Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Đánh giá về quy định pháp luật về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính theo cấp xét xử và địa giới lãnh thổ của tòa án nhân dân theo luật TTHC 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.85 KB, 13 trang )

Đề: "đánh giá về quy định pháp luật về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính
theo cấp xét xử và địa giới lãnh thỗ của tòa án nhân dân".
A. MỞ ĐẦU
Tòa án nhân dân chính thức được được trao thẩm quyền xét xử hành chính
từ ngày 1 tháng 7 năm 1996, và điều này đã tạo ra cơ chế tài phán tư pháp tư pháp
độc lập để giải quyết các tranh chấp hành chính. Xét về phương diện lý luận thì
thẩm quyền xét xử hành chính của tòa án là việc giải quyết các tranh chấp hành
chính giữa các chủ thể quản lý hành chính nhà nước với cá nhân, tổ chức trong xã
hội tuân thủ quyền hành pháp.
Thực tiễn thi hành Luật Tố tụng hành chính năm 2010 cho thấy, mặc dù số
lượng các vụ án hành chính ngày càng gia tăng nhưng chất lượng giải quyết, xét xử
các vụ án hành chính chưa thực sự bảo đảm; số lượng các bản án, quyết định về vụ
án hành chính bị huỷ, sửa chưa giảm mạnh; thời hạn giải quyết, xét xử các vụ án
hành chính theo quy định của Luật trong một số trường hợp vẫn còn bị vi phạm.
Từ thực tế trên đòi hỏi cần phải có sự sửa đổi, bổ sung đối với Luật Tố tụng hành
chính. Vì vậy, ngày 25/11/2015 Quốc hội đã thông qua Luật Tố tụng hành chính
năm 2015 với nhiều quy định mới, trong đó có các quy định liên quan đến thẩm
quyền của Tòa án. Vì vậy bài tiểu luận dưới đây sẽ chỉ rõ vấn đề: "đánh giá về
quy định pháp luật về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính theo cấp xét xử và
địa giới lãnh thỗ của tòa án nhân dân".

1


B. NỘI DUNG
I. Khái quát về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân
1. Khái niệm thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân.
1.1 Định nghĩa thẩm quyền.
- Thuật ngữ “thẩm quyền” bắt nguồn từ tiếng La Tinh là “compotentia”, có hai
nghĩa là:
1) Phạm vi các quyền hạn của các cơ quan hoặc người có chức vụ nào đó;


2) Phạm vi những kiến thức và kinh nghiệm mà ai đó có Ý nghĩa đầu trong khoa
học pháp lý và quản lý thường được biểu thị bằng thuật ngữ “thẩm quyền pháp lý”,
ý nghĩa thứ hai – “thẩm quyền chuyên môn”. - “Thẩm quyền chuyên
môn” và “thẩm quyền pháp lý” đều quan trọng đối với quản lý nhà nước và có
quan hệ với nhau rất chặt chẽ.
=> Thẩm quyền chuyên môn của cơ quan thực chất được bảo đảm thông qua việc
đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn, bố trí, sắp xếp cán bộ theo các tiêu chuẩn, yêu cầu
nhất định và cũng dần dần được thể chế hoá thành pháp luật ở một mức độ nào đấy.
Tuy nhiên trong khoa học, pháp luật và thực tiễn thuật ngữ “thẩm quyền” thường
vẫn được hiểu với nghĩa là thẩm quyền pháp lý Thẩm quyền với nghĩa thẩm quyền
pháp lý cũng không đơn nhất. Do tính phức tạp và tồn tại nhiều khái niệm gần gũi,
quan hệ chặt chẽ với nó, nên có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm thẩm
quyền.
=> Thẩm quyền là việc pháp luật cho phép hay qui định bổn phận (trách nhiệm)
cho một cá nhân, một tổ chức được (hay phải) làm một việc gì đó. thẩm quyền luôn
phải được kèm theo một mức độ quyền lực để làm tăng tính thực thi cho thẩm
quyền trước những cản trở có thể.


Định nghĩa thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân.

2


Thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân là quyền và nghĩa vụ
của Tòa án nhân dân trong việc thụ lý và giải quyết các vụ án hành chính
1.2.Sự phát triển của thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính của tòa án nhân dân
Sau 12 năm đi vào hoạt động và giải quyết các vụ án hành chính, Tòa án các
cấp góp phần nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước. Nếu như trước đây, trong quá
trình quản lý, điều hành Nhà nước, cơ quan hành chính chỉ căn cứ vào Luật tổ chức

Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân một cách chung chung để ban hành các
quyết định hành chính, thì nay đã căn cứ cụ thể vào các văn bản quy phạm pháp
luật có liên quan để ban hành quyết định hành chính theo đúng trình tự, thủ tục,
thẩm quyền mà pháp luật đã quy định. Việc thành lập Tòa Hành chính đã góp phần
thúc đẩy quá trình cải cách nền hành chính Nhà nước, buộc các cơ quan Nhà nước
phải tự nâng cao năng lực quản lý và ý thức trách nhiệm; làm cho các cơ quan quản
lý hành chính phải thận trọng, cân nhắc hơn khi ban hành một quyết định hành
chính hay có hành vi hành chính. Nhân dân và công luận quan tâm đến tính công
khai, minh bạch của phiên tòa xét xử. Các quyết định của cơ quan hành chính được
ban hành không đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền và nội dung mà pháp luật quy
định khi bị Tòa án tuyên xử hủy bỏ là thực tế minh chứng cho sự cần thiết của
phán quyết hành chính. Ngược lại, khi các yêu cầu khởi kiện của công dân không
được Toà án chấp nhận cũng giúp cho người khởi kiện hiểu biết và nắm vững hơn
pháp luật, thông suốt những quyết định của cơ quan quản lý hành chính Nhà nước,
từ đó tự nguyện thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của mình. Mặt khác đó cũng là sự
cân nhắc, thận trọng của những người khiếu kiện khác.
II. Thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính theo pháp luật hiện hành.
Thẩm quyền theo loại việc bị khiếu kiện xác định các loại việc thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân theo thủ tục tố tụng hành chính. Theo quy

3


định của Điều 28 Luật tố tụng hành chính quy định về những khiếu kiện thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án, cụ thể:
Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, trừ các quyết định
hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong cac lĩnh vực
quốc phòng, an ninh, ngoại giao thao danh mục đó Chính phủ quy định và các
quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.
Như vậy, khác với quy định của Pháp lệnh vụ án hành chính trước đây khi

quy định về thẩm quyền theo loại việc đó chính là sự giới hạn 22 lĩnh vực được
quyền khiếu nại theo thủ tục tố tụng hành chính. Hiện nay theo Luật tố tụng hành
chính, Tòa án có thẩm quyền giải quyết đối với tất cả các quyết định hành chính,
hành vi hành chính trong mọi lĩnh vực quản lý nhà nước, loại trừ quyết định hành
chính, hành vi hành chính trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo
danh mục do Chính phủ quy định và các quyết định hành chính, hành vi hành
chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.
III. Thẩm quyền xét xử của tòa án nhân dân và địa giới của tòa án nhân dân.
1. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành chính của Tòa án cấp huyện
Điều 29 Luật tố tụng hành chính năm 2010 quy định: “Tòa án nhân dân huyện.
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh …giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu
kiện sau đây:
1. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước từ
cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án hoặc của
người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước đó;
2. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ
chức từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án đối
với công chức thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức đó”.

4


3. Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân của cơ quan lập danh sách cử tri trên cùng phạm vi địa
giới hành chính với Tòa án”.
Xét về nội dung của những quy định nêu trên thì Tòa án cấp huyện chỉ có
thẩm quyền xét xử hành chính sơ thẩm đối với các khiếu kiện có người bị kiện là
cơ quan nhà nước ở cấp huyện trở xuống hoặc là người có thẩm quyền trong các cơ
quan, tổ chức ở cấp huyện trở xuống (người bị kiện ở địa phương); Tòa án có thẩm
quyền là Tòa án có cùng phạm vi địa giới hành chính với người bị kiện. Tuy khoản

1 Điều 12 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính cũng có những nội
dung nêu trên, song điều này không có nghĩa là phạm vi các khiếu kiện thuộc thẩm
quyền xét xử hành chính sơ thẩm của Tòa án cấp huyện theo quy định của Luật Tố
tụng hành chính không được mở rộng. Sở dĩ quy định như vậy là vì theo quy định
tại các khoản 1 và 2 Điều 4 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
thì các quyết định hành chính, hành vi hành chính chỉ là đối tượng của khiếu kiện
hành chính, hành vi hành chính nếu chúng được cơ quan hành chính nhà nước hoặc
người có thẩm quyền trong các cơ quan này ban hành hoặc thực hiện, còn theo quy
định tại các khoản 1, 2 Điều 3 của Luật Tố tụng hành chính năm 2010 thì hành vi
hành chính của cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền đều là đối tượng của
khiếu kiện hành chính.
Như vậy, Luật Tố tụng hành chính không chỉ mở rộng phạm vi các khiếu kiện
thuộc thẩm quyền xét xử hành chính sơ thẩm của Tòa án cấp huyện mà còn khắc
phục được mâu thuẫn giữa quy định tại các khoản 1, 2 Điều 4 với quy định tại
điểm a, khoản 1 Điều 12 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
Tuy nhiên, Luật Tố tụng hành chính cũng có hạn chế là đã không quy định thẩm
quyền xét xử hành chính sơ thẩm của Tòa án cấp huyện đối với các khiếu kiện
quyết định hành chính, hành vi hành chính của tổ chức cấp huyện trở xuống hoặc
của người có thẩm quyền trong các tổ chức này.
5


Vì vậy, Luật Tố tụng hành chính đã kế thừa gần như toàn bộ nội dung và phương
pháp quy định của Pháp lệnh về thẩm quyền xét xử hành chính sơ thẩm của Tòa án
cấp huyện. Do đó, Luật này tuy có những ưu điểm song đã không tránh khỏi có
những hạn chế nhất định.
2. Thẩm quyền xét sơ thẩm vụ án hành chính của Tòa án cấp tỉnh
Khoản 1 Điều 30 của Luật Tố tụng hành chính năm 2010 quy định: “Tòa án
nhân dân tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây:
a. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của bộ, cơ quan ngang bộ,

cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Kiểm
toán nhà nước, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiêm sát nhân dân tối cao và quyết
định hành chính, hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong cơ quan đó
mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa
giới hành chính với Tòa án; trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi
làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án
nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, có hành vi hành
chính;
b. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan thuộc một
trong các cơ quan nhà nước quy định tại điểm a khoản này và quyết định hành
chính, hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong các cơ quan đó mà người
khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc nơi có trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì
thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết
định hành chính, có hành vi hành chính;
c. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước cấp
tỉnh trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án và của người có thẩm quyền
trong cơ quan nhà nước đó;

6


d. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan đại diện
ngoại giao của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài hoặc người
có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú trên cùng phạm
vi địa giới hành chính với Tòa án. Trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú
tại Việt Nam, thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc
Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí minh.
đ. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ
chức cấp tỉnh, bộ, ngành trung ương mà người khởi kiện có nơi làm việc khi bị kỷ
luật trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án;

e. Khiếu kiện quyết định hành chính giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ
việc cạnh tranh mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc nơi trụ sở trên
cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án;
g. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết khiếu
kiện thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện”.
Xét về nội dung của những quy định nêu trên và những quy định tại khoản 2 Điều
12 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì Tòa án cấp tỉnh có
thẩm quyền xét xử hành chính sơ thẩm đối với phần lớn các khiếu kiện không
thuộc thẩm quyền xét xử hành chính sơ thẩm của Tòa án cấp huyện (trừ trường hợp
quy định tại điểm g nêu trên); đối với những khiếu kiện có người bị kiện ở trung
ương thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án có cùng phạm vi địa giới hành chính với
người khởi kiện. Ưu điểm của Luật Tố tụng hành chính năm 2010 so với Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đó là đã quy định thẩm quyền xét xử hành
chính sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, Tòa án nhân dân thành phố
Hồ Chí Minh và Tòa án cấp tỉnh nơi ra quyết định hành chính hay nơi có hành vi
hành chính bị khiếu kiện tại các điểm a, b và d khoản 1 Điều 30 của Luật này.

7


3. so sánh thẩm quyền tòa án nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh.
So với các quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2010, Điều 31 và
Điều 32 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 có những sửa đổi, bổ sung cơ bản để
phân định rõ thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính giữa Tòa án cấp huyện
với Tòa án cấp tỉnh:
Thứ nhất, có sự thay đổi lớn về thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính của
Tòa án cấp huyện và Tòa án cấp tỉnh trong Luật Tố tụng hành chính năm 2015. Đó
là, đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ
tịch UBND cấp huyện thì thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm thuộc về Tòa
án cấp tỉnh chứ không còn thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện như quy định

của Luật Tố tụng hành chính năm 2010. Quy định này có ý nghĩa trong việc thúc
đẩy dân chủ, công khai, minh bạch nền hành chính; tạo điều kiện để thẩm phán
thực hiện tốt nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Việc thay đổi về thẩm
quyền giải quyết này xuất phát từ những lý do sau:
- Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 xác định tăng thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp
huyện, nhưng cần phải có lộ trình thực hiện và phải bảo đảm hiệu quả, chất lượng
giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện nhằm bảo vệ tốt
nhất quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013.
- Thực tiễn xét xử các vụ án hành chính cho thấy, đa số các khiếu kiện đối với
quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND
cấp huyện liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai, có tính chất phức
tạp và việc giải quyết có liên quan đến người bị kiện là người có chức vụ, quyền
hạn, nên cần thẩm phán có kiến thức chuyên sâu, có kinh nghiệm và bản lĩnh thì
việc giải quyết vụ án mới đạt hiệu quả cao. Việc giải quyết các khiếu kiện quyết
định hành chính, hành vi hành chính ở cấp huyện hiện nay chưa bảo đảm chất
lượng; tỷ lệ án bị hủy, sửa cao.

8


- Việc giao cho Tòa án cấp tỉnh giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính, hành
vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện sẽ khắc phục tình
trạng e ngại, nể nang của thẩm phán trong việc xét xử; nếu có kháng cáo, kháng
nghị thì sẽ do Tòa án nhân dân cấp cao giải quyết theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc
thẩm, nên tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong xét xử của các thẩm phán sẽ
cao hơn, bảo đảm việc giải quyết khách quan, hiệu quả hơn.
- Mặt khác, theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và các luật
tố tụng mới được ban hành thì Tòa án cấp tỉnh không còn chức năng giám đốc
thẩm. Do vậy, việc giao cho Tòa án cấp tỉnh giải quyết khiếu kiện quyết định hành

chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện sẽ
không gây quá tải về công việc cho Tòa án cấp tỉnh.
Để bảo đảm tính khả thi và có lộ trình trong quá trình thi hành các quy định của
Luật Tố tụng hành chính năm 2015, khoản 5 Điều 1 Nghị quyết số 104/2015/QH13
ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật Tố tụng hành chính quy định:
Kể từ ngày 01/7/2016, đối với những khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi
hành chính của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện đã được Tòa án cấp
huyện thụ lý giải quyết trước ngày 01/7/2016 thì Tòa án đã thụ lý tiếp tục giải
quyết theo thủ tục chung mà không chuyển cho Tòa án cấp tỉnh giải quyết.
Thứ hai, khoản 8 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định: “Trường
hợp cần thiết, Tòa án cấp tỉnh có thể lấy lên giải quyết vụ án hành chính thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện theo quy định tại Điều 31 của Luật
này”. Quy định này đã được hướng dẫn tại Điều 4 Nghị quyết số 02/2011/NQHĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn thi hành một số quy định của Luật Tố tụng hành chính (Nghị quyết số
02/2011/NQ-HĐTP). Theo các nội dung đã được hướng dẫn thì các khiếu kiện sau
đây cũng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp tỉnh:
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc thẩm quyền giải
9


quyết của Tòa án cấp huyện mà các thẩm phán của Tòa án cấp huyện đó đều thuộc
trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi.
- Vụ án có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho
cơ quan đại diện ngoại giao của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước
ngoài hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.

10


C. KẾT BÀI.

Luật Tố tụng hành chính đã kế thừa và phát triển những quy định hợp lý về
phân cấp thẩm quyền xét xử hành chính sơ thẩm của Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính. Tuy nhiên, việc Luật này sử dụng phương pháp liệt kê để
phân cấp thẩm quyền xét xử hành chính sơ thẩm cho Tòa án cấp huyện và Tòa án
cấp tỉnh, liệt kê quá nhiều dấu hiệu để xác định thẩm quyền xét xử hành chính sơ
thẩm của mỗi Tòa án.
Luật tố tụng hành chính 2015 ra đời đã tạo ra một bước tiến mới cho sự phát
triển pháp luật tố tụng hành chính, tuy nhiên để tạo thuận lợi cho người dân, tổ
chức và cơ quan tổ chức thực thi hiệu quả, nhanh chóng cần đánh giá một khách
quan, toàn diện quy định pháp luật, đặc biệt chú trọng quy định về mặt thẩm quyền
- một nội dung quan trọng của Tố tụng hành chính để từ đó kịp thời hướng dẫn, bổ
sung cho phù hợp với thực tiễn đất nước và hội nhập quốc tế, nâng cao hiệu quả
hoạt động quản lí hành chính Nhà nước và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức, đảm bảo công bằng, dân chủ, pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

11


MỤC LỤC

12


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình Luật tố tụng Hành Chính ( chương 2) - Trường Đại học Kiểm Sát

2.
3.

4.

Hà Nội.
Luật tố tụng hành chính năm 2010
Luật tố tụng hành chính năm 2015
"Quyền hạn của Toà án nhân dân trong xét xử sơ thẩm các vụ án hành
chính", Tạp chí Luật học" - Ths. Nguyễn Văn Quang

13



×