Tải bản đầy đủ (.pdf) (175 trang)

Pháp luật về phát triển dịch vụ môi trường ở Việt Nam hiện nay (Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 175 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ THỊ KIM TUYẾN

PHÁP LUẬT VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ
MÔI TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số : 938.01.07

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Dƣơng Đăng Huệ

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận án là công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc
của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu nêu trong Luận án chưa được công bố
trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Các số liệu và trích dẫn trong Luận
án đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Võ Thị Kim Tuyến


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................................... 1


Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ
THUYẾT NGHIÊN CỨU PHÁP LUẬT VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MÔI TRƢỜNG ... 8
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án ......................................................................... 8
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án ............................................... 20
1.3. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu của đề tài luận án .................................................................... 23
Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ MÔI TRƢỜNG VÀ .................. 26
PHÁP LUẬT PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MÔI TRƢỜNG .................................................... 26
2.1. Những vấn đề lý luận về dịch vụ môi trường và phát triển dịch vụ môi trường ................. 26
2.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật phát triển dịch vụ môi trường ..................................... 35
2.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia về pháp luật phát triển dịch vụ môi trường
và gợi mở cho Việt Nam ............................................................................................................ 48
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ
MÔI TRƢỜNG Ở VIỆT NAM ............................................................................................... 70
3.1. Thực trạng các quy định pháp luật về chính sách bảo vệ môi trường liên quan đến
phát triển dịch vụ môi trường ..................................................................................................... 70
3.2. Thực trạng các quy định pháp luật về ưu đãi, hỗ trợ phát triển dịch vụ môi trường .......... 76
3.3. Thực trạng các quy định pháp luật về quản lý chất lượng dịch vụ môi trường .................. 86
3.4. Thực trạng các quy định pháp luật về giá dịch vụ môi trường ......................................... 113
Chƣơng 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÁT
TRIỂN DỊCH VỤ MÔI TRƢỜNG Ở VIỆT NAM ............................................................. 122
4.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về phát triển dịch vụ môi trường ở Việt Nam hiện nay .... 122
4.2. Quan điểm và mục tiêu hoàn thiện pháp luật về phát triển dịch vụ môi trường
ở Việt Nam ............................................................................................................................... 124
4.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về phát triển dịch vụ môi trường ở Việt Nam hiện nay .. 127
KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 146
NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN ...................................................................................................................... 149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 150



BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
1. Tiếng Anh
Chữ viết tắt

Giải nghĩa tiếng Anh

Giải nghĩa tiếng Việt

APEC

Asia-Pacific Economic
Cooperation

Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương

ASEAN

The Association of South East
Asian Nations

Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á

BPP

Beneficiary Pay Principle

Nguyên tắc người hưởng lợi từ tài
nguyên, môi trường phải có nghĩa vụ
đóng góp chi phí


CPC

Central Product Classification

Hệ thống phân loại sản phẩm
chủ yếu của LHQ

EGS

Environmental Goods and
Services

Hàng hóa và dịch vụ môi trường

EIA

Environmental Impact Assessment

Đánh giá tác động môi trường

EU

European Union

Liên minh Châu Âu

FDI

Foreign Direct Investment


Đầu tư trực tiếp nước ngoài

FTA

Free Trade Agreement

Hiệp định Thương mại tự do

GATS

General Agreement on Trade in
Services

Hiệp định chung về Thương mại
dịch vụ

General Agreement on Tariffs
and Trade

Hiệp định chung về thuế quan và
mậu dịch

GDP

Gross Domestic Product

Tổng sản phẩm quốc nội

ISO


International Standardization
Organization

Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế

IUCN

International Union for
Conservation of Nature

Hiệp hội bảo tồn tài nguyên thiên
nhiên quốc tế

NEPA

National Environment Policy Act

Luật chính sách môi trường
quốc gia

ODA

Official Development Assistance

Viện trợ phát triển chính thức

GATT



OECD

Organization for Economic
Co-operation and Development

Tổ chức hợp tác và phát triển
kinh tế

PPP

Polluter Pays Principle

Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải
trả chi phí

SPS

Sanitary and Phytosanitary
Standards

Tiêu chuẩn vệ sinh an toàn và
kiểm dịch

TBT

Technical Barriers to Trade

Hàng rào kỹ thuật trong thương mại

UNCSD


United Nations Commission on
Sustainable Development

Ủy ban của Liên hợp quốc về phát
triển bền vững

UNCTAD

United Nations Conference on
Trade and Development

Diễn đàn Thương mại và Phát triển
Liên hợp quốc

UNDP

United Nations Development
Programme

Chương trình phát triển của
Liên hợp quốc

UNEP

United Nations Environment
Program

Chương trình môi trường của
Liên hợp quốc


WCED

United Nations Commission on
Environment and Development

Ủy ban của Liên hợp quốc về
môi trường và phát triển

WTO

World Trade Organization

Tổ chức thương mại thế giới

2. Tiếng Việt
Chữ viết tắt

Giải nghĩa tiếng Việt

BVMT
CCKT
CGCN
CTNH
CTRCN
CTRSH
DVMT
ĐMC
ĐTM
GTGT

QCKT
QTMT
TN&MT
UBND

Bảo vệ môi trường
Công cụ kinh tế
Chuyển giao công nghệ
Chất thải nguy hại
Chất thải rắn công nghiệp
Chất thải rắn sinh hoạt
Dịch vụ môi trường
Đánh giá môi trường chiến lược
Đánh giá tác động môi trường
Giá trị gia tăng
Quy chuẩn kỹ thuật
Quan trắc môi trường
Tài Nguyên và Môi trường
Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Môi trường hiện nay đang là một vấn đề sống còn của mọi quốc gia, mọi dân
tộc, dù là quốc gia phát triển hay quốc gia đang phát triển. Sự ô nhiễm, suy thoái và
những sự cố môi trường diễn ra ngày càng ở mức độ cao đang đặt con người trước
những nguy cơ, hiểm họa của thiên nhiên. Nhất là tại các nước đang phát triển như
Việt Nam, nơi mà nhu cầu cuộc sống hàng ngày của con người và nhu cầu phát triển
kinh tế xã hội đang xung đột mạnh mẽ với sự cần thiết phải bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên trước nguy cơ ngày càng cạn kiệt và đặc biệt là sự xuống cấp nghiêm trọng của

chất lượng môi trường. Do đó, bảo vệ môi trường đã trở thành một trong những chính
sách quan trọng hàng đầu của các quốc gia. Bằng những biện pháp và chính sách khác
nhau, Nhà nước đang tác động tích cực đến ý thức và trách nhiệm của mỗi cá nhân, tổ
chức trong xã hội nhằm bảo vệ các yếu tố của môi trường, ngăn chặn việc gây ô
nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường. Một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu
mà các Nhà nước áp dụng nhằm bảo vệ môi trường và hướng tới mục tiêu phát triển
bền vững đó chính là pháp luật mà cụ thể là pháp luật về môi trường bên cạnh các biện
pháp khác như biện pháp tổ chức - chính trị, biện pháp giáo dục, biện pháp khoa học –
công nghệ và biện pháp kinh tế.
Mặt khác, sự gia tăng chất thải hiện nay đang là vấn đề nghiêm trọng mà các
quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt do sự gia tăng dân số và tốc độ đô thị hóa
ngày càng cao dẫn đến gia tăng nhu cầu sản xuất tiêu dùng của con người. Việt Nam là
quốc gia có mật độ dân số đứng thứ 3 ở Đông Nam Á, thứ 14 trên thế giới. Tính đến
tháng 5/2017, cả nước đã có 802 đô thị với tỷ lệ đô thị hóa 36,6%. Tốc độ đô thị hóa
cao đã bộc lộ nhiều bất cập, không chỉ ảnh hưởng đến kết cấu hạ tầng mà còn phát sinh
các vấn đề về môi trường, đặc biệt là sự gia tăng các loại hình chất thải [22]. Do đó,
nhu cầu về xử lý chất thải và cải thiện chất lượng môi trường ngày càng cao, đòi hỏi
cần có những bước phát triển mới trong lĩnh vực dịch vụ môi trường. Thực tế cho thấy,
năng lực cung ứng dịch vụ môi trường và chất lượng dịch vụ môi trường còn thấp, khu
vực tư nhân tham gia chưa nhiều, chỉ mới phát triển ở các thành phố lớn. Trước đây,
các hoạt động làm sạch, khôi phục môi trường và bảo vệ tài nguyên được xem là

1


những dịch vụ công, do các Chính phủ cung cấp. Nhưng hiện nay, do gánh nặng đối
với ngân sách ngày càng lớn, cộng với một thực tế là các doanh nghiệp nhà nước hoạt
động không hiệu quả, các Chính phủ đã tìm cách xã hội hoá lĩnh vực dịch vụ môi
trường và tạo ra các cơ chế khuyến khích tư nhân đầu tư vào lĩnh vực này. Trước tình
hình đó, đòi hỏi pháp luật phải có sự điều chỉnh đối với lĩnh vực dịch vụ này để chúng

phát triển theo đúng hướng Nhà nước mong muốn.
Trên thế giới, dịch vụ môi trường là một ngành kinh tế có đóng góp quan trọng
vào GDP, được nhiều quốc gia quan tâm, đặc biệt là ở những nước phát triển. Quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế với xu hướng tự do hóa thương mại hàng hóa và dịch vụ
ngày càng được mở rộng thì mở cửa thị trường dịch vụ môi trường trở thành một trong
những nội dung quan trọng trong các khuôn khổ hợp tác quốc tế. Việt Nam c ng đang
phải cam kết thực hiện ngày càng nhiều hơn các cam kết quốc tế có liên quan đến môi
trường, trong khi các doanh nghiệp đang gặp phải những thách thức trong việc đáp
ứng các yêu cầu về môi trường trong xuất khẩu sang các thị trường của các nước phát
triển thì việc mở cửa thị trường dịch vụ môi trường sẽ tạo điều kiện cho các đối tác
nước ngoài đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực này tại Việt Nam đồng thời hỗ trợ các
doanh nghiệp trong nước bảo vệ môi trường với chi phí thấp hơn. Do đó, các yêu cầu về
hoàn thiện khung khổ pháp lý theo hướng cạnh tranh bình đẳng, minh bạch giữa các loại
hình doanh nghiệp, sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư cho môi trường và khuyến
khích các doanh nghiệp áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật đầu tư cho phát triển dịch
vụ môi trường là việc làm rất cần thiết.
Ở Việt Nam, theo Nghị Quyết của Bộ Chính trị số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004
về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
đã coi phát triển dịch vụ môi trường là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong
lãnh đạo và quản lý phát triển đất nước theo hướng bền vững, trong đó đối với phát
triển dịch vụ môi trường đã xác định cần ―Tạo cơ sở pháp lý và cơ chế, chính sách
khuyến khích cá nhân, tổ chức và cộng đồng tham gia công tác bảo vệ môi trường.
Hình thành các loại hình tổ chức đánh giá, tư vấn, giám định, công nhận, chứng nhận
về bảo vệ môi trường; khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia các dịch vụ thu
gom, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải và các dịch vụ khác về bảo vệ môi trường‖
[3]. Ngành dịch vụ môi trường đã được luật hóa trong Luật Bảo vệ môi trường năm

2



2005 và tiếp tục được ghi nhận trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, trong đó tại
Điều 6 quy định về những hoạt động bảo vệ môi trường được khuyến khích phát triển
và tại Điều 150 quy định các lĩnh vực dịch vụ môi trường cụ thể được khuyến khích
đầu tư phát triển [63]. Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước giai
đoạn 2011 – 2020 c ng xác định “ Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường,
phát triển các dịch vụ môi trường, xử lý chất thải‖ [5]. Tại Quyết định số 1030/QĐTTg ngày 20 tháng 7 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển
ngành công nghiệp môi trường Việt Nam đến năm 2015 tầm nhìn đến năm 2025 đã coi
dịch vụ môi trường là một trong ba lĩnh vực của ngành công nghiệp môi trường (hai
lĩnh vực còn lại là thiết bị môi trường và sử dụng bền vững tài nguyên, phục hồi môi
trường) [78]. Tại Quyết định số 249/QĐ-TTg ngày 10 tháng 2 năm 2010 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển dịch vụ môi trường đến năm 2020 xác
định “Phát triển dịch vụ môi trường là một nội dung quan trọng của chiến lược phát
triển dịch vụ trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của đất nước‖ [76].
Phát triển dịch vụ môi trường là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng và
Nhà nước, là một bộ phận quan trọng của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất
nước. Đến nay, khung chính sách, pháp luật về phát triển dịch vụ môi trường đã được
Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định số 1570/QĐ-TTg ngày 9 tháng 8 năm
2016 [90]. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng để các cấp, các Bộ, ngành có liên quan
tiếp tục rà soát, hoàn thiện và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về phát triển
dịch vụ môi trường.
Như vậy, có thể thấy rằng, dưới góc độ quản lý nhà nước, sở dĩ ngành dịch vụ
môi trường ở Việt Nam chưa phát triển là do chúng ta đang thiếu một hành lang pháp
lý nhằm hỗ trợ có hiệu quả cho việc hình thành, quản lý và phát triển các loại hình
dịch vụ môi trường. Do vậy, việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá c ng như tìm ra các
nguyên nhân và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về phát triển dịch vụ môi trường
của Việt Nam hiện nay là việc làm hết sức cần thiết.
Từ tất cả các lý do nêu trên, nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề tài nghiên cứu:
“Pháp luật về phát triển dịch vụ môi trường ở Việt Nam hiện nay” để bảo vệ luận án
tiến sĩ luật học.


3


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
pháp luật phát triển dịch vụ môi trường (DVMT); chỉ ra thực trạng của pháp luật về
phát triển DVMT của Việt Nam trong thời gian qua và nguyên nhân của những thực
trạng này. Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách, pháp luật về phát
triển DVMT ở Việt Nam trong thời gian tới, góp phần bảo vệ môi trường (BVMT)
sống trong lành của người dân.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục đích nghiên cứu nói trên, luận án tập trung giải quyết các
nhiệm vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất, phân tích và làm rõ các vấn đề lý luận: (1) quan điểm về DVMT, phát
triển DVMT, pháp luật về DVMT, pháp luật về phát triển DVMT và phạm vi điều
chỉnh giữa pháp luật về DVMT với pháp luật về phát triển DVMT; (2) nguyên tắc điều
chỉnh, nội dung cơ bản và yêu cầu điều chỉnh của pháp luật về phát triển .
Thứ hai, tổng hợp, nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật có liên quan
đến phát triển DVMT của một số nước trên thế giới, qua đó gợi mở một số bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam.
Thứ ba, tổng hợp, nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về phát triển
DVMT ở Việt Nam hiện hành và từ đó đưa ra những đánh giá c ng như nguyên nhân
của thực trạng pháp luật về phát triển DVMT của Việt Nam trong thời gian qua.
Thứ tư, đề xuất các giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về phát
triển DVMT ở Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án chủ yếu là các quy định pháp luật có liên
quan đến phát triển DVMT được ghi nhận trong Luật BVMT năm 2014 và các văn bản

pháp luật khác có liên quan. Ngoài ra, luận án c ng nghiên cứu một số cam kết quốc tế
của Việt Nam có liên quan đến phát triển DVMT và pháp luật về phát triển DVMT của
một số nước trên thế giới.

4


3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ nội dung của đề tài luận án ―Pháp luật về phát triển dịch vụ
môi trường ở Việt Nam hiện nay‖. Nghiên cứu sinh cho rằng, phạm vi nghiên cứu của
luận án chỉ giới hạn trong nhóm quan hệ pháp lý giữa Nhà nƣớc với các tổ chức,
cá nhân trong xã hội (bao gồm cả tổ chức, cá nhân cung ứng DVMT và tổ chức và cá
nhân sử dụng DVMT). Còn lại các nhóm quan hệ pháp lý khác như quan hệ giữa tổ
chức, cá nhân cung ứng DVMT với tổ chức, cá nhân sử dụng DVMT với nhau sẽ do
pháp luật thương mại, pháp luật dân sự và pháp luật có liên quan khác điều chỉnh. Nội
dung của pháp luật về phát triển DVMT sẽ được nghiên cứu sinh luận giải trong
Chương II của luận án.
Ngoài ra, trong khuôn khổ giới hạn của một luận án tiến sĩ luật học, nghiên cứu
sinh không thể đi sâu phân tích tất cả các vấn đề có liên quan đến pháp luật về phát
triển DVMT. Như mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đã trình bày ở trên thì ngoài việc
đưa ra nhận thức chung về DVMT, phát triển DVMT, pháp luật về DVMT, luận án chỉ
tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận của pháp luật về phát triển DVMT. Các nội
dung không được đề cập trong luận án sẽ được nghiên cứu sinh tiếp tục làm rõ trong
các chuyên đề nguyên cứu tiếp theo.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án như sau:
- Phương pháp kế thừa có chọn lọc: nghiên cứu sinh kế thừa một số kết quả
nghiên cứu trong các tài liệu khoa học, các chương trình, đề tài nghiên cứu khoa học,
các đề án quốc tế do các tác giả trong và ngoài nước đã công bố có liên quan đến nội
dung của luận án. Cụ thể là phần lý luận chung về DVMT và kinh nghiệm của một số

quốc gia về pháp luật phát triển DVMT trong mục 2.1 và 2.3.1 Chương 2 của Luận án
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: được sử dụng trong suốt quá trình thực
hiện Luận án; bao quát trong tất cả các chương, mục của Luận án để phát hiện, luận
giải thuyết phục về các nội dung liên quan đến chủ đề luận án.
- Phương pháp thu thập và thống kê: được nghiên cứu sinh sử dụng để phân
loại, đánh giá các thông tin, tài liệu liên quan đến đề tài luận án. Cụ thể là trong mục
1.1 chương 1, mục 2.3.1 Chương 2 và toàn bộ Chương 3 của Luận án nhằm tập hợp,
phân tích, đánh giá tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến nội dung
đề tài luận án; kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới trong việc xây dựng và thực

5


hiện pháp luật về phát triển DVMT và các quy định pháp luật về phát triển DVMT của
Việt Nam trong thời gian qua.
- Phương pháp phân tích logic quy phạm: phương pháp này được nghiên cứu
sinh sử dụng chủ yếu là để phân tích thực trạng các quy định pháp luật về phát triển
DVMT trong toàn bộ Chương 3 của Luận án nhằm đưa ra một số nhận định, đánh giá.
- Phương pháp luật học so sánh: được nghiên cứu sinh sử dụng chủ yếu trong
mục 2.1 và 2.3 Chương 2 của Luận án nhằm so sánh, đối chiếu: (1) Các quan điểm của
các tổ chức quốc tế về DVMT, từ đó rút ra khái niệm về DVMT phù hợp với thực tiễn
của Việt Nam để làm tiền đề nghiên cứu cho toàn bộ luận án. (2) Kinh nghiệm xây
dựng và thực hiện pháp luật về phát triển DVMT của các nước trên thế giới để từ đó
gợi mở cho Việt Nam. Ngoài ra, nghiên cứu sinh còn sử dụng phương pháp phân tích,
so sánh phạm vi điều chỉnh giữa pháp luật về DVMT và pháp luật về phát triển
DVMT, để từ đó đưa ra các nhận định có cơ sở và làm tiền đề cho quá trình nghiên
cứu của luận án.
- Phương pháp tham khảo chuyên gia: được nghiên cứu sinh sử dụng trong mục
4.3 Chương 4 của Luận án thông qua việc tham vấn, trao đổi, phỏng vấn và tọa đàm
với các chuyên gia, các nhà khoa học trong lĩnh vực pháp luật môi trường và kinh tế

môi trường tại các buổi hội thảo khoa học chuyên ngành để có được những đánh giá
mang tính tổng hợp và liên ngành từ đó rút ra được một số nhận định chung có tính
tham khảo trong phần giải pháp và kiến nghị.
Ngoài ra, phương pháp khảo sát thực tiễn tại một số doanh nghiệp DVMT và sử
dụng các số liệu thống kê trong các Báo cáo công tác môi trường hằng năm của các cơ
quan quản lý nhà nước nhằm điều tra, tìm hiểu và đưa ra những nhận định, đánh giá
khách quan về tình hình thực hiện pháp luật phát triển DVMT của các địa phương
trong phạm vi cả nước c ng được tác giả ưu tiên áp dụng trong toàn bộ Chương 3 của
luận án.
Trong quá trình thực hiện luận án, các phương pháp này có thể sử dụng đan xen
và tiếp cận cả theo hướng đa ngành, liên ngành để thuận tiện cho việc phân tích, đánh
giá toàn bộ các vấn đề được đặt ra trong phạm vi nghiên cứu của đề tài luận án.

6


5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất, luận án đã nghiên cứu một cách có hệ thống các quan niệm về
DVMT, phát triển DVMT, pháp luật về DVMT và pháp luật về phát triển DVMT; làm
rõ phạm vi điều chỉnh giữa pháp luật về DVMT và pháp luật về phát triển DVMT.
Thứ hai, luận án xác định các nguyên tắc điều chỉnh, nội dung cơ bản và yêu
cầu điều chỉnh của pháp luật về phát triển DVMT.
Thứ ba, luận án đã phân tích và đánh giá một cách toàn diện và khách quan
thực trạng pháp luật về phát triển DVMT ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, chỉ ra được
nguyên nhân của những thực trạng này để từ đó làm cơ sở cho việc hoàn thiện pháp
luật về phát triển DVMT ở Việt Nam trong thời gian tới.
Thứ tư, luận án đưa ra nhu cầu hoàn thiện pháp luật về phát triển DVMT; hệ
thống các giải pháp đồng bộ để khắc phục những hạn chế, bất cập nhằm góp phần
hoàn thiện pháp luật về phát triển DVMT ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Trong bối cảnh hiện nay, có thể coi luận án là công trình khoa học pháp lý
nghiên cứu toàn diện, chuyên sâu về pháp luật phát triển DVMT ở Việt Nam. Những
kết luận và đề xuất, kiến nghị mà luận án nêu ra có cơ sở khoa học và thực tiễn đối với
các cơ quan lập pháp và hành pháp trong việc xây dựng và thực thi pháp luật về phát
triển DVMT. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của luận án về những vấn đề lý luận pháp
luật về phát triển DVMT có thể được dùng cho việc nghiên cứu, giảng dạy tại các
viện, trường đào tạo chuyên ngành luật hoặc làm tài liệu nghiên cứu cho các tổ chức,
cá nhân có nhu cầu tìm hiểu.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án
gồm có 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết nghiên cứu pháp
luật về phát triển dịch vụ môi trường
Chương 2. Những vấn đề lý luận về dịch vụ môi trường và pháp luật về phát
triển dịch vụ môi trường
Chương 3. Thực trạng pháp luật về phát triển dịch vụ môi trường ở Việt Nam
Chương 4. Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về phát triển dịch vụ
môi trường ở Việt Nam

7


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
NGHIÊN CỨU PHÁP LUẬT VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MÔI TRƢỜNG
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
Hiện nay, theo sự tìm hiểu và nghiên cứu của nghiên cứu sinh thì số lượng công
trình khoa học pháp lý trong nước nghiên cứu về phát triển DVMT không nhiều. Chủ
yếu là các nghiên cứu về phát triển DVMT dưới góc độ kinh tế môi trường. Do ngành
DVMT là một ngành rất mới ở nước ta và mới bắt đầu được quy định trong Luật BVMT

năm 2005 và tiếp tục được ghi nhận và phát triển trong Luật BVMT năm 2014. Hầu như
chưa có một công trình khoa học pháp lý nào trong nước nghiên cứu về phát triển
DVMT một cách đầy đủ và toàn diện. Có thể nói, đây là một hướng nghiên cứu rất mới
trong lĩnh vực pháp lý. Do vậy, việc tổng hợp và phân tích các tài liệu, công trình nghiên
cứu có liên quan trực tiếp đến nội dung đề tài của luận án hay theo phân ngành của
DVMT gặp rất nhiều khó khăn và vướng mắc. Tuy nhiên, sau một thời gian cố gắng tra
cứu các tài liệu có liên quan, nghiên cứu sinh đã chia tài liệu tham khảo thành bốn nhóm
nghiên cứu chính có nội dung liên quan đến đề tài của luận án như sau:
1.1.1. Các công trình nghiên cứu lý luận về dịch vụ môi trường, pháp luật về
dịch vụ môi trường và pháp luật về phát triển dịch vụ môi trường
Trong thời gian qua đã có khá nhiều công trình trong nước và ngoài nước
nghiên cứu lý luận về DVMT nhưng số lượng công trình nghiên cứu lý luận về pháp
luật dịch vụ môi trường và pháp luật về phát triển DVMT vẫn còn hạn chế. Nhìn
chung các công trình nghiên cứu này đều đưa ra các quan điểm của các tổ chức quốc tế
về khái niệm DVMT như quan điểm của WTO, OECD, EU, UNCTAD…, tuy nhiên
những nghiên cứu này chỉ dừng lại ở việc phân tích các quan điểm về DVMT của các
tổ chức quốc tế mà vẫn chưa đưa ra được quan điểm riêng về khái niệm DVMT. Ngoài
ra, các nghiên cứu này c ng đã chỉ ra các đặc điểm, vai trò và cách phân loại DVMT.
Kết quả của những công trình nghiên cứu này được nghiên cứu sinh kế thừa trong
phần lý luận chung về DVMT tại Mục 2.1 của Luận án. Có thể kể đến một số công
trình nghiên cứu tiêu biểu như sau:

8


(1) Nghiên cứu của Aparna Sawhney năm 2003, thuộc Hội đồng nghiên cứu về
Quan hệ kinh tế quốc tế Ấn Độ với tiêu đề “Trade in Environmental Services:
Opportunities and Constrains” [103], đã đề cập đến những cơ hội và thách thức của
Ấn Độ trong việc thực hiện các cam kết về mở cửa lĩnh vực DVMT. Trong đó, nghiên
cứu c ng chỉ rõ nguồn gốc và cấu trúc của ngành DVMT trên thế giới và Ấn Độ, đặc

biệt tập trung vào các xu hướng gần đây như tư nhân hóa và đầu tư nước ngoài vào
lĩnh vực DVMT; đưa ra việc phân loại và định nghĩa DVMT mà đã được đề cập trong
các cuộc đàm phán đa phương. Nghiên cứu c ng đưa ra các đánh giá về tác động của
việc tự do hóa ngành DVMT ở Ấn Độ bên cạnh những thế mạnh và lợi ích mang lại
cho đất nước thì c ng có những điểm yếu cần phải khắc phục trong lĩnh vực này. Từ
những đánh giá này, Nghiên cứu đã đưa ra một chiến lược đàm phán cho ngành
DVMT của Ấn Độ trong vòng đàm phán GATS 2000. Từ những lợi ích mà ngành
DVMT mang lại, nghiên cứu đã đưa ra những khuyến nghị cải cách các quy định, thủ
tục trong nước để đảm bảo công bằng và phát triển bền vững trong việc cung cấp các
DVMT ở Ấn Độ. Kết quả của nghiên cứu này được nghiên cứu sinh sử dụng trong
Mục 2.1 Chương 2 của Luận án, trong đó nghiên cứu sinh đã tham khảo một số khái
niệm và kế thừa cách phân loại DVMT mà nghiên cứu này đã chỉ ra, trên cơ sở đó đưa
ra quan điểm riêng của mình về khái niệm DVMT phù hợp với điều kiện của Việt
Nam; đồng thời tham khảo một số khuyến nghị trong việc cải cách các chính sách
pháp luật có liên quan đến phát triển DVMT để áp dụng vào thực tiễn của Việt Nam.
(2) Nghiên cứu của Colin Kirkpatrick (2006), thuộc trung tâm quốc tế về phát
triển thương mại bền vững (ICTSD), với tiêu đề ―Trade in environmental service:
Assessing the implications for developing countries in the GATS‖ [105]. Nghiên cứu
đã phân tích cam kết DVMT trong các đàm phán dịch vụ của WTO; Cách phân loại
DVMT theo quan điểm phát triển bền vững; Trên cơ sở phân tích cấu trúc thị trường
hiện có, phương thức cung cấp DVMT và các vấn đề liên quan mà các nước đang phát
triển quan tâm trong lĩnh vực DVMT, đó là việc nhập khẩu dịch vụ cơ sở hạ tầng môi
trường và xuất khẩu DVMT thương mại. Qua đó hỗ trợ các nước đang phát triển cách
thức chuẩn bị các bước tiến hành đàm phán các cam kết DVMT trong GATS. Nghiên
cứu c ng đã đưa ra những đánh giá về sự tác động của các cam kết trong GAST đối
với các nước đang phát triển nhằm nâng cao năng lực cho các nước này trong việc hiểu

9



rõ mối quan hệ giữa vấn đề phát triển thương mại bền vững với hàng hóa DVMT. Từ
việc đánh giá tác động của các cam kết DVMT trong khuôn khổ GATS đối với sự phát
triển bền vững là mang lại những lợi ích cho các nước đang phát triển góp phần tăng
trưởng kinh tế, giảm nghèo trong khi vẫn bảo vệ tài nguyên môi trường sẽ giúp các
nước này có những lựa chọn thích hợp, phán ánh những ưu tiên, những quan điểm khu
vực trong các cuộc đàm phán thương mại đa phương và khu vực. Kết quả nghiên cứu
này c ng được Nghiên cứu sinh sử dụng trong Mục 2.1 của Luận án về cách phân loại
DVMT theo quan điểm phát triển bền vững.
(3) Nghiên cứu của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) năm 2005,
Trade that Benefits the Environment and Development: Opening Markets for
Environmental Goods and Services [116]. Trong đó, tại trang 131 của Nghiên cứu đã
đưa ra quan điểm của OECD về “dịch vụ môi trường‖. Trên cơ sở tham khảo khái
niệm của OECD, nghiên cứu sinh đã đưa ra quan điểm riêng của mình về khái niệm
“dịch vụ môi trường‖ phù hợp với điều kiện thực tiễn tại Việt Nam. Nội dung này sẽ
được nghiên cứu và phân tích trong Mục 2.1 Chương 2 của Luận án.
(4) Công trình nghiên cứu của Vụ Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường
(TN&MT) về ―Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng chính sách phát triển
DVMT phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế ở nước ta‖ năm 2005 [14]. Nghiên cứu này
đã làm rõ được các vấn đề lý luận về DVMT, phân loại chúng và đánh giá vai trò của nó
đối với công tác BVMT và phát triển kinh tế. Nghiên cứu c ng đã phân tích khái quát
thực trạng phát triển DVMT ở nước ta trong một số phân ngành như: Dịch vụ thu gom
và xử lý chất thải; cung cấp nước sạch, xử lý nước thải, khí thải; dịch vụ tư vấn môi
trường. Nghiên cứu đã đề xuất các giải pháp phát triển lĩnh vực này như tạo dựng khung
khổ pháp lý, mô hình phát triển các loại hình dịch vụ. Nghiên cứu này là một tài liệu
tham khảo quan trọng cho luận án về phần lý luận cho việc xây dựng chính sách phát
triển DVMT và được nghiên cứu sinh kế thừa trong Mục 2.1 Chương 2 của Luận án.
(5) Báo cáo ―Cơ sở lý luận về phát triển DVMT‖ trong khuôn khổ dự án “Xây
dựng chiến lược phát triển dịch vụ môi trường đến năm 2020 và định hướng đến năm
2030” năm 2010 do Bộ TN&MT phối hợp với chương trình hỗ trợ hậu gia nhập WTO
thực hiện [16]. Báo cáo này cung cấp các cơ sở lý luận nhằm làm rõ hơn các quan

điểm, khái niệm, loại hình và vai trò của DVMT trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc

10


tế hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Kết quả của nghiên cứu này c ng được
nghiên cứu sinh kế thừa trong Mục 2.1 Chương 2 của Luận án.
(6) Bài viết ―Cơ sở lý luận của pháp luật về phát triển dịch vụ môi trường‖ của
tác giả Võ Thị Kim Tuyến đăng trên Tạp chí Luật học số 10 năm 2018 [98]. Bài viết là
đưa ra quan điểm riêng của tác giả về khái niệm DVMT, phát triển DVMT, pháp luật
DVMT, pháp luật về phát triển DVMT; chỉ ra các nguyên tắc, những nội dung cơ bản,
yêu cầu điều chỉnh của pháp luật về phát triển DVMT. Đồng thời bài viết c ng đã làm
rõ được phạm vi điều chỉnh của pháp luật về DVMT với pháp luật về phát triển
DVMT. Có thể nói đây là kết quả nghiên cứu hoàn toàn mới chưa có trong các công
trình nghiên cứu trước đây. Kết quả nghiên cứu này được nghiên cứu sinh sử dụng
trong Tiểu mục 2.1.4 và Mục 2.2 Chương 2 của Luận án.
(7) Luận án tiến sĩ luật học ―Pháp luật về sử dụng các công cụ kinh tế trong
bảo vệ môi trường‖ của tác giả Nguyễn Ngọc Anh Đào tại Học viện Khoa học xã hội
năm 2013 [46]. Luận án đã phân tích và đánh giá một cách toàn diện và khách quan về
thực trạng pháp luật về sử dụng công cụ kinh tế (CCKT) trong BVMT ở Việt Nam. Từ
đó, chỉ ra được những ưu điểm và hạn chế trong các quy định pháp luật về sử dụng
CCKT trong BVMT ở Việt Nam làm cơ sở đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn
thiện pháp luật về sử dụng CCKT trong BVMT ở Việt Nam. Đây là một nghiên cứu
mà luận án có thể tham khảo và kế thừa một số vấn đề lý luận về pháp luật sử dụng
CCKT trong BVMT để qua đó thấy được tầm quan trọng của việc áp dụng các CCKT
đối với BVMT nói chung và phát triển DVMT nói riêng.
(8) Luận án tiến sĩ luật học: ―Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không
khí ở Việt Nam‖ của tác giả Bùi Đức Hiển tại Học viện Khoa học Xã hội năm 2016
[50]. Nghiên cứu đã làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về pháp luật
kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam. Từ đó đề xuất giải pháp nhằm

hoàn thiện chính sách, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí. Đây là một nghiên
cứu pháp lý chuyên sâu về mặt lý luận của một phân ngành DVMT, đó là dịch vụ xử
lý khí thải. Do vậy, nghiên cứu sinh có thể sẽ tham khảo một số vấn đề lý luận trong
quá trình thực hiện luận án.
(9) Luận án tiến sĩ luật học: ―Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô
nhiễm môi trường gây ra ở Việt Nam‖ của tác giả Bùi Kim Hiếu tại Học viện khoa học

11


xã hội năm 2015 [51]. Luận án thể hiện được nội dung nguyên tắc đặc trưng của pháp
luật về môi trường nói chung và pháp luật về phát triển DVMT nói riêng, đó là ―người
gây ô nhiễm phải trả tiền‖ (PPP) để xử lý, khắc phục hậu quả, cải tạo và phục hồi môi
trường. Nguyên tắc này được nghiên cứu sinh kế thừa trong chương 2 của luận án…
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về kinh nghiệm của các nước trên thế giới
về pháp luật phát triển dịch vụ môi trường; các cam kết quốc tế của Việt Nam liên
quan đến phát triển dịch vụ môi trường và bài học cho Việt Nam
Trên thế giới đã có một số công trình nghiên cứu về kinh nghiệm phát triển
DVMT của một số nước. Điển hình là các nghiên cứu trong khuôn khổ dự án “Sáng
kiến khu vực châu Á Thái Bình Dương về thương mại, điều hành kinh tế và phát triển
nhân lực‖, tháng 6/2003 [71]. Một trong những nội dung của dự án là nghiên cứu về
các chính sách thương mại DVMT của các nước Thái Lan, Pakistan, Việt Nam, Trung
Quốc, Hồng Kông. Qua đó, đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cho các
nước này trong việc thực hiện các cam kết về mở cửa thị trường DVMT. Nghiên cứu
này c ng đã đề cập đến những nguyên tắc của việc mở cửa thị trường DVMT và
những phương thức trao đổi DVMT mà các nước nói trên cần lựa chọn trong quá trình
thực hiện cam kết WTO. Kết quả của những nghiên cứu này được nghiên cứu sinh sử
dụng trong Tiểu mục 2.3.1 Chương 2 của Luận án về kinh nghiệm của các nước Thái
Lan, Trung Quốc trong việc thực hiện các chính sách pháp luật có liên quan đến phát
triển DVMT. Những nghiên cứu đó là:

- Sitanon Jesdapipat (2003), An Asian Synthesis on Environmental Services
Trade under GATS and Humen Development, Bangkok. [121]
- Nguyen Thanh Giang (2003), Trade in Environmental Services and Human
Development, Country Case Study of Vietnam, Hanoi. [111]
- Piter Hills (2003), Trade in Environmental Services and Human
Development, Country Case Study of China and Hong Kong Special Administrative
Region. [117]
Một nghiên cứu khác của Trung tâm nghiên cứu Chính sách về kinh tế và môi
trường của Trung Quốc năm 2003 với tiêu đề “Strategy for Trade Liberalization in
Environmental Services in China” [118], trong đó đã phân tích một số chính sách pháp
luật có liên quan đến phát triển thương mại DVMT của Trung Quốc trong quá trình

12


mở cửa tự do hoá thương mại, đề xuất lộ trình mở cửa DVMT và các phương thức trao
đổi dịch vụ này khi Trung Quốc gia nhập WTO. Kết quả nghiên cứu này c ng được
nghiên cứu sinh sử dụng trong Mục 2.3 Chương 2 của Luận án về kinh nghiệm của
Trung Quốc trong việc thực hiện các chính sách pháp luật có liên quan đến phát triển
DVMT và đưa ra gợi mở cho Việt Nam.
Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu khác trên thế giới có nội dung
liên quan đến kinh nghiệm phát triển DVMT như: APEC Committee on Trade and
Invesment (2010), ―Survey on APEC trade libelization in environmental services‖
[104]; OECD (2000), ―The global environmental goods and service industry‖ [115];
OECD/Eurostat (1999), ―Environmental Goods and Services Industry Manual for the
Collection and Analysis of Data,” OECD, Paris [114]; WTO (1998), “Environmental
Services - Background Note by the Secretariat‖, S/C/W/46, 6 July, Geneva [130];
UNCTAD (2003b), ―Environmental Goods and Services in Trade and Sustainable
Development: Note by the Secretariat‖, TD/B/COM.1/EM.21/2, Geneva [126]…
Tại Việt Nam c ng đã có một số nghiên cứu về vấn đề này, cụ thể như sau:

(1) Báo cáo tổng hợp ―Kinh nghiệm quốc tế về phát triển DVMT‖ trong khuôn
khổ dự án “Xây dựng chiến lược phát triển dịch vụ môi trường đến năm 2020 và định
hướng đến năm 2030” năm 2010 do Bộ TN&MT phối hợp với chương trình hỗ trợ hậu
gia nhập WTO thực hiện [15]. Báo cáo nghiên cứu khung pháp lý, kinh nghiệm xây
dựng, chiến lược, định hướng chính sách về phát triển DVMT của một số nước như
EU, Mỹ, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan…đồng thời Báo cáo c ng nghiên cứu kinh
nghiệm về việc quy hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng về DVMT; Kinh nghiệm về chính
sách mở cửa cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài thành lập hiện diện thương mại;
Nghiên cứu kinh nghiệm và mô hình hợp tác công tư trong việc cung cấp các DVMT;
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc phát triển DVMT. Kết quả của nghiên
cứu này được nghiên cứu sinh kế thừa trong Mục 2.3 Chương 2 của Luận án.
(2) Các nghiên cứu trong khuôn khổ dự án hỗ trợ chính sách Thương mại và
Đầu tư của Châu Âu (EU-MUTRAP) với tiêu đề ―Promotion of FDIS in the sector of
environmental goods and services‖ của Tiến sĩ David Luff và các cộng sự gồm Dr.
Nguyen Hoang Minh; Msc. Lai Van Manh; Msc. Dang Thi Phuong Ha năm 2015
[107]. Mục đích của toàn bộ nghiên cứu là hỗ trợ nâng cấp và điều chỉnh khung chính

13


sách nhằm thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều hơn trong lĩnh vực hàng hóa và
dịch vụ môi trường (Environmental Goods and Services - EGS). Dự án này, được chia
làm hai phần nghiên cứu riêng biệt như sau:
Trong phần thứ nhất, nghiên cứu đưa ra những phân tích về các khoản đầu tư hiện
có ở Việt Nam trong lĩnh vực EGS, trong đó phân tích mức đầu tư nội địa và mức đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam trong lĩnh vực EGS. Nghiên cứu c ng đưa ra cái
nhìn tổng quan về thị trường EGS ở Việt Nam, tổng hợp các chính sách và quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành liên quan đến EGS. Phần này, nghiên cứu c ng phân tích
cam kết quốc tế hiện hành như các cam kết trong khuôn khổ APEC, ASEAN, WTO…
đang ảnh hưởng đến chính sách của Việt Nam về EGS trong đầu tư và BVMT.

Phần hai, nghiên cứu đã chỉ ra các cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong
việc thúc đẩy đầu tư lĩnh vực EGS. Dựa vào nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước
thứ 3 về sự phát triển của cơ chế ưu đãi để thu hút đầu tư vào lĩnh vực EGS. Qua đó,
nghiên cứu làm rõ các công cụ, chính sách để thúc đẩy lĩnh vực EGS phát triển và đưa
ra các khuyến nghị đối với Việt Nam trong việc hoàn thiện các chính sách và quy định
pháp luật liên quan đến thúc đẩy EGS.
Đây là một nghiên cứu rất quan trọng mà nghiên cứu sinh đã sử dụng trong
Mục 2.3 Chương 2 của Luận án về kinh nghiệm của một số nước Châu Âu trong việc
sử dụng các cơ chế ưu đãi, hỗ trợ để thu hút các nhà đầu tư vào lĩnh vực DVMT và
đưa ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc phát triển DVMT. Đồng
thời, nghiên cứu sinh c ng đã tham khảo một vài khuyến nghị đối với Việt Nam trong
việc hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến phát triển DVMT để đưa ra một
số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về phát triển DVMT ở Việt Nam trong thời
gian tới tại Mục 4.3 Chương 4 của Luận án.
(3) Bài viết ―Một số cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến phát triển
dịch vụ môi trường‖ của tác giả Võ Thị Kim Tuyến đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp
luật số 11 (308) năm 2017 [97]. Trong đó, tác giả đã phân tích một số cam kết quốc tế
của Việt Nam có liên quan đến phát triển DVMT trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế
như WTO, ASEAN, APEC, EU…Tác giả c ng đã đưa ra một số nhận định và đánh
giá sự phù hợp giữa pháp luật Việt Nam với các cam kết quốc tế về DVMT. Kết quả
nghiên cứu đã được nghiên cứu sinh kế thừa trong phần Phụ lục I, II, III của Luận án.

14


(4) Nghiên cứu ―Kinh nghiệm sử dụng công cụ kinh tế trong quản lý chất thải
rắn trên thế giới - Một vài khuyến nghị cho Việt Nam‖ của Trung tâm thông tin và dự
báo kinh tế - xã hội Quốc gia/ Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2015 [11]. Nghiên cứu đã
tổng hợp một số CCKT trong quản lý chất thải rắn và đồng thời chỉ ra kinh nghiệm sử
dụng các CCKT trong quản lý chất thải rắn tại một số quốc gia trên thế giới c ng như

đề xuất một số kiến nghị hiệu quả cho thực tiễn thực hiện quản lý chất thải rắn tại Việt
Nam. Kết quả của nghiên cứu này c ng được nghiên cứu sinh sử dụng trong Mục 2.3
của Luận án về kinh nghiệm sử dụng các CCKT trong phát triển DVMT tại Việt Nam.
(5) Bài viết “Hợp tác công tư trong lĩnh vực dịch vụ môi trường đô thị - Kinh
nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam‖ của Tiến sĩ Trần Ngọc Ngoạn đăng trên Tạp
chí Môi trường số 1 năm 2016 [56]. Bài viết đề cập đến xu hướng phát triển trên thế
giới và kinh nghệm hợp tác công tư của các nước Singapore, Trung Quốc trong
DVMT đô thị và từ đó rút ra bài học cho Việt Nam. Kết quả của nghiên cứu này được
nghiên cứu sinh tham khảo và sử dụng trong Mục 2.3 của Luận án về kinh nghiệm của
Singapore và Trung Quốc về hợp tác công tư trong phát triển DVMT và bài học cho
Việt Nam trong triển khai áp dụng trên thực tiễn.
1.1.3. Các công trình nghiên cứu thực trạng pháp luật về phát triển dịch vụ
môi trường ở Việt Nam
(1) Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Bộ TN&MT về ―Điều tra, khảo sát,
xây dựng đề án phát triển mạng lưới doanh nghiệp dịch vụ môi trường ở Việt Nam đến
năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020‖ năm 2012 và―Xây dựng, hoàn thiện khung chính
sách, pháp luật về phát triển dịch vụ môi trường ở Việt Nam‖ năm 2013 [18], [19]. Có
thể nói đây là những nghiên cứu liên quan trực diện nhất đến đề tài luận án mà nghiên
cứu sinh có thể kế thừa và tham khảo một số nội dung như sau: kết quả Điều tra, khảo
sát việc thực hiện một số chính sách, pháp luật có liên quan đến phát triển DVMT ở
Việt Nam; từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá việc triển khai thực hiện một số
chính sách, pháp luật hiện hành có liên quan đến phát triển DVMT ở Việt Nam; đồng
thời tham khảo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về chính sách, pháp luật
phát triển DVMT và bài học cho Việt Nam. Tuy nhiên, nghiên cứu này mới chỉ dừng
lại ở cơ sở thực tiễn của việc xây dựng pháp luật về phát triển DVMT mà chưa đề cập
đến các cơ sở lý luận của việc xây dựng pháp luật về phát triển DVMT ở Việt Nam

15



hiện nay, đó là chưa đưa ra được khái niệm về phát triển DVMT, pháp luật về DVMT
và pháp luật về phát triển DVMT, chưa phân định rõ phạm vi điều chỉnh giữa pháp
luật về DVMT với pháp luật về phát triển DVMT, chưa chỉ ra nguyên tắc và yêu cầu
điều chỉnh của pháp luật về phát triển DVMT.
(2) Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Bộ Công Thương về ―Điều tra,
đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ môi trường ở Việt Nam. Đề xuất chính sách
phát triển dịch vụ môi trường phù hợp với các cam kết quốc tế trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế‖ do Tiến sĩ Hồ Trung Thanh làm chủ nhiệm đề tài năm 2008
[71]. Nghiên cứu đề cập đến thực trạng phát triển của các loại hình DVMT của Việt
Nam, đồng thời cung cấp thông tin chi tiết về năng lực cạnh tranh, giá cả, phương thức
cung cấp, năng lực cung cấp của các doanh nghiệp trong nước về DVMT, khảo sát chi
tiết toàn bộ các loại hình dịch vụ trên phạm vi cả nước. Đặc biệt, nghiên cứu đề cập
đến những vấn đề liên quan đến việc Việt Nam thực hiện các cam kết mở của thị
trường dịch vụ, đưa ra lộ trình mở cửa, lựa chọn các hình thức cung cấp dịch vụ cho
từng loại hình để từ đó xây dựng các quy định pháp luật tiết chế hoạt động của các loại
hình DVMT của các nước sẽ hoạt động ở nước ta. Đây c ng là một nghiên cứu rất
quan trọng mà nghiên cứu sinh có thể tham khảo về phần thực trạng phát triển DVMT
tại Việt Nam trong thời gian qua giúp nghiên cứu sinh có cái nhìn toàn diện hơn về
bức tranh tổng thể ngành DVMT. Tuy nhiên nghiên cứu này c ng chỉ mới dừng lại ở
góc độ kinh tế môi trường mà chưa phân tích được nhiều về khía cạnh pháp lý.
(3) Báo cáo tổng hợp ―Đánh giá thực trạng DVMT Việt Nam‖ trong khuôn khổ
dự án “Xây dựng chiến lược phát triển dịch vụ môi trường đến năm 2020 và định
hướng đến năm 2030” năm 2010 do Bộ TN&MT phối hợp với chương trình hỗ trợ hậu
gia nhập WTO thực hiện [17]. Báo cáo đưa ra các đánh giá về chính sách phát triển
DVMT của Việt Nam hiện nay từ đó phát hiện những hạn chế, bất cập của những
chính sách này. Đồng thời Báo cáo c ng đưa ra các đánh giá thực trạng năng lực của
các doanh nghiệp cung ứng DVMT Việt Nam và đánh giá nhu cầu về DVMT của Việt
Nam hiện nay và xu hướng trong thời gian tới. Trên cơ sở các phân tích, đánh giá về
chính sách, nhu cầu phát triển DVMT của Việt Nam, Báo cáo đã đề xuất những
khuyến nghị mang tính định hướng chiến lược nhằm mục tiêu phát triển DVMT.


16


(4) Bài viết ―Hiện trạng và chính sách phát triển ngành công nghiệp môi
trường Việt Nam‖ của Thạc sĩ Phạm Sinh Thành, Bộ Công Thương, đăng trên Tạp chí
Môi trường số 10/2015 [72]; Bài viết ―Thực trạng và chính sách phát triển dịch vụ
môi trường ở Việt Nam‖ của Thạc sĩ V Đình Nam, Tổng Cục Môi trường, đăng trên
Tạp chí Môi trường số 1-2/2013 [54]. Các bài viết cung cấp cái nhìn thực trạng và
chính sách của ngành công nghiệp môi trường nói chung, ngành DVMT nói riêng và
đưa ra một số đánh giá, nhận xét có thể tham khảo trong quá trình viết luận án.
(5) Bài viết về “Đề án phát triển ngành công nghiệp môi trường của Việt Nam:
Kết quả thực hiện sau 5 năm - nh ng thành công, thất bại, nguyên nhân và bài học
kinh nghiệm‖ của Thạc sĩ Chu Văn Giáp, Vụ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công
Thương tại Hội thảo về “Tự do hoá thương mại đối với hàng hoá và DVMT” tại Việt
Nam năm 2015 [9]. Bài viết nhấn mạnh: Ngành công nghiệp môi trường của Việt Nam
hiện mới đang ở những bước đi đầu tiên, với số lượng doanh nghiệp ít, năng lực hạn
chế, chưa thực sự phát triển. Một trong những bất cập hiện nay khiến ngành công
nghiệp môi trường chưa phát triển được như kỳ vọng là do thiếu các cơ chế chính
sách, đặc biệt cơ chế chính sách nhằm thúc đẩy chủ trương xã hội hóa và hiện thực hóa
nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả phí”, triệt để xóa bỏ bao cấp trong môi trường.
Đây là những nhận định quan trọng giúp nghiên cứu sinh có được cái nhìn tổng thể về
thực trạng ngành công nghiệp môi trường nói chung trong đó có DVMT nói riêng.
Đồng thời, nghiên cứu sinh c ng tham khảo phần đánh giá về mặt hạn chế của ngành
công nghiệp môi trường hiện nay.
(6) Bài viết ―Xây dựng chính sách phát triển dịch vụ môi trường tại Việt Nam‖
của Thạc sĩ Dương Thị Thanh Xuyến và Tiến sĩ Nguyễn Thị Phương Mai đăng trên
Tạp chí Môi trường số 4/2016 [102]. Bài viết phân tích và chỉ ra các nội dung của
khung chính sách pháp luật về phát triển DVMT ở Việt Nam. Đây là một nghiên cứu
mà nghiên cứu sinh đã tham khảo trong phần xây dựng khung pháp luật về phát triển

DVMT ở Việt Nam hiện nay trong chương 3 của Luận án.
(7) Luận án tiến sĩ luật học: “Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do các
hoạt động của làng nghề gây ra ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Kim Nguyệt tại
Học viện Khoa học xã hội năm 2015 [57]. Luận án chỉ ra được nhu cầu cần hoàn thiện
pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do thực tiễn hoạt động của các làng nghề ở

17


Việt Nam hiện nay. Đây là một công trình nghiên cứu cung cấp cái nhìn thực tế liên
quan đến phân ngành dịch vụ xử lý chất thải tại các làng nghề Việt Nam hiện nay mà
nghiên cứu sinh có thể tham khảo…
1.1.4. Các công trình nghiên cứu nhu cầu, quan điểm và giải pháp hoàn
thiện pháp luật về phát triển dịch vụ môi trường ở Việt Nam
Trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề BVMT trong
quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa nhằm hướng tới sự phát triển bền vững của
Việt Nam. Tiêu biểu là một số bài viết dưới góc độ kinh tế môi trường như: (1) Sách
―Kinh tế hóa lĩnh vực môi trường: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn‖ do Nhà xuất bản
Tư pháp xuất bản năm 2011 – Sách được xuất bản trong khuôn khổ hợp tác giữa Tổng
cục Môi trường, Viện Khoa học Quản lý môi trường và Hợp phần Kiểm soát ô nhiễm tại
các khu vực đông dân nghèo - PCDA do PGS.TS. Phạm Văn Lợi chủ biên. Cuốn sách
làm rõ hơn khái niệm, mục tiêu, nguyên tắc và nội dung của kinh tế hóa lĩnh vực môi
trường, đồng thời làm rõ những vướng mắc, bất cập trong quá trình triển khai, để từ đó
có thể kiến nghị, đề xuất những giải pháp nhằm đẩy mạnh kinh tế hóa lĩnh vực môi
trường; Sách “Chính sách công nghiệp định hướng phát triển bền v ng – nh ng vấn đề
lý luận và kinh nghiệm thế giới‖ do Tiến sĩ Trần Ngọc Ngoạn chủ biên của nhà xuất bản
Khoa học xã hội năm 2008; Sách “Giáo trình kinh tế môi trường‖ do Giáo sư Hoàng
Xuân Cơ chủ biên của nhà xuất bản Giáo dục năm 2005... [52],[55],[45]. Đây là những
nghiên cứu làm nền tảng cho việc đưa ra các quan điểm, định hướng phát triển DVMT
trong quá trình hướng tới phát triển bền vững của nước ta.

(2) Bài viết ―International experience in trade liberalization negotiation for
environmental goods and services: Lesson learnt and options for Viet Nam‖ của Tiến
sĩ David Luff - Chuyên gia Dự án EU-MUTRAP năm 2015 tại Hội thảo về “Tự do hoá
thương mại đối với hàng hoá và DVMT” tại Việt Nam [107]. Bài viết chia sẻ về kinh
nghiệm quốc tế trong đàm phán tự do hóa thương mại đối với hàng hóa và DVMT.
Qua đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam: cần phải áp dụng chiến lược đàm
phán thương mại phù hợp để tham gia đàm phán có hiệu quả, cần lập danh mục các
sản phẩm sẽ được giảm thuế, có thể xác định theo nhu cầu sử dụng địa phương hoặc
lợi thế so sánh. Kết quả nghiên cứu này c ng được nghiên cứu sinh tham khảo để định

18


hướng trong việc hoàn thiện pháp luật về phát triển DVMT tại Việt Nam phù hợp với
các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia và xu thế chung của thế giới.
(3) Tài liệu chương trình hội thảo, triển lãm quốc gia về sản phẩm công nghiệp
môi trường trong ngành Công Thương năm 2014, trong đó có các bài viết: Một số kết
quả thực hiện Đề án phát triển ngành công nghiệp môi trường giai đoạn 2011 -2015,
định hướng phát triển giai đoạn 2016 -2020 của Tiến sĩ Nguyễn Huy Hoàn, Vụ Khoa
học và Công Nghệ, Bộ Công Thương; Tình hình phát triển công nghiệp môi trường và
sản suất sản phẩm công nghiệp môi trường của Tiến sĩ Dương Đình Giám, Viện
nghiên cứu chiến lược chính sách Công nghiệp, Bộ Công Thương; Hợp tác quốc tế để
phát triển công nghiệp môi trường ở Việt Nam của Tổng cục Môi Trường, Bộ
TN&MT; Một số kinh nghiệm từ vấn đề phát triển công nghiệp môi trường trên thế
giới của tác giả Huỳnh Trung Hải, Viện Khoa học và Công nghệ Môi trường, Đại học
Bách khoa Hà Nội [8]…Các bài viết đề cập đến hiện trạng phát triển ngành công
nghiệp môi trường của Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp DVMT nói riêng
thông qua kết quả khảo sát, phân tích, đánh giá các số liệu thực tế và từ kinh nghiệm
phát triển ngành công nghiệp môi trường của một số nước trên thế giới, các tác giả đưa
ra các giải pháp nhằm phát triển ngành công nghiệp môi trường trong đó có DVMT.

Đây là những nghiên cứu mà nghiên cứu sinh có thể kế thừa về kinh nghiệm của các
nước trong phát triển DVMT và phần giải pháp phát triển DVMT dưới góc độ pháp lý.
(4) Bài viết ―Thực trạng các chính sách, pháp luật liên quan đến phát triển
dịch vụ môi trường của Việt Nam hiện nay và một số kiến nghị‖ của tác giả Võ Thị
Kim Tuyến đăng trên Tạp chí Công Thương số 08 năm 2017 [95]. Bài viết phân tích
một số chính sách, pháp luật nhằm hỗ trợ phát triển DVMT hiện nay nhằm chỉ ra điểm
hạn chế, bất cập. Từ đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách,
pháp luật về phát triển DVMT của Việt Nam trong thời gian tới.
(5) Bài viết ―Phát triển ngành DVMT của Việt Nam trong hội nhập quốc tế‖
của Tiến sĩ Phạm Nguyên Minh cùng các tác giả Ths.Trần Huy Hoàn và Ths. Võ Thị
Kim Tuyến trong sách chuyên khảo “Một số vấn đề thương mại và logistics ở Việt
Nam thời kỳ đổi mới 1986 – 2016” năm 2016 của Nhà xuất bản Lao động – Xã hội
[53]. Bài viết đã đưa ra khái niệm và phân loại về DVMT trên thế giới và của Việt
Nam, đồng thời bài viết c ng đã đưa ra những đánh giá, nhận định về thực trạng phát

19


triển DVMT ở Việt Nam và các chính sách hỗ trợ phát triển DVMT. Qua đó, đưa ra
một số khuyến nghị và giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển DVMT ở Việt Nam.
(6) Bài viết ―Các cam kết quốc tế về tự do hoá thương mại đối với hàng hoá và
dịch vụ môi trường của Việt Nam‖ của Thạc sĩ Trần Huy Hoàn - Chuyên gia Dự án
EU-MUTRAP, tài liệu Hội thảo về Tự do hoá thương mại đối với hàng hoá và DVMT
tại Việt Nam năm 2015 [9]. Bài viết chỉ ra những cơ hội nhưng c ng không ít thách
thức khi Việt Nam tham gia vào các cam kết quốc tế về tự do hóa thương mại đối với
hàng hóa và DVMT. Theo đó, Việt Nam sẽ được đề xuất danh mục và mô hình đàm
phán có lợi cho quốc gia. Đây là một nghiên cứu mà luận án có thể tham khảo về phần
hội nhập quốc tế trong lĩnh vực DVMT để từ đó đưa ra những khuyến nghị cho Việt
Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về DVMT phù hợp với các cam kết
quốc tế mà Việt Nam đã tham gia...

(7) Bài viết ―Điều chỉnh pháp luật về phát triển công nghiệp môi trường tại
Việt Nam – Nhu cầu và định hướng” của tác giả V Thị Duyên Thủy đăng trên Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật số 10 (295) năm 2016 [73]. Trong bài viết này, tác giả đã
phân tích những nhu cầu và định hướng điều chỉnh pháp luật về phát triển công nghiệp
môi trường tại Việt Nam hiện nay. Đây là một nghiên cứu mà nghiên cứu sinh có thể
tham khảo trong Chương 4 của Luận án về nhu cầu, định hướng điều chỉnh pháp luật
về phát triển công nghiệp môi trường nói chung, DVMT nói riêng…
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Qua tổng quan về tình hình nghiên cứu ở trong và ngoài nước liên quan đến chủ
đề của luận án mà nghiên cứu sinh tiếp cận được, có thể đưa ra một số đánh giá, nhận
định như sau:
1.2.1. Những thành tựu trong nghiên cứu mà luận án kế thừa và tiếp tục
phát triển
Hiện nay, các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế và xã hội đang được hoàn
thiện và đổi mới theo hướng phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của đất nước,
cùng với những nhận thức về BVMT của các cộng đồng dân cư trong xã hội đang dần
được nâng cao sẽ tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển ngành DVMT trong
tương lai. Ở Việt Nam, ngành DVMT hiện còn rất mới mẻ, chỉ mới được luật hóa
trong Luật BVMT năm 2005. Nhưng phải đến Luật BVMT năm 2014 thì các quy định

20


×