp luật dân sự, chuyển dịch tài sản của mình cho mỗi bên vợ
chồng được hưởng. Bởi lẽ ý chí của chủ sở hữu chỉ tặng riêng cho, hoặc để lại di
chúc trước khi chết chỉ cho vợ, chồng được hưởng di sản của họ chứ không phải
cho chung cả hai vợ chồng. Những tài sản này không phải do vợ, chồng tạo ra trong
thời kì hôn nhân, theo công sức và thu nhập của vợ, chồng, nên không thể tính
thuộc vào khối tài sản chung của vợ chồng. Thực tế những tài sản này mà vợ, chồng
được thừa kế riêng, tặng cho riêng trong thời kì hôn nhân thường do những người
có thân thích, bạn bè của vợ, chồng mỗi bên cho mỗi bên vợ, chồng được hưởng
những giá trị di sản đó. Có thể do cha mẹ tặng riêng cho con trong ngày cưới; cha
mẹ chồng, vợ trước khi chết để lại di chúc cho riêng con mình là người chồng hoặc
người vợ được hưởng khối di sản đó… Cần lưu ý trong trường hợp chủ sở hữu
tuyên bố cho chung hai vợ chồng khối tài sản nào đó, tuy nhiên họ xác định kỷ phần
giá trị tài sản từ trước cho mỗi bên vợ, chồng được hưởng thì về nguyên tắc phân tài
sản đó thuộc quyền sở hữu riêng của mỗi bên vợ, chồng; chỉ là tài sản chung khi vợ,
chồng tự nguyện hòa nhập tài sản chung hoặc có thỏa thuận tài sản đó là tài sản
chung của vợ, chồng.
Đối với những đồ trang sức mà vợ, chồng được cha mẹ vợ hoặc cha mẹ chồng
tặng cho riêng trong ngày cưới là tài sản riêng, nhưng nếu những thứ đó được cha