Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của đảng bộ quận 6, thành phố hồ chí minh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.41 KB, 118 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

HUỲNH HIỆP SĨ

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC
KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG BỘ QUẬN 6,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC

HÀ NỘI - 2014


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

HUỲNH HIỆP SĨ

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC
KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG BỘ QUẬN 6,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
MÃ SỐ: 60 31 02 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM ĐÌNH NHỊN

HÀ NỘI - 2014



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1

3
CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM
SÁT CỦA ĐẢNG BỘ QUẬN 6 THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ

1.1

LUẬN, THỰC TIỄN
Công tác kiểm tra, giám sát và chất lượng công tác

10

kiểm tra, giám sát của Đảng bộ quận 6 thành phố Hồ
1.2.

Chí Minh
Thực trạng và một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng

10

công tác kiểm tra, giám sát ở Đảng bộ quận 6 thành
Chương 2

phố Hồ Chí Minh

NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO

39

CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM
SÁT Ở ĐẢNG BỘ QUẬN 6 THÀNH PHỐ HỒ
2.1.

CHÍ MINH HIỆN NAY
Sự phát triển tình hình, nhiệm vụ và yêu cầu nâng cao

62

chất lượng công tác kiểm tra, giám sát ở Đảng bộ
2.2.

quận 6 thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
Một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng công tác

62

kiểm tra, giám sát ở Đảng bộ quận 6 thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

70
108
110

114

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kiểm tra, giám sát là một hoạt động thuộc chức năng lãnh đạo của
Đảng, khâu quan trọng trong công tác lãnh đạo và là nội dung của công tác


xây dựng Đảng, góp phần xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức. Tiến hành tốt công tác kiểm tra, giám sát ở tổ chức cơ sở đảng là
một biện pháp quan trọng nhằm ngăn ngừa và khắc phục những hiện tượng
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận đội ngũ cán
bộ, đảng viên; phát hiện kịp thời những khuyết điểm để khắc phục, góp phần
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng
đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Xuất phát từ đòi hỏi khách quan của công tác xây dựng Đảng và yêu
cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng đã chỉ rõ: “Các cấp ủy, tổ chức đảng phải nâng cao tinh thần
trách nhiệm, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng”
[16, tr.262]. Nếu như toàn thể sức chiến đấu của Đảng, cuối cùng phải được thể
hiện ở sức chiến đấu của đảng viên, ở sức mạnh của chi bộ, thì công tác kiểm tra,
giám sát cũng như các công tác khác của Đảng, trước hết phải được thực hiện ở
các tổ chức đảng. Công tác kiểm tra, giám sát muốn đạt được mục đích cơ bản là
kịp thời cổ vũ, phát huy mặt tốt, mặt tích cực, ngăn ngừa khắc phục những hạn
chế, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên, giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên tiến bộ,
trưởng thành và hoàn thành tốt nhiệm vụ, thì trước hết phải làm tốt, làm một
cách chủ động, tích cực, thường xuyên ở các tổ chức đảng.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng và các hướng dẫn của cơ quan chức
năng cấp trên, các tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Quận 6 thành phố Hồ
Chí Minh đã bám sát nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng, tập trung lãnh đạo

chỉ đạo, quán triệt, triển khai thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát, góp
phần quan trọng vào việc bảo vệ đường lối, quan điểm, các nguyên tắc của
Đảng; thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính trị; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, góp phần
xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh, cơ quan, đơn vị cơ sở vững
mạnh toàn diện.
Hiện nay công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ


Quận 6 thành phố Hồ Chí Minh bên cạnh những thuận lợi, vẫn còn không ít
những khó khăn thách thức. Ở khá nhiều tổ chức đảng, công tác kiểm tra, giám sát
chưa được thực hiện thường xuyên; việc giám sát đảng viên, tổ chức đảng thiếu
nội dung thiết thực, nặng về hình thức. Tình trạng này, chủ yếu do nhận thức, do
cơ chế vận dụng và người tổ chức thực hiện gây nên. Tuyệt đại bộ phận cán bộ,
đảng viên trong Đảng bộ Quận 6 thành phố Hồ Chí Minh đều giữ những trọng
trách nhất định trong hệ thống chính trị của quận. Do đó, nếu không thực hiện tốt
công tác kiểm tra, giám sát thì dễ nảy sinh quan liêu, độc đoán, chuyên quyền và
các sai lầm khác, mối quan hệ trong nội bộ Đảng dễ nảy sinh đẳng cấp, quan hệ
giữa Đảng với quần chúng dễ xa cách. Hơn nữa, trong khi năng lực tổ chức thực
hiện của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên đang còn yếu kém, trì trệ thì việc tiến
hành công tác kiểm tra, giám sát càng trở nên cần thiết và quan trọng, để biến
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành hiện thực, bảo đảm sự thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa lời nói và việc làm. Chính vì vậy, nghiên cứu
vấn đề nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát ở Đảng bộ Quận 6 thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quán triệt và thực hiện Quyết định số 25-QĐ/TW ngày 24 tháng 11 năm
2007 của Bộ Chính trị ban hành Hướng dẫn thực hiện các qui định về công tác

kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong Chương VII và Chương VIII Điều
lệ Đảng khóa X; Quyết định số 46-QĐ/TW ngày 01 tháng 11 năm 2011 của Ban
Chấp hành Trung ương ban hành Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác
kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong Chương VII và Chương VIII Điều
lệ Đảng khóa XI. Hướng dẫn số 03 - HD/KTTU ngày 25 tháng 7 năm 2007 của
Ủy ban Kiểm tra Trung ương về “thực hiện công tác giám sát của các ban của
cấp ủy các cấp”; Hướng dẫn số 04 - HD/KTTU ngày 25 tháng 7 năm 2007 của
Ủy ban Kiểm tra Trung ương về “thực hiện công tác giám sát của ủy ban kiểm


tra các cấp”; Hướng dẫn số 05 - HD/KTTU ngày 25 tháng 7 năm 2007 của Ủy
ban Kiểm tra Trung ương về “thực hiện công tác giám sát của cấp ủy, ban
thường vụ cấp ủy các cấp”, trong những năm qua đã có nhiều cơ quan, cán bộ
khoa học nghiên cứu về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Tiêu biểu là:
Hoàng Minh Hiểu: Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra trong
Đảng bộ quân đội hiện nay. Luận án tiến sĩ khoa học Lịch sử, Học viện
Chính trị quân sự , 1999. Trong luận án, tác giả đã dựa vào chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để luận giải bản chất, nội dung, hình thức,
phương pháp, các nguyên tắc công tác kiểm tra của Đảng. Tuy nhiên, tác
giả chưa đề cập đến công tác giám sát của Đảng.
Trần Bá Thanh: Giữ nghiêm kỷ luật ở tổ chức cơ sở đảng ở các đơn vị
làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu trong Quân đội nhân dân Việt
Nam giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Hà Nội, 2003. Trong luận
án, tác giả đã luận giải bản chất của kỷ luật Đảng, những vấn đề cơ bản về lý
luận, thực tiễn giữ nghiêm kỷ luật của Đảng và cho rằng tiến hành có nền nếp
công tác kiểm tra, giám sát là một trong những biện pháp cơ bản để giữ
nghiêm kỷ luật của Đảng
Nguyễn Quang Tâm. Công tác giám sát của tổ chức cơ sở đảng trong
Quân đội nhân dân Việt Nam, chuyên đề khoa học, Viện Khoa học xã hội
nhân văn quân sự, năm 2011. Trong chuyên đề, tác giả đã luận giải những vấn

đề cơ bản về công tác giám sát của Đảng, đưa ra quan niệm, nội dung, hình
thức, phương pháp công tác giám sát của tổ chức đảng trong quân đội; chỉ rõ
những vấn đề đặt ra về nhận thức và tổ chức thực hiện để nâng cao chất lượng
công tác giám sát của tổ chức đảng trong quân đội
Sách Sổ tay công tác đảng (2008), Nxb CTQG, Hà Nội, 2008 đã đề
cấp đến công tác kiểm tra ở tổ chức cơ sở Đảng. Bàn về khái niệm công tác
kiểm tra, công trình này cho rằng, công tác kiểm tra của Đảng là một hoạt
động quan trọng, một nguyên tắc, một phương tiện nhằm bảo đảm vai trò
lãnh đạo của Đảng và là một phương thức có hiệu quả để giải quyết những
vấn đề trong quan hệ nội bộ sinh hoạt đảng. Tuy nhiên tài liệu chưa đề cập
đến công tác giám sát của tổ chức của Đảng.


Giáo trình xây dựng Đảng (2004), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004 có chủ đề về công tác kiểm tra của tổ chức
cơ sở đảng. Chủ đề đã phân tích khái niệm, vị trí, tầm quan trọng, các nguyên
tắc, đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ, quan hệ giữa công tác kiểm tra với thi
hành kỷ luật. Công tác giám sát của Đảng chưa được giáo trình đề cập.
Sách Cẩm nang nghiệp vụ công tác Đảng (2005), Nxb CTQG, Hà Nội,
2005 có chủ đề công tác kiểm tra, khen thưởng và kỷ luật ở tổ chức cơ sở đảng.
Về khái niệm công tác kiểm tra, công trình này xác định là hoạt động của các
cấp ủy đảng, các ban chức năng của cấp ủy đảng, các tổ chức đảng và đảng viên,
hướng váo việc xây dựng, thực hiện các nghị quyết, quyết định và chỉ thị của
Đảng; giải quyết những vấn đề trong sinh hoạt nội bộ đảng; hoàn thiện quy trình
lãnh đạo và giữa gìn kỷ luật Đảng, tăng cường đoàn kết, thống nhất, góp phần
tạo nên sức mạnh và bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ chính trị của cách mạng. Ngoài ra còn có một số bài nghiên cứ về công
tác kiểm tra, giám sát đăng trên tập chí kiểm tra Đảng
Nhìn tổng quát đã có nhiều công trình bàn về công tác kiểm tra, gần
đây có một số bài báo bàn về công tác giám sát. Các công trình nghiên cứu

công tác kiểm tra, giám sát đều dựa vào lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam để luận giải
bản chất, chức năng, nhiệm vụ, phương châm, phương pháp của công tác
kiểm tra giám sát của Đảng; đề xuất các giải pháp tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát của Đảng nói chung và của các loại hình tổ chức đảng
nói riêng. Kết quả nghiên cứu của các công trình trên đã góp phần quan
trọng vào nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của các loại hình
tổ chức đảng. Đó là những tài liệu có giá trị về lý luận và thực tiễn để tác
giả luận văn kế thừa, phục vụ cho nhiệm vụ, nội dung nghiên cứu của đề tài
đã xác định. Tuy nhiên, do đối tượng, mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của
mỗi công trình khác nhau, có công trình chỉ nghiên cứu về công tác kiểm
tra, có công trình chỉ bàn đến công giám sát. Đến nay chưa có công trình


nào nghiên cứu công tác kiểm tra, giám sát ở Đảng bộ Quận 6 thành phố
Hồ Chí Minh một cách cơ bản, có hệ thống với tính chất của một đề tài
khoa học độc lập.
Do đó, đề tài “Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng bộ Quận 6 thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” là công trình
nghiên cứu độc lập, không trùng lặp với các công trình đã nghiệm thu,
công bố trong những năm gần đây. Tác giả luận văn trân trọng kế thừa
kết quả nghiên cứu của các công trình có liên quan để luận giải làm rõ
những vấn đề cơ bản về công tác kiểm tra, giám sát và nâng cao chất
lượng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ Quận 6 thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay.
3- Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu làm rõ những vấn đề cơ bản về lý
luận, thực tiễn, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao chất
lượng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ Quận 6 thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay.

* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về công tác kiểm tra, giám sát và chất
lượng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ Quận 6, thành phố Hồ Chí Minh.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân, rút ra một số kinh
nghiệm trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ Quận 6 thành phố
Hồ Chí Minh hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng bộ Quận 6 thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
bộ Quận 6 thành phố Hồ Chí Minh.
* Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu chất lượng công tác kiểm
tra, giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp thuộc Đảng bộ Quận 6 thành phố
Hồ Chí Minh từ 2010 đến nay.
5- Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài


* Cơ sở lý luận: Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng về công tác xây dựng Đảng và về công tác kiểm
tra, giám sát là cơ sở lý luận của đề tài luận văn.
* Cơ sở thực tiễn: Hiện thực công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ
Quận 6 tthành phố Hồ Chí Minh, thông qua điều tra, khảo sát, nghiên cứu và
tham khảo các báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng, công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng bộ Quận 6 thành phố Hồ Chí Minh.
* Phương pháp nghiên cứu: Trên phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa
học liên ngành và chuyên ngành; trong đó đặt biệt coi trọng phương pháp
lôgic, lịch sử; tổng kết thực tiễn; thông kê - so sánh; điều tra xã hội học và
phương pháp chuyên gia.
6- Ý nghĩa của đề tài

Góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc xác định chủ trương, biện
pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ Quận 6
thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu, giảng dạy môn xây dựng Đảng
7- Kết cấu của đề tài: Đề tài gồm 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục.


Chương 1
CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT
CỦA ĐẢNG BỘ QUẬN 6 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN
1.1. Công tác kiểm tra, giám sát và chất lượng công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng bộ Quận 6 thành phố Hồ Chí Minh
1.1.1. Đảng bộ Quận 6 và công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ
Quận 6 thành phố Hồ Chí Minh
* Đảng bộ Quận 6 thành phố Hồ Chí Minh
Đảng bộ Quận 6 là tổ chức đảng cấp trên cơ sở trực thuộc Đảng bộ thành
phố Hồ Chí Minh, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Thành ủy thành phố Hồ
Chí Minh. Hệ thống tổ chức đảng của Đảng bộ Quận 6 thành phố Hồ Chí
Minh gồm có: Đảng bộ các phường, cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp
thuộc quận. Tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Quận 6 thành phố Hồ Chí
Minh có các loại hình: Tổ chức cơ sở đảng ở phường; tổ chức cơ sở đảng ở
các doanh nghiệp nhà nước; tổ chức cơ sở đảng ở các cơ quan, đơn vị hành
chính, sự nghiệp. Hiện nay, Đảng bộ Quận 6 thành phố Hồ Chí Minh có 42 tổ
chức cơ sở đảng (trong đó có 19 đảng bộ cơ sở với 221 chi bộ trực thuộc; 23
chi bộ cơ sở) với 4.302 đảng viên (trong đó có 1.533 đảng viên nữ; 1.236
đảng viên hưu trí; 166 đảng viên người Hoa). Địa bàn Quận 6 là cửa ngỏ phía
tây của thành phố Hồ Chí Minh, có các trục lộ giao thông chính nối liền thành
phố với các tỉnh miền Tây, lưu lượng người và phương tiện giao thông qua
lại, người nhập cư đến làm ăn sinh sống rất lớn đã góp phần vào sự phát triển

kinh tế, xã hội của Quận 6, nhưng theo đó là vấn đề về an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội diễn biến phức tạp; còn một bộ phận cán bộ, đảng viên suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống; năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu, chất lượng sinh hoạt chi bộ một số tổ chức đảng, đảng viên chưa cao.
Quận ủy Quận 6 thành phố Hồ Chí Minh là cơ quan lãnh đạo của Đảng
bộ quận giữa hai kỳ đại hội, có chức năng lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ


trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo thực hiện chức
năng quản lý hành chính nhà nước và quản lý đô thị trên địa bàn; xây dựng hệ
thống chính trị địa phương vững mạnh, giàu đẹp, văn minh; không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân làm tròn
nghĩa vụ đối với Nhà nước. Nghiên cứu, đề xuất với cấp ủy cấp trên trực tiếp là
Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh về những vấn đề có liên quan trực tiếp đến
việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng trên địa bàn quận.
Đảng bộ quận có nhiệm vụ:
Tổ chức quán triệt và cụ thể hóa các nghị quyết của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, của Thành ủy và của Quận ủy; lãnh đạo nhân dân chấp
hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đề ra chủ
trương, nhiệm vụ chính trị và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả.
Xây dựng đảng bộ, chi bộ trực thuộc trong sạch, vững mạnh về chính trị,
tư tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất
lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng
cường đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn luyện và
quản lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến
đấu, trình độ kiến thức, năng lực công tác; làm công tác phát triển đảng viên.
Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự
nghiệp, quốc phòng, an ninh và các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch, vững
mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống, vật chất, tinh thần và bảo vệ

lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân trong địa bàn quận tham
gia xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước. Nhiệm vụ cụ thể của Đảng bộ Quận 6 là:
* Lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng.
Lãnh đạo chính quyền thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội theo nghị quyết của đại hội Đảng bộ quận và của Thành ủy ;
tạo môi trường thuận lợi để khuyến khích các thành phần kinh tế và hộ gia


đình phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ đúng chính sách, pháp luật của
Nhà nước, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động; không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; động viên nhân dân làm
tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Lãnh đạo chính quyền thực hiện đúng chức năng quản lý hành chính Nhà
nước và công tác quản lý đô thị trên địa bàn; thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ sở
hạ tầng theo quy hoạch; chăm lo phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế, bảo
vệ môi trường, thực hiện tốt các chính sách xã hội, xoá đói, giảm nghèo.
Lãnh đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện tốt
phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra"; giám sát mọi hoạt
động ở cơ sở theo đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương; kịp thời giải
quyết những vướng mắc phát sinh trong cộng đồng dân cư ở cơ sở theo đúng
luật pháp, không để tích tụ mâu thuẫn trở thành điểm nóng, không để xảy ra
tình trạng khiếu kiện tập thể, vượt cấp hoặc lợi dụng dân chủ để làm mất ổn
định chính trị trên địa bàn.
Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng toàn dân và chính sách hậu
phương quân đội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; đề cao
tinh thần cảnh giác cách mạng, bảo vệ nội bộ, bảo vệ tài sản của Nhà nước,
của tập thể, tính mạng và tài sản của nhân dân; ngăn chặn và đẩy lùi các tệ
nạn xã hội, nhất là ma tuý, mại dâm.

* Lãnh đạo công tác tư tưởng.
Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng,
đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh và phát huy truyền thống yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội trong các tầng lớp nhân dân, nhất và trong thanh niên, thiếu niên;
xây dựng tình đoàn kết, gắn bó, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau; xây dựng môi
trường văn hoá lành mạnh, chú trọng tuyên truyền và nhân rộng gương người
tốt, việc tốt, các nhân tố tích cực trên mọi lĩnh vực.
Tuyên truyền, vận động làm cho nhân dân hiểu và chấp hành đúng
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các


nhiệm vụ của địa phương; kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của các tầng
lớp nhân dân để giải quyết và báo cáo lên cấp trên.
Lãnh đạo cán bộ, đảng viên và nhân dân đấu tranh chống các quan
điểm sai trái, những hành vi nói, viết và làm trái với đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; chống tư tưởng cơ hội, thực
dụng, cục bộ, bè phái, gia trưởng, bảo thủ và các hủ tục lạc hậu, mê tín, dị
đoan; phòng, chống sự suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
* Lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ.
Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức trong hệ thống chính trị,
các đơn vị kinh tế, sự nghiệp ở Quận 6 và cơ sở vững mạnh; xây dựng và thực
hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tích cực tạo nguồn cán
bộ tại chỗ, từng bước trẻ hoá đội ngũ cán bộ, công chức.
Xây dựng quy chế về công tác tổ chức, cán bộ; nhận xét, đánh giá, bổ
nhiệm, miễn nhiệm, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật, đãi ngộ đối với cán bộ
thuộc quyền; quản lý và kiểm tra việc thực hiện chính sách đối với cán bộ cấp
quận và ở cơ sở theo phân cấp; giới thiệu người đủ tiêu chuẩn, có tín nhiệm
trong tổ chức đảng và nhân dân để bầu vào các chức danh chủ chốt của hội
đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân
theo luật định và điều lệ của mỗi tổ chức.

Đề xuất ý kiến trong việc lựa chọn, giới thiệu cán bộ tham gia vào các
cơ quan lãnh đạo của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân ở cấp trên, cán
bộ chủ chốt ở cấp quận do cấp trên quản lý.
* Lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Lãnh đạo xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở Quận
6 vững mạnh, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo luật định và điều lệ
của mỗi đoàn thể. Thực hiện tốt các chính sách về dân tộc, tôn giáo của Đảng
và Nhà nước, xây dựng khối đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, thi đua thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao.
Lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tham gia xây
dựng, bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà


nước và các nhiệm vụ của địa phương, trước hết là những chủ trương, chính
sách về xây dựng và quản lý đô thị, giải quyết việc làm và các chính sách xã
hội khác.
* Xây dựng tổ chức Đảng.
Đề ra chủ trương, nhiệm vụ và biện pháp xây dựng đảng bộ, chi bộ
trong sạch, vững mạnh, gắn với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị Quận 6
và cơ sở; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đội
ngũ đảng viên. Thực hiện đúng nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nhất là
nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình; thực hiện có
nền nếp và nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ, bảo
đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu.
Giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên nêu cao vai trò tiền phong,
gương mẫu, người lao động giỏi, công dân mẫu mực; nghiêm chỉnh chấp hành
và vận động, thuyết phục nhân dân chấp hành nghị quyết của tổ chức đảng,
quyết định của chính quyền và chương trình hành động của các đoàn thể nhân
dân. Cấp uỷ xây dựng kế hoạch và tạo điều kiện cho đảng viên thực hiện
nhiệm vụ học tập, không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt.

Cấp uỷ xây dựng kế hoạch, biện pháp quản lý, phân công nhiệm vụ và
tạo điều kiện để đảng viên hoàn thành nhiệm vụ được giao. Làm tốt công tác
động viên, khen thưởng, kỷ luật đảng viên; xử lý nghiêm, kịp thời những cán
bộ, đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Lãnh đạo làm tốt công tác tạo nguồn và phát triển đảng viên, bảo đảm
về tiêu chuẩn và quy trình, chú trọng đối tượng là đoàn viên thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh và những người lao động giỏi, có uy tín trong quần chúng.
Lãnh đạo xây dựng cấp uỷ và bí thư các cấp uỷ trực thuộc bảo đảm tiêu
chuẩn về phẩm chất, năng lực, thực sự là trung tâm đoàn kết, hoạt động có hiệu
quả, được đảng viên và nhân dân tín nhiệm. Định kỳ hằng năm, lãnh đạo tổ
chức để quần chúng tham gia, góp ý xây dựng Đảng; bí thư cấp uỷ cơ sở, chủ
tịch uỷ ban nhân dân cơ sở tự phê bình trước đại diện của nhân dân và chịu


trách nhiệm khi để xảy ra quan liêu, tham nhũng, lãng phí ở địa phương.
Chỉ đạo cấp uỷ các cấp thường xuyên kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên
chấp hành Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật Nhà nước và Quy
định của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm. Phối hợp với
các tổ chức, cơ sở đảng trên địa bàn và các tổ chức, cơ sở đảng có đảng viên,
cán bộ, công chức đang cư trú trên địa bàn thực hiện các nghị quyết, chỉ thị
của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ của địa phương.
1.1.2. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ Quận 6 thành phố
Hồ Chí Minh
Hoạt động lãnh đạo của Đảng bao gồm việc đề ra đường lối, chủ
trương, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương đã đề ra thành hiện thực và
kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương ấy. Vì vậy, kiểm tra,
giám sát việc chấp hành đường lối, chủ trương là một bộ phận cấu thành hoạt
động lãnh đạo của Đảng và là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng,
là một nguyên tắc, một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng.
Khi đường lối, chủ trương, chính sách đã được xác định, phương hướng đã

được thông qua thì nhiệm vụ tổ chức thực hiện phải đặt lên hàng đầu và trọng
tâm của việc lãnh đạo phải chuyển sang việc lựa chọn người và kiểm tra, giám
sát sự thực hiện. Theo V.I.Lênin, khi mục đích, nhiệm vụ đã được xác định,
nghị quyết đã được thông qua, thì nhiệm vụ tổ chức thực hiện phải được đặt
lên hàng đầu. Do đó, phải “ lựa chọn người; thiết lập chế độ trách nhiệm cá
nhân đối với công việc đang làm; kiểm tra công việc thực tế. Nếu không như
thế, thì không thể thoát được ra khỏi chủ nghĩa quan liêu và bệnh giấy tờ đang
bóp nghẹt chúng ta”; [34, tr.452], “nếu không như thế thì tất cả mọi mệnh
lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn”[34, tr.449].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về
xây dựng Đảng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong đó có công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng và Nhà nước. Người thường nói về kiểm tra, giám sát


bằng những ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu; bao hàm cả kiểm tra, giám sát trong
Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, kiểm tra, giám sát đối với cán bộ,
đảng viên, công chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng khái niệm kiểm tra, giám
sát trong các bài nói, bài viết của Người bằng các khái niệm “kiểm soát”,
“kiểm tra”, “xem xét”, “điều tra”, “nắm tình hình”, “nghe báo cáo”... .
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi đã có đường lối, chủ trương, chính sách
đúng, thì việc thành công hay thất bại của đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng trong thực tế còn do cách tổ chức công việc, do lựa chọn cán bộ và do
kiểm tra, kiểm soát - tức là phải xem việc thực hiện có đến nơi đến chốn hay
không. Người khẳng định: “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc
thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ,
và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô
ích”[30, tr.520]. Theo Người, tác dụng của công tác kiểm tra, giám sát là: “....
có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm tròn nhiệm vụ đối
với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân. Do đó mà góp
phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng, về tổ chức”[31, tr.300]

Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, kiểm tra, giám sát là một trong
những chức năng lãnh đạo của Đảng; là một khâu quan trọng trong sự lãnh
đạo của Đảng; là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng; công
tác kiểm tra, giám sát giúp Đảng và Nhà nước quản lý, giáo dục, rèn luyện đội
ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, giúp cho họ tự tu dưỡng, trao dồi đạo đức
cách mạng, tính tiền phong gương mẫu của người cộng sản; giúp Đảng chủ
động phòng ngừa, ngăn chặn những sai phạm của đội ngũ cán bộ, đảng viên,
phòng chống “bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, chỉ lo khai hội và thảo nghị
quyết, đánh điện và gửi chỉ thị”. “có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không
nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững,...”.
Thấm nhuần và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về công tác kiểm tra, giám sát, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng ta luôn coi trọng và tiến hành công tác kiểm tra, giám sát, co đó là công


việc không thể thiếu trong hoạt động lãnh đạo và quản lý, diễn ra trong tất cả
các khâu của quy trình lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. “Lãnh
đạo mà không kiểm tra thì lãnh đạo sẽ trở thành quan liêu”[8, tr.744].
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát là vấn đề cấp bách trong tình
hình hiện nay, nó xuất phát từ tình hình khách quan của công tác xây dựng
Đảng và yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới, bảo đảm cho Đảng ta, trước
hết là các cơ quan lãnh đạo và những người lãnh đạo của Đảng luôn kiên định
về chính trị, vững vàng về đường lối, không chệch hướng; có phẩm chất cách
mạng tốt, ngăn ngừa suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống. Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định kiểm tra, giám
sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng. Như vậy, có thể thấy quan điểm nhất
quán của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát và được Đảng ta chính thức "luật
hoá" trở thành quy định trong Điều lệ Đảng. Để nhận thức đúng đắn công tác
kiểm tra, giám sát của Đảng cần quan niệm khoa học về kiểm tra, giám sát
của Đảng, mối quan hệ giữa kiểm tra, giám sát.

Kiểm tra của Đảng là hoạt động của cấp uỷ đảng, các ban chức năng của
cấp uỷ đảng, các tổ chức đảng và đảng viên, hướng vào xây dựng, thực hiện các
nghị quyết, quyết định và chỉ thị của đảng; giải quyết những vấn đề trong sinh
hoạt nội bộ đảng; hoàn thiện quy trình lãnh đạo và giữ gìn kỷ luật Đảng, tăng
cường đoàn kết, thống nhất, góp phần tạo nên sức mạnh lãnh đạo, thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chính trị của cách mạng.
Mục tiêu của công tác kiểm tra là phát hiện và kiểm tra kịp thời tổ chức
đảng và đảng viên có dấu hiệu vi phạm, xử lý kỷ luật nghiêm minh các trường
hợp vi phạm Điều lệ Đảng, nhằm góp phần chủ động phòng ngừa, ngăn chặn
đẩy lùi tiêu cực, giữ gìn kỷ luật Đảng và tăng cường đoàn kết thống nhất trong
Đảng. Kiểm tra có các hình thức: Kiểm tra thường xuyên; kiểm tra định kỳ và
kiểm tra đột xuất.
Giám sát của Đảng là việc các cấp ủy, tổ chức đảng theo dõi, xem xét,
đánh giá hoạt động nhằm kịp thời tác động để cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới
và đảng viên được giám sát chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị,


Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng.
Mục đích của giám sát đánh giá hoạt động, giúp cho cấp ủy, tổ chức
đảng và đảng viên thấy được ưu điểm, khuyết điểm của mình trong việc chấp
hành Cương lĩnh Chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy
định của Đảng, tìm ra cách thức, phương pháp khắc phục những hạn chế,
khuyết điểm. Hướng dẫn thực hiện các qui định về công tác kiểm tra, giám sát
và kỷ luật của Đảng tại Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng khóa XI
(Kèm theo Quyết định số 46-QĐ/TW, ngày 01 tháng 11 năm 2011 của Ban Chấp
hành Trung ương) xác định có hai hình thức giám sát: Giám sát thường xuyên
và giám sát theo chuyên đề. Giám sát thường xuyên là cấp ủy xác định kế
hoạch giám sát hàng tháng, sáu tháng và một năm đối với tổ chức đảng và
đảng viên. Giám sát theo chuyên đề là giám sát theo từng nội dung của tiêu
chuẩn, nhiệm vụ của tổ chức đảng và đảng viên .

Giám sát, kiểm tra có nội hàm gần gũi với nhau, nhưng không đồng
nhất, chúng có mối quan hệ rất chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong
giám sát có một phần nội dung kiểm tra và trong kiểm tra có một phần nội
dung giám sát. Kiểm tra và giám sát đều nhằm mục tiêu là nắm vững và đánh
giá đúng tình hình, từ đó điều chỉnh, uốn nắn mọi hành vi của tổ chức đảng,
đảng viên theo định hướng, quy định của Đảng. Kiểm tra và giám sát đều là
hoạt động của nội bộ Đảng, do cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra thực
hiện. Nội dung kiểm tra và giám sát chủ yếu tập trung vào việc chấp hành
cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đối tượng kiểm tra và giám sát đều là tổ
chức đảng và đảng viên. Mục đích kiểm tra, giám sát là nhằm phục vụ việc
thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh. Định kỳ đều có báo cáo với cấp ủy theo quy định về tình hình thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát.
Trong quá trình giám sát, nếu phát hiện đối tượng giám sát có những
hoạt động chưa đúng với các quy định của Đảng và Nhà nước, có thiếu sót,


khuyết điểm thì chủ thể giám sát kịp thời nhắc nhở, cảnh báo và đề nghị thực
hiện đúng các quy định; nếu phát hiện những việc làm sai trái, có dấu hiệu vi
phạm thì tiến hành kiểm tra, kết luận chính xác và tiến hành các bước xử lý
nghiêm minh theo các quy định của Đảng, nếu có biểu hiện vi phạm pháp luật
thì chuyển cho cơ quan bảo vệ pháp luật điều tra và xử lý theo quy định của
pháp luật. Càng làm tốt công tác giám sát thì giúp cho việc kiểm tra càng
trúng, càng đúng, chủ động, kịp thời và chất lượng, hiệu quả kiểm tra càng
cao, việc xử lý đảm bảo công minh, chính xác. Ngược lại, qua kiểm tra có thể
đánh giá được chất lượng, hiệu quả giám sát, nắm chắc được thực chất tình
hình và có cơ sở khi xem xét, xử lý tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên vi phạm
được khách quan, công tâm.
Giám sát là việc làm thường xuyên, liên tục để chủ động phòng ngừa,

ngăn chặn xảy ra vi phạm từ lúc mới manh nha. Giám sát giúp đối tượng
được giám sát thực hiện đúng quy định, quy chế; phát hiện, góp ý, phản
ánh, đề xuất; giám sát để phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm, vi phạm là
chính. Qua giám sát, nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm thì mới tiến hành
kiểm tra. Còn mục đích của kiểm tra là để làm rõ đúng, sai. Sau kiểm tra
phải có kết luận và xử lý (nếu có vi phạm đến mức phải xử lý). Có thể có vi
phạm rồi mới kiểm tra, có vụ việc vi phạm qua nhiều năm mới kiểm tra để
làm rõ nội dung, tính chất, mức độ, tác hại và nguyên nhân của vi phạm để
xử lý (nếu có). Đối với kiểm tra, đảng viên vừa là đối tượng vừa là chủ thể
kiểm tra. Đối với giám sát, đảng viên chỉ là đối tượng giám sát và chỉ trở
thành chủ thể giám sát khi được tổ chức đảng có thẩm quyền phân công.
Đối tượng giám sát rộng hơn đối tượng kiểm tra, vì bao gồm cả các tiểu
ban, hội đồng, tổ công tác do cấp ủy các cấp lập ra.
Giám sát không cần tổ chức thành cuộc, không cần thẩm tra, xác
minh, không xem xét thi hành kỷ luật như một cuộc kiểm tra. Thông qua
quan sát, theo dõi để phát hiện vấn đề, phản ánh với tổ chức đảng và cá
nhân, nhằm kịp thời chấn chỉnh, sửa chữa khuyết điểm, tránh để xảy ra vi


phạm. Còn phương pháp kiểm tra là tiến hành theo quy trình; thành lập tổ
hoặc đoàn kiểm tra; coi trọng thẩm tra, xác minh; sau kiểm tra có kết luận
cuộc kiểm tra, có đánh giá, nhận xét, ưu điểm, khuyết điểm, vi phạm (nếu có)
và xử lý kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên (nếu có vi phạm đến mức phải xử
lý); công tác kiểm tra đảng viên vừa là chủ thể kiểm tra, có nhiệm vụ tiến
hành kiểm tra và tự kiểm tra, vừa là đối tượng kiểm tra. Như vậy, giám sát
và kiểm tra có mối quan hệ tác động lẫn nhau: Muốn thực hiện tốt việc
giám sát thì phải có quan sát, theo dõi, xem xét tình hình thực tế của đối
tượng được giám sát; muốn thực hiện tốt việc kiểm tra thì phải thực hiện
thường xuyên việc giám sát. Đảng bộ Quận 6 thành phố Hồ Chí Minh là một
bộ phận của toàn Đảng. Vì vậy, có chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo thực hiện tốt

công tác kiểm tra, giám sát, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Thành ủy thành
phố Hồ Chí Minh.
Từ những phân tích, luận giải trên có thể quan niệm: Công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng bộ Quận 6 Thành phố Hồ Chí Minh là hoạt động lãnh
đạo và tổ chức thực hiện của Quận ủy, Ban Thường vụ Quận ủy và các cấp
ủy, ủy ban kiểm tra các cấp trực thuộc về việc quán triệt, thực hiện Cương
lĩnh, Điều lệ Đảng, đường lối, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và thực hiện
nhiệm vụ đảng viên, nhằm bảo đảm cho đường lối, Điều lệ Đảng, các nghị
quyết, chỉ thị, kỷ luật của Đảng, pháp luật Nhà nước, các nghị quyết, chủ
trương, biện pháp lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp thuộc đảng bộ
quận được xác định đúng và được chấp hành triệt để; góp phần nâng cao
chất lượng đội ngũ đảng viên, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh,
không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, hoàn thành mọi
nhiệm vụ được giao. Quan niệm đã chỉ ra mục đích, chủ thể, đối tượng công
tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ Quận 6 Thành phố Hồ Chí Minh.
Chủ thể công tác, kiểm tra giám sát là Ban Thường vụ Quận ủy, các
đảng ủy phường, các cấp ủy, tổ chức đảng và Ủy ban Kiểm tra Quận ủy,
các ủy ban kiểm tra các cấp trực thuộc Đảng bộ Quận 6. Cấp ủy, tổ chức


đảng, mọi đảng viên có trách nhiệm nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết của
Đảng về công tác kiểm tra, giám sát vào lãnh đạo và trực tiếp tiến hành công
tác kiểm tra, giám sát ở tổ chức đảng theo đúng phạm vi, chức năng, quyền hạn
của mình. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định:
“Các cấp ủy, tổ chức đảng phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt hơn
nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng...”[16, tr.262]. Cấp ủy, tổ chức
đảng cấp trên kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên. Tổ chức đảng và
đảng viên phải thường xuyên tự kiểm tra. Cấp ủy, tổ chức đảng cấp trên giám
sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên. Tổ chức đảng và đảng viên thực hiện
nhiệm vụ giám sát theo sự phân công của tổ chức đảng có thẩm quyền.

Đối tượng công tác kiểm tra, giám sát của Quận ủy Quận 6 là tổ chức
đảng, cấp uỷ viên, đảng viên trực thuộc Đảng bộ Quận 6 quản lý. Tổ chức
đảng và đảng viên chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng bắt nguồn từ nguyên
tắc tập trung dân chủ; từ tính tiên phong về chính trị, tư tưởng, tổ chức của
Đảng; từ sự thống nhất về ý chí và hành động, kỷ luật nghiêm minh của Đảng.
Nội dung kiểm tra, giám sát là xem xét việc quán triệt và thực hiện
Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, đường lối, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật
Nhà nước; việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, tinh thần trách nhiệm, ý
thức tổ chức kỷ luật, tự phê bình và phê bình, giữ gìn đoàn kết, thống nhất nội
bộ, giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng. Kiểm tra,
giám sát việc thực hiện nghị quyết của tổ chức đảng, thực hiện nhiệm vụ
được phân công và theo nhiệm vụ, tiêu chuẩn đảng viên; việc giữ gìn phẩm
chất, đạo đức, lối sống, thực hiện quy định về những điều đảng viên không
được làm, việc học tập, rèn luyện của đảng viên theo tiêu chuẩn đảng viên.
Hình thức kiểm tra, giám sát bao gồm sử dụng tổng hợp hình thức
của công tác kiểm tra, giám sát: Kiểm tra thường xuyên; kiểm tra định kỳ và
kiểm tra đột xuất; giám sát thường xuyên và giám sát theo chuyên đề; giám
sát trực tiếp, giám sát gián tiếp.
Phương pháp cơ bản của công tác kiểm tra, giám sát là: Dựa vào tổ chức


đảng. Cấp uỷ, tổ chức đảng cấp trên trực tiếp kiểm tra, giám sát cấp ủy, tổ chức
đảng thuộc quyền. Cấp ủy, tổ chức đảng trực tiếp kiểm tra, giám sát đảng viên
theo đúng quy định, quyền hạn; phát huy tinh thần tự giác, tự phê bình và phê
bình của tổ chức đảng và đảng viên; làm tốt công tác thẩm tra, xác minh; kết hợp
công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra của chính quyền và
các cơ quan, đơn vị có liên quan; tổ chức cho nhấn dân tham gia xây dựng Đảng.
Quy trình các khâu, các bước tiến hành công tác kiểm tra, giám sát của
cấp ủy, tổ chức đảng gồm chuẩn bị kiểm tra, giám sát; thực hành kiểm tra, giám
sát; sau kiểm tra, giám sát. Mỗi khâu đều có các nội dung công việc cụ thể, tuỳ

theo tính chất của kiểm tra, hay giám sát.
Công tác kiểm tra, giám sát là hoạt động của Đảng, nên tiến hành phải
theo đúng nguyên tắc tổ chức của Đảng; đúng tư tưởng chỉ đạo: “Chủ động,
chiến đấu, giáo dục, hiệu quả”. Phương châm: “Công minh, chính xác, kịp
thời”. Kiểm tra, giám sát phải quán triệt và thực hiện tốt nguyên tắc tính đảng,
chủ động, chiến đấu, giáo dục, hiệu quả, thiết thực, công minh, chính xác, kịp
thời. Nguyên tắc tính đảng quy định công tác kiểm tra, giám sát phải quán
triệt lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tuân thủ nghiêm
ngặt Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
Đấu tranh không khoan nhượng với với mọi tư tưởng và hành động sai trái.
Không “dĩ hoà vi quý”, bàng quan với những sai lầm khuyết điểm; tôn trọng
và bảo vệ lợi ích của Đảng; phải được tiến hành trong tổ chức đảng. Nghiêm
cấm lợi dụng giám sát để đả kích cá nhân gây chia rẽ bè phái trong Đảng.
Tính giáo dục, chủ động của công tác kiểm tra, giám sát nhằm mục
đích củng cố nâng cao năng lực sức chiến đấu của Đảng, giáo dục rèn luyện
cán bộ, đảng viên; một mặt để sửa chữa cho nhau, một mặt để khuyến khích
nhau. Vì vậy phải chân thành, lấy lòng chân thành, lòng nhân ái mà góp ý
kiến, giúp đỡ nhau, học tập ưu điểm của nhau, ngăn chặn và khắc phục những
khuyết điểm. Tính thiết thực, công minh, chính xác kịp thời của công tác kiểm
tra, giám sát đòi hỏi phải tôn trọng thực tế, không vội vàng quy kết, nhất là


đối với những khuyết điểm liên quan đến vai trò, uy tín, hoạt động lãnh đạo
của tổ chức đảng; đến sinh mệnh chính trị của cán bộ, đảng viên. Công khai
nói rõ ưu điểm, khuyết điểm của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên để
sử chữa những hạn chế, khuyết điểm một cách chính xác và kịp thời. Nội
dung giám sát phải cụ thể thiết thực kịp thời, chỉ ra được đúng sai, nguyên
nhân của nó. Khắc phục bệnh hình thức, không có nội dung, không hướng vào
việc kiểm điểm đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức đảng,
tu dưỡng rèn luyện phẩm chất, năng lực; không kịp thời chỉ ra những những

hạn chế sai lầm của tổ chức đảng, đảng viên mà để tích tụ lại trầm trọng thêm.
Nội dung kiểm tra, giám sát phải gắn với chức năng, nhiệm vụ cụ thể của tổ
chức đảng, chức trách, nhiệm vụ của đảng viên.
* Đặc điểm công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ Quận 6 thành
phố Hồ Chí Minh
Một là, đối tượng của công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ Quận 6
là những cán bộ, đảng viên đa dạng về cương vị công tác và môi trường hoạt
động. Đội ngũ đội ngũ cán bộ, đảng viên Đảng bộ Quận 6 công tác ở các
chuyên ngành với những chuyên môn nghiệp vụ, cương vị công tác khác
nhau. Có người là cán bộ chủ chốt đảm nhiệm các chức vụ cán bộ lãnh đạo
của Đảng, của Chính quyền, các tổ chức chính trị, xã hội khác trong hệ thống
chính trị quận, phường. Có đảng viên là cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ, công
chức. Có đảng viên đã được nghỉ hưu theo chính sách Nhà nước. Đảng viên là
cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước đã được nghỉ hưu về cư trú trên các
phường của địa bàn Quận 6 khá đông. Chính điều này đặt ra tính phức tạp của
công tác kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên của Đảng bộ Quận 6. Bởi lẽ
hoạt động ở mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi cương vị công tác đòi hỏi cán bộ, đảng
viên có những tiêu chuẩn cụ thể về chức trách, nhiệm vụ khác nhau, không có
tiêu chuẩn chung chung cho mọi cán bộ, đảng viên.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng bộ Quận 6 có tuổi đời, tuổi nghề,
trình độ nhận thức khác nhau. Xuất phát điểm của mỗi người khi gia nhập


Đảng Cộng sản Việt Nam cũng khác nhau. Có người trưởng thành từ cơ sở,
trong phong trào cách mạng của quần chúng. Có người gia nhập Đảng Cộng
sản Việt Nam trong các lực lượng vũ trang. Có người gia nhập Đảng Cộng sản
Việt Nam khi đi đào tạo ở các trường chuyên môn kỹ thuật, ở một số trường
đại học, cao đẳng…. Chính sự đa dạng phức tạp của đội ngũ đảng viên làm
cho công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ Quận 6 khá phức tạp.
Cương vị công tác khác nhau, tuổi đời, tuổi đảng khác nhau, trình độ

đào tạo khác nhau là một đặc điểm chi phối công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng bộ Quận 6. Điều này dẫn đến sự khác biệt nhất định về bản lĩnh chính
trị, về kinh nghiệm và vốn sống, tuổi đời. Số đảng viên là cán bộ chủ chốt giữ
các cương vị lãnh đạo, quản lý, được tu dưỡng, rèn luyện trong thực tiễn hoạt
động chính trị - xã hội, nên ở họ có khả năng tự ý thức được về bản thân. Tuy
nhiên, ở đội ngũ này dễ nảy sinh tư tưởng công thần, chủ quan trong tự kiểm
tra, tự đánh giá về mình. Nhận xét, góp ý cho cán bộ, đảng viên cấp dưới dễ bị
ảnh hưởng của lề thói gia trưởng, độc đoán. Những đảng viên là cán bộ ở cấp
cơ sở phần lớn trong số họ chưa trải qua thử thách nhiều trong thực tiễn chính trị
- xã hội. Những đức tính của người cán bộ, đảng viên như tính kỷ luật, tính tự
kiềm chế, khả năng làm chủ bản thân, ý thức tự phê bình và phê bình, kỹ năng
đánh giá mặt mạnh, mặt yếu của bản thân còn nhiều mặt hạn chế; tư duy thiếu
biện chứng, mềm dẻo. Trong tự phê bình và phê mình còn chủ quan, cảm tính, e
dè, nể nang che giấu khuyết điểm cho nhau, tính chiến đấu không cao.
Môi trường hoạt động của cán bộ, đảng viên cũng rất đa dạng. Với
những cán bộ, đảng viên công tác trong hệ thống chính trị quận, hoạt động
của họ chủ yếu ở cơ quan. Với cán bộ, đảng viên ở các phường, họ thường
xuyên trực tiếp tiếp xúc với nhân dân. Chính sự đa dạng về loại hình, môi
trường, điều kiện công tác, nhiệm vụ chính trị của từng bộ phận quy định
công tác kiểm tra, giám sát phải hết sức cụ thể. Nội dung kiểm tra, giám sát
đảng viên là cán bộ, công chức ở cấp quận khác với nội dung kiểm tra, giám
sát cán bộ, đảng viên ở cấp phường. Vì thế, công tác kiểm tra, giám sát một


mặt phải nắm vững quan điểm, nguyên tắc chung phải đặc biệt chú ý đến
hoàn cảnh, điều kiện, công việc của tổ chức, lực lượng, coi đây là một căn cứ,
cơ sở để xác định nội dung, phương pháp công tác kiểm ta, giám sát, không
thể dập khuôn chung chung. Nắm vững đặc điểm này, công tác kiểm tra, giám
sát của Đảng bộ Quận 6 thành phải nắm vững những điểm mạnh, những thiếu
hụt về kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm của từng người để có sự cá biệt hoá về

nội dung, hình thức, phương pháp công tác kiểm tra, giám sát.
Hai là, đối tượng của công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ Quận 6
đa dạng về loại hình tổ chức đảng và nghề nghiệp, thành phần xuất thân của
đội ngũ đảng viên. Đảng bộ Quận 6 thành phố Hồ Chí Minh có loại hình tổ
chức đảng ở phường. Loại hình tổ chức đảng ở cơ quan, đơn vị hành chính sự
nghiệp; đơn vị lực lượng vũ trang; các doanh nghiệp ngoài Nhà nước. Những
nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng đã được Điều lệ Đảng xác định rõ. Song do
những đặc điểm riêng về nhiệm vụ, nội dung lãnh đạo, địa bàn hoạt động, đối
tượng cán bộ, đảng viên, vì vậy công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ Quận
6 phải bám sát chức năng, nhiệm vụ của từng loại tổ chức cơ sở đảng để xác
định nội dung, biện pháp kiểm tra, giám sát thích hợp.
Nhìn chung thành phần xuất thân của đội ngũ cán bộ, đảng viên của
Đảng bộ Quận 6 đều có lai lịch chính trị rõ ràng, trung thành tuyệt đối với
Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, có kiến thức, năng lực chuyên môn nghiệp
vụ; có phương pháp tác phong làm việc khoa học, cẩn trọng, tỉ mỉ, chính xác.
Tuyệt đại đa số yên tâm với nhiệm vụ được giao. Đáng chú ý, trong nền kinh
tế thị trường thành phần xuất thân của đội ngũ cán bộ, đảng viên Đảng bộ
Quận 6 thường xuyên biến đổi. Trong ý thức, hành vi của họ luôn in đậm dấu
ấn cả tích cực và tiêu cực của những phong tục, tập quán của địa phương mà
họ sinh sống. Hiện nay, số cán bộ, đảng viên Đảng bộ Quận 6 có gia đình
cùng cư trú trên cùng một địa bàn quận khá phổ biến. Điều này một mặt tạo
điều kiện thuận lợi cho việc nhận xét, đánh giá, học tập lẫn nhau; mặt khác lại
gây trở ngại cho công tác xây dựng cán bộ, đảng viên do những thói quen tập


×