Tải bản đầy đủ (.pdf) (171 trang)

Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 171 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HÀ NGỌC ANH

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CÔNG

HÀ NỘI, 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HÀ NGỌC ANH

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Quản lý Hành chính công
Mã số: 62 34 82 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CÔNG



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. Đỗ Quang Hưng
PGS.TS. Hoàng Văn Chức

HÀ NỘI, 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các tài liệu được trích dẫn trong luận án là trung thực, có nguồn gốc và xuất
xứ rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu của luận án chưa được công bố trong bất
kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

Nghiên cứu sinh

Hà Ngọc Anh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................................................ 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 10
1.1. Các công trình nghiên cứu về hoạt động tôn giáo ở nước ngoài ............................ 10
1.2. Các công trình về hoạt động tôn giáo trong nước ................................................... 12
1.3. Luận về những vấn đề đã giải quyết và giá trị kế thừa; những vấn đề gợi mở tiếp

tục nghiên cứu ................................................................................................................ 21
Chương 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC HOẠT ĐỘNG
TÔN GIÁO...................................................................................................................................................25
2.1. Khái niệm, đặc điểm tôn giáo và quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo.. 25
2.2. Nội dung, phương thức, nguyên tắc quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn
giáo………………………………………………………………………………......40
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo ...... 49
2.4. Kinh nghiệm, quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo của một số quốc gia trên
thế giới và giá trị tham khảo cho Việt Nam...................................................................... 55
Chương 3. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY ...........................................................................................................................62
3.1. Khái quát và thực trạng hoạt động tôn giáo ở Việt Nam ........................................ 62
3.2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam .................. 76
3.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam hiện
nay .................................................................................................................................. 95
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI....................109
4.1. Dự báo tình hình tôn giáo và hoạt động tôn giáo ở nước ta trong thời gian tới… 109
4.2. Quan điểm và phương hướng tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo ở Việt Nam .…………………………………………………………
113
4.3. Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam
trong thời gian tới ......................................................................................................... 120
4.4. Kiến nghị và đề xuất ............................................................................................. 150
KẾT LUẬN.................................................................................................................. 153
CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN………………………………………………………...............................155
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 156
PHỤ LỤC………………………………………………………………...................166



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

CBCC

Cán bộ, công chức

CBCCVC

Cán bộ, công chức, viên chức

CCHC

Công chức hành chính

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CQHCNN

Cơ quan hành chính nhà nước

ĐTBD

Đào tạo, bồi dưỡng


HTCT

Hệ thống chính trị

HCNN

Hành chính nhà nước

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

QLHC

Quản lý hành chính

QLNN

Quản lý nhà nước

TT

Tây Tạng

TNTG

Tín ngưỡng, tôn giáo

VBQPPL


Văn bản quy phạm pháp luật

XPVPHC

Xử phạt vi phạm hành chính


DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ
Bảng 3.1. Bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo........................................... 79
Bảng 3.2. Bảng thống kê chất lượng đội ngũ CBCC cấp tỉnh làm công tác tôn
giáo năm 2016 .............................................................................................. 87
Bảng 3.3. Bảng thống kê chất lượng đội ngũ CBCC cấp huyện làm công tác
tôn giáo năm 2016 ........................................................................................ 88
Bảng 3.4. Bảng thống kê chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã làm công tác tôn
giáo năm 2016 .............................................................................................. 89
Sơ đồ tổ chức bộ máy QLNN về tôn giáo ....................................................... 85


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế giới đang trong xu thế toàn cầu hoá, quan hệ giữa các quốc gia
ngày càng rộng mở trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội…Tôn giáo cũng là một vấn đề nằm trong sự vận động chung của tình hình
thế giới hiện nay, hoạt động quốc tế của các tôn giáo trên thế giới diễn biến
ngày càng phức tạp và đa dạng. Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình,
tôn giáo không trở nên lạc hậu mà ngày càng nổi lên như một hiện tượng sống
động của thời đại. Sự can thiệp ngày một rõ hơn của các tổ chức tôn giáo vào đời
sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và có những thời điểm các giáo lý, giáo luật
(Hồi giáo) được xem như có tính pháp lý cao đối với nhiều mặt trong đời sống xã

hội ở một số quốc gia, khu vực cũng như trên toàn thế giới là mối quan tâm của
nhiều quốc gia.
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, có tôn giáo ngoại nhập và tôn
giáo nội sinh; có những tôn giáo có nguồn gốc từ phương Đông như Phật
giáo, Đạo giáo, Nho giáo; có tôn giáo có nguồn gốc từ phương Tây như Công
giáo, Tin lành; có tôn giáo được lập ra tại Việt Nam như Cao Đài, Phật giáo
Hoà Hảo; có tôn giáo hoàn chỉnh (có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ
chức giáo hội), có những hình thức tôn giáo sơ khai. Có những tôn giáo đã
phát triển và hoạt động ổn định; có những tôn giáo chưa ổn định. Hiện tín đồ
tôn giáo ở Việt Nam chiếm tỷ lệ khá lớn 25,3 triệu (27% dân số) đang là một
lực lượng quan trọng trong khối đại đoàn kết toàn dân để xây dựng, bảo vệ và
phát triển đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa [117].
Thực tế, bên cạnh hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống và được
Nhà nước công nhận cho phép hoạt động, thời gian qua, trên một số địa bàn
còn một số đối tượng lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tụ tập đông người
tuyên truyền mê tín dị đoan, hoạt động mang màu sắc tôn giáo trái với thuần
phong mỹ tục của người Việt Nam. Để phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn hoạt
động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo xâm phạm an ninh quốc gia, các cơ quan
chức năng cần nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện, đấu tranh phản bác các

1


luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, vu khống, bịa đặt của các thế lực thù địch
về vấn đề tôn giáo; phối hợp với cơ quan, ban, ngành đẩy mạnh tuyên truyền
và thông báo với các chức sắc, chức việc trong các tôn giáo về âm mưu, thủ
đoạn hoạt động của các đối tượng lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo gây phức tạp
về an ninh trật tự, từ đó, hướng hoạt động của tôn giáo theo đúng quy định,
vận động các tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo. Vận động các chức sắc, chức việc,
tín đồ trong vùng tôn giáo tích cực tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an

ninh Tổ quốc.
Ở Việt Nam, từ khi xuất hiện, tôn giáo luôn giữ vai trò quan trọng trong
đời sống chính trị, văn hóa, tinh thần của xã hội, gắn liền với dân tộc và phục
vụ lợi ích dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Tôn giáo
là một vấn đề tế nhị, nhạy cảm và phức tạp. Vì vậy, giải quyết những vấn đề nảy
sinh từ tôn giáo cần phải hết sức thận trọng, tỉ mỉ và chuẩn xác; vừa đòi hỏi giữ
vững nguyên tắc, theo pháp luật, đồng thời phải mềm dẻo, linh hoạt theo đúng tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta là: Tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng và không tin ngưỡng của nhân dân; mọi công dân theo tôn giáo đều bình
đẳng trước pháp luật. Quản lý nhà nước (QLNN) đối với các hoạt động tôn giáo
phải đạt được yêu cầu: vừa quan tâm giải quyết hợp lý, hợp tình những nhu cầu tín
ngưỡng hợp pháp và chính đáng của quần chúng nhân dân, song phải kịp thời đấu
tranh với mọi âm mưu, thủ đoạn hoạt động lợi dụng tôn giáo để chống lại chính
quyền, phá hoại an ninh quốc gia.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước gần 30 năm qua đất
nước ta đã có nhiều thay đổi, cải cách hành chính nhà nước đã thu được những
kết quả khá quan trọng trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực quản lý
nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo. Tuy nhiên, trong thực tiễn công tác
đổi mới quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo thực hiện còn chưa
được nhiều, còn nhiều điểm bất cập cần được phải sửa đổi, bổ sung, thay thế
cho phù hợp với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và
hội nhập quốc tế, đó là: Quản lý tài sản, đất đai tôn giáo, xây dựng, sửa chữa
nơi thờ tự của các tôn giáo, phong chức và quản lý các chức sắc, tín đồ tôn
giáo, công nhận các tổ chức tôn giáo, truyền đạo trái pháp luật, công tác đối
2


ngoại tôn giáo…Do vậy, QLNN đối với hoạt động tôn giáo là một hoạt động
tất yếu của nhà nước khi đất nước có tôn giáo, nhất là với nước có nhiều tôn
giáo như Việt Nam. Việc QLNN đối với hoạt động tôn giáo nhằm thực hiện tự

do tín ngưỡng tôn giáo; thực hiện bình đẳng giữa các tôn giáo; phát huy nội
lực, thế mạnh của các tôn giáo góp phần xây dựng xã hội và hạn chế tiêu cực
tác động tới tôn giáo.
Thực tiễn quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo ở Việt Nam
đã, đang và sẽ đặt ra nhiều vấn đề, nhất là trong điều kiện đổi mới và hội nhập
quốc tế hiện nay. Những vấn đề mới được phát sinh trong lĩnh vực tôn giáo
như việc đòi lại đất đai, cơ sở thờ tự, phong thánh cho những người “tử vì
đạo” (trong đó có những phần tử chống phá cách mạng quyết liệt), sự biến
tướng và phát triển của một số tôn giáo vì mục đích chính trị, điển hình là Tin
Lành Đê-ga ở Tây Nguyên, đạo Vàng Chứ, Thìn Hùng ở Tây Bắc...trong khi
đó bộ máy làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo còn chậm được kiện
toàn, thường xuyên có sự thay đổi cơ cấu tổ chức đã ảnh hướng không nhỏ
đến hiệu quả, hiệu lực quản lý. Công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt
động tôn giáo còn mang nặng tính hành chính, còn bị động trước các tình
huống thực tế xảy ra; nhiều nơi chưa thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, chưa chú trọng xây dựng cơ chế phối hợp, quy chế làm việc. Bên
cạnh đó, dưới tác động của xu hướng toàn cầu hóa, nhất là sau khi Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, các tôn giáo không chỉ có xu
hướng bành trướng mà còn liên quan đến những cuộc xung đột dân tộc - tôn
giáo trên thế giới, việc làm này đã tác động không nhỏ đến đời sống chính trị
của các nước. Trong bối cảnh đó, quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn
giáo ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay, ngoài những thành tựu quan trọng đã
đạt được trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước còn bộc lộ
những vấn đề bất cập về lý luận và thực tiễn, nhiều vấn đề khoa học cần được
quan tâm, nghiên cứu giải quyết để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước đối với
các hoạt động tôn giáo trong tình hình mới.
Nghiên cứu về QLNN đối với hoạt động tôn giáo không chỉ thực hiện
tốt QLNN với tôn giáo mà còn góp phần vào hoàn thiện pháp luật của nhà
3



nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, nhà nước pháp quyền đã trở
nên phổ biến, thậm chí nó đã trở thành nguyên tắc chính trị pháp lý căn bản
cho mọi thể chế chính trị của các nhà nước hiện đại. Đó cũng là một trong
những điểm xuất phát của mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Việt Nam trong quá trình đổi mới đường lối
chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước đã được quan tâm từ cuối năm
1990 với Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị và sau đó là Nghị quyết số 25 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (năm 2003) [18] với nhiều quan điểm có
tính đột phá, nhưng rõ ràng Việt Nam đang đứng trước những thách thức về
lý luận và thực tiễn của công tác này. Việt Nam không chỉ công nhận sự tồn
tại khách quan và lâu dài của tôn giáo cũng như các giá trị văn hóa của nó, mà
còn cần thiết phải có sự tiếp tục đổi mới theo hướng một nhà nước pháp
quyền về tôn giáo, điều đã được Đại hội XII của Đảng khẳng định. Để các tổ
chức tôn giáo có khả năng trở thành những nguồn lực xã hội to lớn, thậm chí
nó còn là một “nguồn lực trí tuệ” thì cần phải tăng cường QLNN đối với hoạt
động tôn giáo về: thể chế, chính sách, tổ chức bộ máy, chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức làm công tác tôn giáo, vấn đề hợp tác quốc tế về tôn giáo…
Trong thời gian qua, Việt Nam chưa có công trình khoa học nghiên cứu
một cách toàn diện về QLNN đối với hoạt động tôn giáo. Do vậy, tôi chọn đề
tài nghiên cứu: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay” làm luận án Tiến sĩ Quản lý Hành chính công.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về QLNN đối với hoạt động
tôn giáo, Luận án đề xuất một số giải pháp nhằm quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo theo quy định của pháp luật, thực hiện tốt chủ trương của
Đảng, pháp luật của Nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án có các nhiệm vụ sau đây:

Thứ nhất, tìm đọc các nghiên cứu trong nước và nước ngoài về các nội
dung liên quan đến QLNN đối với hoạt động tôn giáo để xác định hướng triển
khai nghiên cứu của luận án.
4


Thứ hai, làm rõ cơ sở lý luận của quản lý nhà nước đối với các hoạt
động tôn giáo ở Việt Nam: khái niệm, đặc điểm, nội dung, nguyên tắc; các
yếu tố ảnh hưởng đến QLNN đối với hoạt động tôn giáo; kinh nghiệm, bài
học của một số nước trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo và giá
trị tham khảo cho Việt Nam.
Thứ ba, phân tích thực tiễn QLNN đối với hoạt động tôn giáo ở Việt
Nam: Quá trình hình thành và phát triển các tôn giáo ở Việt Nam; Số lượng,
sự phân bố và hoạt động của các tôn giáo ở Việt Nam; Mối quan hệ tôn giáo
và dân tộc; phân tích thực tiễn quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở
Việt Nam hiện nay (xây dựng chính sách, ban hành văn bản pháp luật về tín
ngưỡng, tôn giáo; tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về công tác tôn giáo; thực
trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo; về
công tác giải quyết nhà đất liên quan đến tôn giáo; thanh tra, kiểm tra). Đánh giá
thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
Thứ tư, đề xuất các giải pháp đảm bảo quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo ở Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, cụ thể bao gồm các nội
dung về thể chế quy định, tổ chức thực hiện và quá trình quản lý của các cơ
quan nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Luận án nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với các hoạt
động tôn giáo ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay.

Về không gian: Luận án nghiên cứu QLNN đối với hoạt động tôn giáo
trên lãnh thổ Việt Nam.
Về nội dung:
Thứ nhất, Luận án nghiên cứu cơ sở lý luận quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo.

5


Thứ hai, nghiên cứu thực tiễn quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, Luận án nghiên cứu quan điểm, phương hướng và đề xuất giải
pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam
trong thời gian tới.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu luận án
4. 1. Phương pháp luận
Luận án sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của Triết học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo và
QLNN đối với hoạt động tôn giáo. Từ nội dung và yêu cầu của phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề tài nghiên cứu các hoạt động tôn giáo,
vấn đề QLNN đối với hoạt động tôn giáo đặt trong mối liên hệ phổ biến, trong
sự tác động qua lại, thường xuyên vận động, phát triển không ngừng trong việc
QLNN đối với các vấn đề xã hội, trong đó có hoạt động tôn giáo.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Để thực hiện nội dung Luận án, tác giả sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau:
4.2.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này sử dụng phổ
biến ở Chương 3 và 4 của luận án. Phân tích trước hết là phân chia cái toàn
thể của đối tượng nghiên cứu thành những bộ phận, những mặt, những yếu tố
cấu thành giản đơn hơn để nghiên cứu, phát hiện ra từng thuộc tính, bản chất

của từng yếu tố đó và từ đó giúp chúng ta hiểu được đối tượng nghiên cứu
một cách mạch lạc hơn, hiểu được cái chung phức tạp từ những yếu tố bộ
phận ấy. Nhiệm vụ của phân tích là thông qua cái riêng để tìm ra được cái
chung, thông qua hiện tượng để tìm ra bản chất, thông qua cái đặc thù để tìm
ra cái phổ biến.
Tổng hợp là quá trình ngược với quá trình phân tích, nhưng lại hỗ trợ
cho quá trình phân tích để tìm ra cái chung cái khái quát. Từ những kết quả
nghiên cứu từng mặt, rồi tổng hợp lại để có nhận thức đầy đủ, đúng đắn cái
chung, tìm ra được bản chất, quy luật vận động của đối tượng nghiên cứu.

6


Phương pháp phân tích được sử dụng để đánh giá sâu sắc hơn từng khía
cạnh khác nhau của QLNN đối với hoạt động tôn giáo, trong khi đó phương
pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát hóa các kết quả từ việc phân tích để
đưa ra những nhận định và đánh giá chung về vấn đề QLNN đối với hoạt
động tôn giáo trong một tổng thể các mối liên hệ và các khía cạnh khác nhau
của lĩnh vực này hiện nay. Phân tích và tổng hợp cũng được sử dụng để đánh
giá thành tựu và hạn chế, bất cập QLNN đối với hoạt động tôn giáo trong
những năm qua.
4.2.2. Phương pháp thống kê mô tả: Thông tin định lượng thu thập
được từ các tài liệu thống kê về QLNN đối với hoạt động tôn giáo được sử
dụng xử lý, sắp xếp và mô phỏng dưới dạng bảng biểu, sơ đồ để minh chứng
cho các bằng chứng định lượng về các phân tích hay nhận định về QLNN đối
với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam. Phương pháp này được sử dụng nhiều
nhất ở phần phân tích thực trạng Chương 3.
4.2.3. Phương pháp quy nạp, diễn dịch: Trong quá trình nghiên cứu, tác
giả đi từ cái riêng đến cái chung, từ những sự vật đơn lẻ cho đến các nguyên
lý phổ biến. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng phương pháp diễn dịch trong việc

nghiên cứu QLNN đối với hoạt động tôn giáo. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu,
điều tra xã hội học ở một số tỉnh, thành phố và số liệu tác giả thu thập từ Ban Tôn
giáo Chính phủ, tác giả tổng hợp, phân tích thành những nhận định, đánh giá.
Trong quá trình thực hiện luận án, các phương pháp này có thể sử dụng
đan xen và tiếp cận cả theo hướng đa ngành và liên ngành để thuận tiện cho
việc phân tích, đánh giá toàn bộ các vấn đề được đặt ra trong phạm vi nghiên
cứu của đề tài. Bên cạnh đó tác giả còn sử dụng phương pháp thu thập thông
tin, khảo sát, điều tra xã hội học…
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
5.1. Đóng góp mới về lý luận
Một là, Luận án làm sáng tỏ và sâu sắc thêm những vấn đề lý luận về
QLNN đối với hoạt động tôn giáo. Luận án đưa khái niệm khoa học như
QLNN đối với hoạt động tôn giáo, các kết luận mang tính khoa học, góp phần
hoàn thiện lý luận về QLNN đối với hoạt động tôn giáo.
7


Hai là, Luận án làm rõ nội dung QLNN đối với hoạt động tôn giáo;
Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo của
một số quốc gia trên thế giới và giá trị tham khảo cho Việt Nam
5.2. Đóng góp mới về thực tiễn
Một là, Luận án góp phần thay đổi nhận thức và hành động, trách
nhiệm của các nhà lãnh đạo, quản lý, CBCC trong quá trình QLNN đối với
hoạt động tôn giáo.
Hai là, Luận án phân tích, luận giải quá trình hình thành và phát triển
các tôn giáo ở Việt Nam, các quy định pháp luật hiện hành, tình hình thực tiễn
QLNN đối với hoạt động tôn giáo; đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam hiện nay để các nhà lãnh đạo, quản lý có
cách nhìn tổng quát về lĩnh vực này.
Ba là, Luận án đề xuất các giải pháp tăng cường QLNN đối với hoạt động

tôn giáo ở Việt Nam, phù hợp với thông lệ quốc, tạo điều kiện để các tôn giáo
hoạt động theo đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Bốn là, Luận án là công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu, có giá trị
về lý luận cũng như thực tiễn là cơ sở để phát triển các nghiên cứu tiếp theo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án là những bổ sung quan trọng vào sự
phát triển hoạt động quản lý nhà nước về tôn giáo, góp phần nâng cao nhận
thức lý luận về vai trò của các cơ quan nhà nước trong việc quản lý hoạt động
tôn giáo.
Luận án dùng làm tài liệu trong giảng dạy và học tập môn Tôn giáo học
trong hệ thống các Học viện, các trường Đại học hoặc làm tài liệu tham khảo
trong giảng dạy tại các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ
làm công tác tôn giáo, dân vận và các đoàn thể nhân dân ở các cấp và cho cán
bộ, công chức làm nhiệm vụ trong lĩnh vực tôn giáo.
7. Câu hỏi nghiên cứu
Từ “khoảng trống” của các công trình nghiên cứu liên quan, NCS xác
định các câu hỏi nghiên cứu của luận án bao gồm:

8


1) Nội dung QLNN đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam là gì? Quản lý
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam chịu tác động bởi yếu tố nào?
2) Thực tiễn QLNN đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
như thế nào?
3) Quan điểm, phương hướng và giải tăng cường quản lý nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo ở việt nam trong thời gian tới?
8. Giả thuyết nghiên cứu
Trên cơ sở nhận thức và các khảo sát, luận án sẽ thu thập, xử lý thông
tin nhằm kiểm chứng các giả thuyết sau:

Giả thuyết 1. Nếu nhà nước không quản lý hoạt động của các tôn giáo
thì sẽ ảnh hưởng đến phát triển kinh tế-xã hội và an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội, tổn hại đến văn hóa và các giá trị xã hội.
Giả thuyết 2. Việc tăng cường quản lý nhà nước đối với các hoạt động
tôn giáo tạo điều kiện cho người dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng thông
qua các biện pháp và công cụ của quản lý nhà nước; đồng thời nghiêm khắc
xử lý các hoạt hoạt động lợi dụng tôn giáo, làm ảnh hưởng đến an ninh quốc
gia, trật tự an toàn xã hội; góp phần thực hiện quan điểm của Đảng đối với
đồng bào có đạo. Tuy nhiên, QLNN đối với hoạt động tôn giáo còn nhiều tồn
tại, hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
9. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
Luận án được kết cấu 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án.
Chương 2. Cơ sở lý luận quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo.
Chương 3. Thực tiễn quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở
Việt Nam hiện nay.
Chương 4. Quan điểm, phương hướng và giải pháp tăng cường quản lý
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam trong thời gian tới.

9


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
Nghiên cứu về QLNN đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam là chủ đề
mang tính thời sự và thu hút được nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước, vì
đây là một trong những yêu cầu cấp bách của nhiều quốc gia trên thế giới. Có
thể nói rằng, những hoạt động tôn giáo ở các nước đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới

sự ổn định chính trị, phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia khác trong đó
có Việt Nam. Nguyên nhân của tình trạng trên không chỉ là do các phần tử
xấu kích động,...mà còn có vai trò, trách nhiệm trong công tác quản lý, kiểm
soát của các cơ quan với chức năng là cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo.
Hiện nay, nghiên cứu về QLNN đối với các hoạt động tôn giáo đã được
nhiều nhà nghiên cứu đề cập, nhưng mỗi công trình, mỗi tác phẩm đề cập đến
một khía cạnh khác nhau. Về vấn đề này trong thời gian qua đã có một số công
trình và tác phẩm tiêu biểu sau:
1.1. Các công trình nghiên cứu về hoạt động tôn giáo ở nước ngoài
Từ xưa, vấn đề tự do, tín ngưỡng tôn giáo được các nước rất coi
trọng. Công trình nghiên cứu: “道教與中國宗教” (Đạo giáo và các tôn giáo
Trung Quốc) tác giả Henri Maspero do Lê Diên dịch (2000) [114] đã nêu rõ:
Lịch sử tôn giáo Trung Quốc là lịch sử phát triển liên tục từ thời cổ đại đến
nay. Nói như vậy không phải để nói rằng chẳng có gì thay đổi và các tín
ngưỡng ngày nay cũng là tín ngưỡng ngày xưa. Nhưng những tư tưởng mới
luôn luôn được đưa vào dần dần để có thể hòa nhập vào khuôn khổ cũ mà
không phá vỡ nó. Ở đây, chưa bao giờ xảy ra những cuộc cách mạng hoàn
toàn như ở phương Tây khiến cho tính liên tục nhiều lần bị cắt đứt; cải đạo
theo kito giáo, rồi cải đạo theo Hồi giáo ở một phần phương Đông và cải cách
sau đó ở một phần các nước phương Đông. Trong công trình, tác giả đã đề
cập lịch sử tôn giáo Trung Quốc trong sự phát triển lịch sử của nó: Đó là tôn
giáo thời cổ, khủng hoảng tôn giáo thời chiến, đạo giáo, phật giáo và khổng
10


giáo. Huyền thoại học Trung Quốc hiện đại tác giả đã đi sâu phân tích tôn
giáo dân gian, những thần giáo tối cao, các vị thần tự nhiên, những thần phụ
trách các tập hợp hành chính, các thần nghề nghiệp. Bên cạnh đó đời sống
nông dân, các lễ hội mùa xuân, tôn giáo chính thức, huyền thoại, những phong

tục tang lễ của người Thái đen ở Thượng du Bắc Bộ của người Trung Quốc cổ
và của người Thái hiện đại.
Năm 2007, Yến Khả Giai đã phác họa nội dung chính của giáo hội
Trung Quốc trong tác phẩm “中國天主教堂” (Giáo hội Công giáo Trung
Quốc) [115]. Tác giả đã trình bày bốn chương, trong đó chương 4 đã đi sâu
phân tích Giáo hội Công giáo Trung Quốc sau cải cách. Đó là việc thành lập
Hội đồng giám mục Giáo hội Công giáo Trung Quốc; vấn đề đào tạo giáo sĩ
thế hệ trẻ; phát huy dân chủ trong Giáo hội và nghiên cứu thần học; các dịch
vụ xã hội Công giáo và quan hệ quốc tế của Giáo hội Công giáo. Tác giả cho
rằng phát huy Giáo hội dân chủ hơn là tìm cách khuyến khích và tổ chức, giáo
sĩ và người tu sĩ tham gia vào việc quản lý công việc của giáo hội.
Các vấn đề về tôn giáo Nhật Bản được nhấn mạnh trong công trình:
“Study of Japanese religion” (Nghiên cứu tôn giáo Nhật Bản) của Joseph
M.Kitagawa do Hoàng Thị Thơ dịch (2002) [116]. Công trình đã tập trung
phân tích quá trình hình thành Thần đạo (Shinto) và Phật giáo trong lịch sử
văn hoá văn minh Nhật Bản. Đây là một chuyên khảo về các tôn giáo Nhật
Bản nhằm mục đích “chỉ ra những hiện tượng phổ quát gọi là “tôn giáo” đã tự
cuộn mình trong vở kịch Lịch sử Nhật Bản như thế nào. Đồng thời cách tiếp
cận liên ngành dân tộc học, địa lý nhân văn, nhân chủng học, ngôn ngữ học,
văn hoá dân gian...và hướng tiếp cận vấn đề tôn giáo thú vị đối với các học
giả và cũng như những ai quan tâm tới vấn đề tôn giáo nói chung và Thần đạo
cũng như Phật giáo nói riêng.
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu nước ngoài có những cách tiếp cận và
quan điểm lý luận khác nhau do bối cảnh lịch sử và các mối quan hệ nhà nước
- xã hội khác nhau. Mỗi công trình nghiên cứu một khía cạnh, một lĩnh vực cụ

11


thể về lĩnh vực tôn giáo. Do vậy, đây là nguồn tư liệu tham khảo giúp tác giả

hoàn thành tốt luận án của mình.
1.2. Các công trình nghiên cứu về hoạt động tôn giáo trong nước
Nhóm các công trình nghiên cứu về lý luận QLNN đối với hoạt
động tôn giáo
Luận án Tiến sĩ (2013), Đời sống tín ngưỡng, tôn giáo: Những vấn đề
lý luận và thực tiễn cấp bách ở Việt Nam hiện nay, tác giả Nguyễn Hoài Sanh,
Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Khoa học xã hội [66]. Luận án đã đưa ra
định nghĩa khái niệm “đời sống tín ngưỡng, tôn giáo”, trình bày vấn đề quan
hệ giữa tôn giáo với chính trị, vấn đề quan hệ giữa tín ngưỡng, tôn giáo với
văn hóa, vấn đề quan hệ giữa tín ngưỡng, tôn giáo với đạo đức. Tác giả đã
nghiên cứu vấn đề gia tăng các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, vấn đề quan
hệ giữa nhà nước với các tổ chức tôn giáo và vấn đề về sự xuất hiện các biểu
hiện tôn giáo mới ở Việt Nam. Tuy nhiên, các nội dung liên quan đến QLNN
về hoạt động tôn giáo chưa được tác giả đề cập đến trong công trình.
Luận án Tiến sĩ (2014), Tôn giáo và pháp luật về tôn giáo trong thời kỳ
đổi mới ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Thị Vân Hà, Chuyên ngành: Tôn giáo
học, Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
[41]. Luận án nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để hình thành pháp luật về
tôn giáo ở Việt Nam; tìm hiểu kinh nghiệm xây dựng pháp luật về tôn giáo ở
một số quốc gia, từ đó có đối chiếu với tình hình xây dựng pháp luật về tôn
giáo ở Việt Nam. Tác giả đã nghiên cứu tiến trình xây dựng, hoàn thiện pháp
luật về tôn giáo ở Việt Nam, nêu lên những thành tựu và hạn chế của công tác
xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tôn giáo ở nước ta. Những vấn đề cần
tiếp tục giải quyết trong quá trình hoàn thiện pháp luật về tôn giáo ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay cũng đã được tác giả nghiên cứu trong Luận án.
Tuy nhiên, các nội dung nghiên cứu về QLNN đối với hoạt động tôn giáo
chưa được tác giả đề cập đến.
Luận án Tiến sĩ (2013), Tư tưởng của Phan Bội Châu về tôn giáo, tín
ngưỡng, tác giả Nguyễn Khắc Sâm, Luận án Tiến sĩ Chủ nghĩa Duy vật biện
chứng và Chủ nghĩa Duy vật lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và

12


Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội [70]. Luận án đã lý giải giá trị, hạn chế
và ý nghĩa của tư tưởng Phan Bội Châu về tôn giáo, tín ngưỡng đối với việc
thực hiện chính sách về tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên,
các khái niệm có liên quan đến QLNN về hoạt động tôn giáo, thực trạng các
hoạt động tôn giáo ở Việt Nam, các giải pháp nhằm QLNN đối với hoạt động
tôn giáo ở Việt Nam chưa được tác giả đề cập.
Cuốn sách (2010), Tôn giáo với đời sống chính trị - xã hội ở một số
nước trên thế giới, tác giả Nguyễn Văn Dũng, Nxb Tôn giáo [37]. Công trình
đã đề cập đến vị trí của tôn giáo trong đời sống chính trị - xã hội Mỹ; Phật giáo
trong xã hội phương Đông; chính sách tôn giáo Nga; Phật giáo ở Liên bang Nga;
về Islam giáo trong đời sống chính trị ở Iran, Pakixtan. Tôn giáo của nước Mỹ
chiếm một vị trí đáng kể trong hệ thống chính trị và có ảnh hưởng đến đời sống
chính trị - xã hội của nước này. Các cuộc họp của Quốc hội luôn được bắt đầu và
kết thúc bằng lễ cầu nguyện.
Cuốn sách (2007), Lý luận về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt
Nam, tác giả Nguyễn Đức Lữ (chủ biên), Nxb Tôn giáo. Công trình đề cập
đến chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, tín ngưỡng;
tôn giáo trên thế giới, các tôn giáo lớn ở Việt Nam, chính sách và việc thực
hiện chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
Cuốn sách (2005), Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam,
tác giả Nguyễn Đức Lữ (chủ biên), Nxb Tôn giáo. Công trình đề cập đến
những bài viết về vai trò tín ngưỡng dân gian trong đời sống tinh thần người
dân Việt Nam; một số lễ hội điển hình trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam;
thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc ở nước ta...
Lý thuyết về vai trò tôn giáo đối với sự phát triển kinh tế - xã hội được
tác giả Đỗ Minh Hợp đề cập trong công trình: Tôn giáo phương Đông (2007)
[52]. Việc nghiên cứu và phân tích các tôn giáo phương Đông từ góc độ lịch

sử hình thành và phát triển của chúng. Cuốn sách trình bày một cách hệ thống
tôn giáo dưới dạng khái quát có hệ thống.
Tôn giáo có ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần xã hội. Công trình
Ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần ở xã hội Nhật Bản của
13


Nguyễn Thị Thúy Anh (2011), Nxb Tôn giáo [1]. Trong công trình, tác giả đã
có sự so sánh về ảnh hưởng của phật giáo đối với đời sống tinh thần xã hội ở
Nhật Bản và Việt Nam. Điểm tương đồng giữa tôn giáo Nhật Bản và Việt
Nam là đều vận dụng và coi “tam giáo đồng nguyên” là nền tảng tư tưởng
chung (niềm tin Phật giáo thường đan xen với Nho giáo và Lão giáo); Phật
giáo linh hoạt gắn liền với các vấn đề dân tộc và trở thành tôn giáo dân tộc;
đạo đức Phật giáo ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống đạo đức xã hội.
Nhóm các công trình nghiên cứu về thực trạng QLNN đối với hoạt động
tôn giáo
Đề tài (2000), Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay, của Học viện Hành chính Quốc gia do tác giả Nguyễn Hữu Khiển
(chủ nhiệm), Đề tài khoa học cấp Bộ [48]. Tác giả đã làm rõ hoạt động tôn
giáo cần coi là đối tượng QLNN, phải cần một bộ máy và nguồn nhân lực
thực hiện hoạt động quản lý; phục vụ trực tiếp việc nghiên cứu và đào tạo
trong quản lý. Đề tài đã đưa ra một số nguyên tắc trong QLNN đối với hoạt
động tôn giáo, đó là: Mọi công dân bình đẳng trước Hiến pháp và pháp luật;
nguyên tắc tự do tín ngưỡng; nguyên tắc về tính thống nhất giữa sinh hoạt tôn
giáo và bảo tồn giá trị văn hoá; nguyên tắc thống nhất, hài hòa giữa lợi ích cá
nhân, cộng đồng và lợi ích quốc gia, xã hội. Những kết quả nghiên cứu trong đề
tài này còn nhiều vấn đề cần phải được bổ sung, phân tích kỹ hơn giải quyết triệt
để hơn và nâng lên tầm cao ở luận án tiến sĩ.
Đề tài (2010) Bối cảnh mới về tôn giáo quốc tế và khu vực tác động đến
tôn giáo Việt Nam, Viện Nghiên cứu tôn giáo [90] đã nghiên cứu đề tài

nghiên cứu cấp Bộ. Công trình đưa ra nhận xét, nguyên nhân của những tồn
tại, hạn chế đối với việc QLNN về các hoạt động tôn giáo chủ yếu như: dù có
chính sách quan tâm, ưu đãi của Nhà nước, song thiếu cán bộ tham mưu
chuyên sâu về tôn giáo, nhất là cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo có
trình độ ở các cơ quan chức năng như: Ban tôn giáo, Ban dận vận, Mặt trận Tổ
quốc, ở các địa phương …nên việc quản lý các tổ chức tôn giáo và hoạt động tôn
giáo còn nhiều tồn tại cần được khắc phục. Cần mở các lớp bồi dưỡng lý luận và
hướng dẫn nghiệp vụ cho các cán bộ quản lý tôn giáo ở các địa phương, nhất là
14


đào tạo các cán bộ là người dân dộc. Điều này là rất quan trọng vì có một thời
gian dài, cán bộ làm công tác tôn giáo của chúng ta chưa chú trọng đúng mức.
Do vậy, việc đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLNN đối với các
hoạt động tôn giáo hiện nay là vấn đề còn bỏ ngỏ, cần được tiếp tục nghiên cứu.
Cuốn sách (2011), Đa dạng tôn giáo: So sánh Pháp - Việt Nam của
Nguyễn Hồng Dương - P.Hoffman (chủ biên), Nxb. Tôn giáo [64]. Nhóm tác
giả đã so sánh đã làm nổi bật tôn giáo Pháp và Việt Nam. Vấn đề của Việt
Nam cũng giống như Pháp, sự nổi lên của các dạng tôn giáo mới, vấn đề cần
so sánh. Đỗ Quang Hưng trong bài “Đời sống tôn giáo Việt Nam những thách
thức đầu tiên của xu thế đa dạng hóa” (Pluralisme) đã nêu ra những thách
thức gồm: Thách thức với văn hoá, bản sắc văn hoá Việt Nam trước hiện
tượng đa dạng hóa tôn giáo; thách thức về mặt thể chế; luật pháp tôn giáo ở
Việt Nam và xu hướng đa dạng hóa tôn giáo. Một trong những thách thức đối
với tôn giáo Việt Nam từ khi xuất hiện “đạo lạ”.
Cuốn sách (2004), Về tôn giáo và tôn giáo Việt Nam của Viện Khoa
học Xã hội Việt Nam [9]. Tác giả đã làm sáng tỏ khái niệm tôn giáo, thời kỳ
tôn giáo xuất hiện, sự ra đời của các tôn giáo khu vực, sự ra đời của các tôn
giáo nội sinh, sự xuất hiện tự do tôn giáo. Tác giả cho rằng khi xã hội công
nghiệp đòi hỏi mỗi tôn giáo năng động hơn, tự do hơn; khó chấp nhận một tổ

chức, một giáo lý với những nghi thức cứng nhắc và phức tạp. Công trình
cũng đã nêu bật được nét đặc trưng của phật giáo Việt Nam. Phật giáo Việt
Nam có điểm khác so với Phật giáo các nước: đó là việc tiếp thu có chọn lọc
các học thuyết, tôn giáo cho phù hợp với dân tộc và có lợi ích thiết thực cho
đất nước; đó là con đường đi đến giác ngộ bằng hành động thực tiễn hàng
ngày của Phật giáo Việt Nam. Theo Phật giáo, cái đẹp đẽ cao cả, cái quý hiếm
không nằm ở đâu xa, không phải trú ngụ trong vương quốc mây mù trừu
tượng mà nó nằm ngay trong thế giới trần tục, không phải ở đâu xa mà ngay
trước mắt, trong tâm mỗi người. Trong cuộc sống, ai hướng thiện, hướng tới
cái tâm bao la bát ngát như biển cả thì người đó tiến dần đến giải thoát. Theo
tư tưởng này con người hướng thiện bằng việc phục vụ nhân dân, phục vụ xã
hội và trong quá trình đó, tâm con người được mở rộng, từ nông đến sâu, từ
15


gia đình, xóm, làng, đến quốc gia và thiên hạ…Càng trải rộng bao nhiêu thì
càng đi dần đến giác ngộ..., có nhiều điểm khác với Phật giáo Ấn Độ và
Trung Quốc. Chính quan điểm này đã dẫn Phật giáo Việt Nam đến chủ nghĩa
yêu nước chân chính. Tác giả cho rằng “trong lịch sử Phật giáo Việt Nam,
nhiều người giác ngộ không chỉ là những phật tử cao tăng, mà là những đại tri
thức, cố vấn cho nhà vua, lãnh đạo chỉ huy quân đội. Bởi vậy, nhiều khi
những người này dẫn dắt Phật tử đi theo những tư tưởng của họ, những tư
tưởng vừa phù hợp với đạo, vừa phù hợp với đời, nên đã góp phần tạo nên
những chiến công hiển hách”. Đây là một trong những nội dung giúp tác giả
đề xuất giải pháp hợp lý trong đề tài nghiên cứu của mình.
Cuốn sách (2014), Chính sách tôn giáo và Nhà nước pháp quyền, tác
giả Đỗ Quang Hưng, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội [55]. Cuốn sách gồm 4
chương. Điểm nổi bật của công trình không chỉ quan tâm đến mối quan hệ
nhà nước với Giáo hội mà còn đi sâu vào khía cạnh nhà nước pháp
quyền và tôn giáo. Đây là công trình nghiên cứu khá toàn diện về luật pháp

tôn giáo ở Việt Nam hiện nay từ pháp lý đến quyền pháp nhân, thể nhân tôn
giáo. Đó là những cơ sở để xác định hai nhóm giải pháp lớn về lý luận chính
sách tôn giáo và các chính sách tôn giáo cụ thể, bao quát từ việc hoàn thiện
mô hình nhà nước thế tục và luật pháp tôn giáo, điều chỉnh mô hình và thay
đổi phương thức quản lý nhà nước đối với tôn giáo. Theo tác giả: Bản chất
của chính sách tôn giáo phải là một chính sách công. Quan hệ giữa Nhà nước
và Giáo hội quyết định phần lớn nội dung, biểu hiện, đường hướng của chính
sách tôn giáo. Mối quan hệ giữa Nhà nước-Giáo hội là có tính cốt lõi trong
việc hoàn thiện chính sách tôn giáo trên cơ sở quan hệ mật thiết giữa chính
sách tôn giáo và thực tiễn đời sống tôn giáo.
Cuốn sách (2005), Một số tôn giáo ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Thanh
Xuân, Nxb Tôn giáo, Hà Nội [101]. Công trình được chia làm hai phần, phần
một: giới thiệu lịch sử ra đời, phát triển, giáo lý, luật lệ, lễ nghi, cách thức
hành đạo, cơ cấu tổ chức Giáo hội của đạo Phật, đạo Công giáo, đạo Tin lành,
đạo Hồi, đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo. Phần hai: giới thiệu một số tổ chức
của đạo Phật, đạo Tin lành, một số Dòng tu, một số trào lưu thần học và các
16


công đồng chung của đạo Công giáo, một số tư liệu cơ bản về tôn giáo trên
thế giới và Việt Nam.
Cuốn sách (1998), Các tôn giáo trên thế giới và Việt Nam, tác giả Mai
Thanh Hải, Nxb.CAND cuốn sách đã cung cấp cho người đọc những kiến
thức cơ bản về lịch sử, giáo lý, cơ cấu tổ chức của các tôn giáo trên thế giới
và Việt Nam.
Cuốn sách (2012), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam,
tác giả Đặng Nghiêm Vạn, Nxb Tôn giáo [87]. Tác giả đã cho để thực hiện tốt
chính sách tôn giáo, tức là có một thái độ ứng xử đúng đắn và phù hợp với vấn
đề tôn giáo, về cả hai phía nhà nước và người dân, trước hết và hơn bao giờ hết
phải đặt việc giải quyết vấn đề tôn giáo trong vấn đề dân tộc. Hai là, để giải

quyết tốt vấn đề tôn giáo phải đặt nó trong vấn đề văn hóa; chống việc lợi dụng
tôn giáo vào mục đích chính trị. Tác giả nhấn mạnh để giải quyết tốt vấn đề tôn
giáo, cần phải đặt nó trong vấn đề văn hoá, vì tôn giáo là một bộ phận văn hoá,
một bộ phận níu chặt với quá khứ, chậm thay đổi so với thực tiễn, lại gắn liền
với cái thiêng liêng của một dân tộc. Đây là cơ sở cho việc đề ra các giải pháp
mang tính đột phá trong lĩnh vực QLNN đối với các hoạt động tôn giáo.
Năm 2009 công trình: Tôn giáo Mỹ đương đại, NxbTừ điển Bách Khoa và
Nxb Tôn giáo [72]. Nước Mỹ không phải là một nhà nước tôn giáo lấy thần quyền
làm trung tâm, nhưng nếu xa rời tôn giáo, rất khó tưởng tượng sẽ có một nước Mỹ
như hiện nay. Tôn giáo đối với nước Mỹ không phải là có hay không có cũng được,
mà là không có không thể được. Mỹ có khoảng 2500 tổ chức tôn giáo, ngoài ra còn
có hàng nghìn tổ chức tôn giáo tương đối nhỏ chưa được thống kê. Ở Hoa Kỳ tổ
chức tôn giáo mới thì nhiều, song số tín đồ lại không đáng kể.
Cuốn sách (2012), Một số vấn đề về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam,
tác giả Trương Hải Cường, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội [25]. Công trình đã tổng
quan về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Công trình đã kết luận: Chính sách
đối với tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đã đáp ứng được đòi hỏi của nhu cầu
sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo bình thường của nhân dân, song vấn đề sinh
hoạt tôn giáo của tâm linh (gồm tín ngưỡng tâm linh, tôn giáo tâm linh và tâm
linh ngoài tín ngưỡng, tôn giáo) đang còn là sự thiếu hụt, bất cập. Đó là điều
17


cần tính tới trong việc bổ sung, hoàn thiện chính sách và việc thực hiện chính
sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Đây là một trong
những nội dung quan trọng trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện luận án,
giúp cho việc đề xuất các giải pháp nhằm xây dựng chính sách khả thi trong
QLNN đối với các hoạt động tôn giáo.
Cuốn sách (2011), Quản lý xã hội về tôn giáo, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền do Tác giả Hoàng Quốc Bảo (chủ biên) [16]. Tác giả đã đưa ra

một số các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả quản lý xã hội về tôn
giáo: Một là, nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm và chỉ rõ trách nhiệm
của cả hệ thống chính trị cũng như toàn xã hội về tôn giáo và công tác quản lý
xã hội về tôn giáo. Hai là, tăng cường công tác vận động quần chúng, xây
dựng lực lượng chính trị cơ sở. Ba là, tăng cường QLNN về tôn giáo. Bốn là,
tăng cường công tác tổ chức cán bộ làm tôn giáo. Trong công trình, tác giả đã
đề xuất một số giải pháp quản lý xã hội về tôn giáo. Nhưng các giải pháp
chưa mang tính QLNN về hoạt động tôn giáo mà mang tính quản lý xã hội về
tôn giáo. Mặt khác, các giải pháp còn mang tính chung chung, chưa đi cụ thể,
chi tiết các giải pháp QLNN về tôn giáo. Do vậy, đây là nguồn tài liệu để tác
giả tiếp tục hoàn thiện luận án của mình.
Cuốn sách (2007), Hỏi đáp một số vấn đề về đạo lạ ở nước ta hiện nay
của Ban Dân vận Trung ương, Nxb. Tôn giáo [14]. Tập thể tác giả cũng đã
đưa ra một số giải pháp nhằm hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của đạo lạ
như: Một là, công tác đấu tranh xử lý các hoạt động tôn giáo trái pháp luật và
những ảnh hưởng tiêu cực của đạo lạ, tà đạo phải đặt dưới sự lãnh đạo toàn
diện và trực tiếp của các cấp ủy Đảng, quản lý điều hành của chính quyền địa
phương. Hai là, phải coi trọng công tác vận động quần chúng và đảm bảo đúng
pháp luật. Ba là, đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống mới
ở khu dân cư. Bốn là, phát huy vai trò, sự tham gia tích cực của lực lượng cốt
cán, người có uy tín, trưởng dòng họ, người thân trong gia đình, các vị chức sắc
trong các tôn giáo có tư cách pháp nhân để lên án, vạch trần các hành vi lợi dụng
tôn giáo.
Viện nghiên cứu tôn giáo và tín ngưỡng (2006), Những thay đổi của
đời sống tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Kỷ yếu hội
thảo khoa học. Công trình đề cập đến bài viết của nhiều tác giả nghiên cứu về
18


sự phát triển quan điểm về tôn giáo trong quá trình đổi mới đất nước; phân

tích đời sống tín ngưỡng Việt Nam trước tác động của sự biến đổi xã hội thế
giới và trong nước; sự cần thiết đổi mới quản lý nhà nước đối với tôn giáo
trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
Nhóm các công trình nghiên cứu về giải pháp QLNN đối với hoạt
động tôn giáo
Luận án tiến sĩ (2004), Hoàn thiện pháp luật về hoạt động tôn giáo ở
Việt Nam hiện nay, tác giả Trần Minh Thư, Luận án Tiến sĩ Luật [83]. Tác giả
đã đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động tôn
giáo ở Việt Nam, đó là việc: Bổ sung, sửa đổi văn bản quy phạm pháp luật về hoạt
động tôn giáo đã ban hành… Đặc biệt tác giả đưa ra giải pháp cần xây dựng “Luật
về hoạt động tôn giáo”. Luận án là nguồn tài liệu có ý nghĩa tham khảo quan trọng
đối với việc tác giả hoàn thiện, nâng tầm luận án quản lý hành chính công của mình.
Luận án Tiến sĩ (2014), “Quản lý Nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam từ
năm 1975 đến nay”, tác giả Bùi Hữu Dược, Luận án tiến sĩ chuyên ngành:
Tôn giáo học; Mã số: 62 22 90 01 [38]. Luận án trình bày cơ sở lý luận và
thực tiễn của quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam. Đánh giá, phân tích
thực trạng kết quả quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam từ năm 1975 đến
nay, đồng thời dự báo và khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước về tôn giáo ở Việt Nam trong thời gian tới. Luận án làm rõ tính tất yếu
và yêu cầu đổi mới QLNN về tôn giáo, trong quan hệ giữa Nhà nước XHCN
với tôn giáo ở Việt Nam. Về thực tiễn từ đánh giá kết quả nghiên cứu QLNN
về tôn giáo thời gian qua, chỉ ra vấn đề cần quan tâm, đưa ra dự thảo và
khuyến nghị nhằm góp phần thúc đẩy QLNN về tôn giáo, phục vụ công tác
quản lý, nghiên cứu về tôn giáo học và một số lĩnh vực liên quan đến tôn giáo.
Đối tượng nghiên cứu của Luận án theo chuyên ngành tôn giáo học, luận án
nghiên cứu chuyên sâu về chủ thể quản lý và các yếu tố để thực hiện quản lý
mà không đi sâu vào đối tượng quản lý. Do vậy, nội dung và phương pháp
nghiên cứu 2 đề tài không có sự trùng lặp.
Luận án Tiến sĩ (2016), Quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo theo pháp
luật Việt Nam hiện nay, tác giả Nguyễn Ngọc Huấn, Luận án tiến sĩ Luật học,


19


×