Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình trên địa bàn tp HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (614.81 KB, 118 trang )

BỘ NỘI VỤ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

….. /…..

………. /……….

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

---------------

NGUYỄN THỊ NGỌC TÚ

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TIẾN SĨ TRẦN TRỌNG ĐỨC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2017
1


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành nhờ sự quan tâm, hỗ trợ, của các cơ quan, tổ
chức và cá nhân.
Trước hết, tôi xin dành lời cảm ơn trân trọng nhất đến Ban Giám đốc Học
viện Hành chính Quốc gia và Quý Thầy, Cô đã giảng dạy chương trình Cao học
Quản lý công, lớp Cao học HC K19N5. Những kiến thức quý báu mà Quý Thầy,
Cô đã tận tình dạy bảo, truyền đạt là nền tảng cho tôi thực hiện luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến Tiến sỹ Trần Trọng Đức,


người đã dành rất nhiều thời gian và tâm huyết để trực tiếp chỉ dạy, hướng dẫn tôi
trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Đồng thời, tôi cũng xin cảm ơn các đồng chí lãnh đạo Quận ủy, Ủy ban
Nhân dân, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội TP.HCM, Sở Văn hóa và Thể thao
TP. HCM, Hội Liên hiệp Phụ nữ các quận, huyện trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh, các anh, chị, bạn bè, đồng nghiệp đã tạo điều kiện giúp đỡ để tôi có thể hoàn
thành luận văn này.
Mặc dù tôi đã cố gắng để hoàn thiện luận văn, tuy nhiên không thể tránh
khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp của Quý Thầy, Cô và các
anh, chị.
Học viên

Nguyễn Thị Ngọc Tú

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và
không trùng lặp với các đề tài khác. Mọi thông tin, số liệu trong luận văn đều được
trích dẫn nguồn gốc theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Học viên

Nguyễn Thị Ngọc Tú

3



PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là một xã hội thu nhỏ, nhiều gia đình cộng lại mới tạo thành xã hội.
Điều này trước hết chỉ ra rằng, gia đình và xã hội có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Nếu coi xã hội là cơ thể sống thì mỗi gia đình là tế bào làm nên cơ thể xã
hội. Xã hội lành mạnh tạo điều kiện cho các gia đình tiến bộ hạnh phúc, góp phần
cho sự phát triển hài hòa, bền vững của xã hội. Việc xây dựng gia đình mới là một
trong những vấn đề quan trọng của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì
gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình.
Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt”. Một
điều khẳng định rằng: Gia đình là tế bào tự nhiên, đồng thời là một đơn vị kinh tế
của xã hội. Không có gia đình tái tạo ra con người để xây dựng xã hội thì xã hội
cũng không thể tồn tại và phát triển được.
Tuy nhiên, gia đình Việt Nam hiện nay đang chịu nhiều tác động của xã hội,
nhất là trong thời k công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và quá trình hội nhập,
toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Điều này dẫn đến việc các giá trị của gia đình
đang ngày càng bị suy giảm nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến sự phát triển toàn
diện của xã hội, mà một trong những nguyên nhân chính là nạn bạo lực gia đình.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, k họp thứ 2 thông qua ngày 21/11/2007 có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/7/2008. Qua 09 năm triển khai thực hiện Luật và hơn 06 năm
triển khai thực hiện Đề án “Tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình
Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020” đã tạo sự chuyển biến về nhận thức và hành động
4


của cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể, cán bộ và các tầng lớp nhân dân
trên địa bàn cả nước nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, góp phần cải

thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Có thể nói, những năm đầu triển khai thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực
gia đình, hầu hết người dân cho rằng, bạo lực gia đình là việc riêng tư của gia đình
nên khi xảy ra sự việc, chuyện trình báo và sự tham gia can thiệp của cộng đồng
chưa nhiều, chủ yếu là một số vụ bạo hành lớn về thể chất. Sau 09 năm triển khai
thực hiện Luật, đặc biệt là công tác thông tin, truyền thông được đẩy mạnh, việc
thực hiện mô hình phòng, chống bạo lực gia đình và sự vào cuộc của các cấp, các
ngành, các đoàn thể chính trị đã tạo sự lan tỏa trong cộng đồng. Người dân đã cơ
bản hiểu được thế nào là bạo lực gia đình và tác hại của nó, nên đã từng bước tích
cực tham gia phòng, chống bạo lực gia đình. Số nạn nhân bạo lực gia đình khai báo
đã tăng; đặc biệt một số hình thức bạo lực nhạy cảm như bạo lực kinh tế, bạo lực
tình dục đã được nạn nhân khai báo…
Mặc dù đạt được những kết quả bước đầu trong thực hiện Luật phòng, chống
bạo lực gia đình, song công tác này vẫn còn nhiều hạn chế, tồn tại. Trong đó, nhận
thức và sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư cho công tác gia đình và phòng,
chống bạo lực gia đình ở một số địa phương, một số cấp ủy, chính quyền còn hạn
chế; công tác phối hợp giữa các ngành, đoàn thể ở cơ sở trong việc triển khai và tổ
chức thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình có nơi chưa chặt chẽ và hiệu
quả chưa cao. Các văn bản, đề án thực hiện công tác PCBLGĐ trên địa bàn Thành
phố tuy được thực hiện nhiều ở ba cấp nhưng thiếu tập trung, chưa tạo được sức
tác động mạnh mẽ để đẩy nhanh sự chuyển đổi, nâng cao nhận thức chung về tầm
quan trọng của hoạt động PCBLGĐ còn tồn tại ở một số địa phương, đơn vị. Nhiều
nơi đã thành lập Ban chỉ đạo công tác gia đình nhưng chưa phát huy tốt vai trò
tham mưu cho UBND cùng cấp lãnh đạo, chỉ đạo công tác PCBLGĐ và các nhân
5


viên chưa phát huy hết vai trò, khả năng để tham mưu cho lãnh đạo cơ quan triển
khai công tác PCBLGĐ ở cơ quan, đơn vị mình. Đội ngũ cán bộ phụ trách công tác
PCBLGĐ hầu như chưa được đào tạo đúng chuyên ngành và còn phải kiêm nhiệm

thêm nhiều công tác khác dẫn đến chất lượng, hiệu quả công việc trong hoạt động
này không cao.
Ngoài ra, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các báo cáo thống
kê hàng năm của các quận huyện trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, và qua
quan sát hàng ngày trong đời thường, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy số vụ bạo
hành gia đình đối với phụ nữ vẫn tiếp tục có dấu hiệu gia tăng với mức độ ngày
càng nghiêm trọng hơn. Rất nhiều chị em phụ nữ bị chồng đánh mà không dám lên
tiếng, không dám báo chính quyền (trừ những trường hợp bị đánh nguy hiểm đến
tính mạng, bị đánh nhiều lần, đánh ở trên đường phố, trước cửa nhà... thì chính
quyền địa phương hoặc công an mới vào cuộc và thông thường giải quyết theo kiểu
hòa giải và tình trạng này lại tiếp diễn). Các số liệu mới được đưa ra đã nêu bật
một thực trạng là đa số phụ nữ đang sinh sống tại TP. Hồ Chí Minh đều có nguy cơ
tiềm tàng bị bạo lực gia đình ở một hay một vài thời điểm nào đó trong cuộc sống
của họ.
Điều này chứng tỏ, hoạt động quản lý nhà nước đối với việc phòng, chống
bạo lực gia đình trên địa bàn Thành phố đang gặp một số khó khăn thách thức bởi
sự tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau. Vấn đề đã và
đang đặt ra là: Làm gì và làm như thế nào để vừa ngăn chặn hiện tượng tiêu cực
này, đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia
đình, đảm bảo cho mỗi công dân được an toàn cả về thể chất lẫn tinh thần. Xuất
phát từ những cơ sở và yêu cầu cấp thiết đó, tác giả đã chọn đề tài “Quản lý nhà
nƣớc về phòng, chống bạo lực gia đình trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”
làm luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý công.
6


2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn
Trong thời gian qua đã có một số bài viết, đề tài nghiên cứu đề cập về thực
trạng và chỉ ra yêu cầu phải tăng cường quản lý nhà nước đối với việc phòng,
chống bạo lực gia đình. Có thể chia các bài viết thành hai loại:

Thứ nhất, các phóng sự điều tra của các cơ quan báo chí đề cập đến thực
trạng bạo lực gia đình với số vụ và mức độ nghiêm trọng ngày càng gia tăng.
Ngoài ra, còn một số khác là những báo cáo sơ kết, tổng kết hàng năm của các cơ
quan quản lý nhà nước về tình hình phòng, chống bạo lực gia đình và công tác
quản lý nhà nước với hoạt động này.
Thứ hai, các sách chuyên khảo, các bài báo trên các tạp chí khoa học, các đề
tài nghiên cứu khoa học như:
-

Sách chuyên khảo "Bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam - thực

trạng, diễn tiến và nguyên nhân" (2009) của Nguyễn Hữu Minh, Trần Thị Vân Anh
(đồng chủ biên). Nội dung sách gồm 03 phần và 09 chương, trình bày tổng quan
các nghiên cứu đã công bố về bạo lực gia đình đồng thời đi sâu phân tích định
lượng về bạo lực gia đình từ 3 cuộc khảo sát: điều tra của ngân hàng thế giới
(1999); điều tra SAVY (2003) và điều tra thực trạng bình đẳng giới (2005). Cuối
cùng, tác giả đưa ra những phát hiện chính của cuộc khảo sát định tính về diễn tiến
của bạo lực gia đình, các yếu tố thúc đẩy và hạn chế bạo lực gia đình và hoạt động
phòng ngừa, can thiệp từ các tổ chức. Tuy nhiên, nội dung QLNN về vấn đề
PCBLGĐ vẫn chưa được nhắc đến trong cuốn sách này.
-

Sách "Bạo lực giới trong gia đình Việt Nam và vai trò của truyền thông đại

chúng trong sự nghiệp phát triển phụ nữ" (2005) do TS. Hoàng Bá Thịnh chủ biên,
được xây dựng từ một tập hợp các bài nghiên cứu, tham luận của các nhà khoa học

7



trong nước. Tất cả các bài viết trong quyển sách này đề cập đến mọi khía cạnh của
BLGĐ nhưng vẫn chưa đi sâu phân tích trên giác độ QLNN nhằm PCBLGĐ.
-

Bài viết "Giải pháp nâng cao hiệu quản lý nhà nước về phòng, chống bạo

lực gia đình ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Trang đăng trên Tạp chí Quản lý
nhà nước (Số 3, 2016). Trong bài viết này, tác giả đã đề cập đến tính cấp thiết phải
nâng cao chất lượng QLNN về PCBLGĐ và đưa ra các giải pháp để đẩy mạnh hiệu
quả QLNN về PCBLGĐ ở Việt Nam nói chung.
Thứ ba, một số đề tài nghiên cứu bàn về các giải pháp phòng, chống bạo lực
gia đình như:
-

Đề tài nghiên cứu luận văn cao học “Một số vấn đề pháp lý về bạo lực gia

đình ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Đinh Thị Hồng Minh (Hà Nội, 2011): tác
giả đã tổng quát những vấn đề lý luận cũng như khung pháp lý về tình trạng bạo
lực gia đình nhằm đề ra những phương hướng, giải pháp khắc phục, hoàn thiện
chính sách pháp luật về vấn đề này.
-

Luận văn thạc sĩ Luật học "Luật phòng chống bạo lực gia đình với việc

hạn chế ly hôn do bạo lực gia đình" của tác giả Nguyễn Thị Lệ (Hà Nội, 2010): tác
giả
phân tích những mặt tích cực và những khó khăn bất cập của hệ thống pháp luật
Việt Nam về gia đình, bạo lực gia đình. Từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế
tình trạng ly hôn có nguyên nhân chủ yếu do bạo lực gia đình.
-


Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính công "Quản lý nhà nước về phòng

chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ trên địa bàn Thành phố Hà Nội" của tác giả
Nguyễn Kim Quý (Hà Nội, 2012): tác giả tập trung làm rõ những vấn đề lý luận cơ
bản về bạo lực gia đình và quản lý nhà nước về phòng chống bạo lực gia đình tại
Thành phố Hà Nội. Đồng thời kiến nghị các giải pháp để loại trừ hành vi bạo lực
này trong xã hội.
8


Có thể nói, ở các công trình này, các tác giả chủ yếu nghiên cứu, đánh giá
thực trạng bạo lực gia đình đang diễn ra như thế nào, tình hình xử lý tình trạng này
ra sao trên các giác độ pháp luật, tâm lý và giới nói chung. Một số công trình đã đi
sâu phân tích vấn đề quản lý nhà nước đối với công tác phòng, chống BLGĐ
nhưng ở phạm vi hẹp.
Các công trình nghiên cứu trên đây đã có những đóng góp nhất định trong
việc cung cấp lý luận chung về phòng, chống bạo lực gia đình và nâng cao hiệu
quả công tác này. Song đối với loại đề tài quản lý nhà nước về phòng, chống bạo
lực gia đình đối với phụ nữ vẫn là mới, nhất là trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở vận dụng thành tựu của khoa học hành chính, nghiên cứu các văn
bản quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình và các quy định pháp luật
hiện hành liên quan đến hoạt động kiểm tra, xử lý đối với các vi phạm về bạo hành,
đặc biệt là thực trạng quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình ở TP. Hồ
Chí Minh, đề tài vạch rõ những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân; đồng thời tìm ra
phương hướng và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước trên lĩnh vực này tại địa
bàn TP. Hồ Chí Minh.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, hệ thống hóa những vấn đề cơ bản, lý luận về BLGĐ và QLNN về
PCBLGĐ. Đồng thời làm rõ kinh nghiệm PCBLGĐ ở một số tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương.
Hai là, phân tích và đánh giá thực trạng QLNN về phòng, chống bạo lực
trong gia đình trên địa bàn TP.HCM.
9


Ba là, đề xuất các giải pháp hoàn thiện QLNN về PCBLGĐ trên địa bàn TP.
Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực
gia đình đối với phụ nữ trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh thông qua hệ thống thể chế,
tổ chức bộ máy, chính sách thực thi đối với hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh
vực này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước về
phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.
-

Thời gian: Từ khi Quốc hội ban hành Luật phòng, chống bạo lực gia đình

đến nay và định hướng cho các năm tiếp theo.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Để thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học này, tác giả dựa trên phương pháp
luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng ta
về xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam - một thiết chế văn hóa trong nền văn

hóa tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc, kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn
hoạt động quản lý nhà nước đối với việc phòng, chống bạo lực gia đình.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng là:
- Phương pháp nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, quy nạp tài liệu: mục đích là
tìm hiểu lịch sử nghiên cứu vấn đề, nắm bắt nội dung các tác giả đi trước đã làm,
10


phân tích nội dung và tổng hợp tài liệu về đối tượng nghiên cứu của đề tài luận
văn. Từ đó đưa ra cơ sở lý thuyết về QLNN đối với công tác phòng, chống BLGĐ
và đánh giá, khái quát thành những quan điểm, luận điểm làm nền tảng lý thuyết
cho luận văn.
-

Phương pháp nghiên cứu văn bản quy phạm pháp luật và những văn bản

quản lý nhà nước về vấn đề phòng, chống bạo lực gia đình: tác giả sử dụng phương
pháp này để nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến BLGĐ
và QLNN về PCBLGĐ; các công trình, đề tài khoa học, đã được công bố; chương
trình, dự án, báo cáo của các cơ quan có thẩm quyền; các bài báo đăng trên các tạp
chí khoa học chuyên ngành...
-

Phương pháp thống kê số liệu: các số liệu định lượng thu thập được từ các

tài liệu thống kê và kết quả quan sát được sắp xếp để làm bộc lộ mối liên hệ và xu
thế của sự vật, hiện tượng. Các số liệu này được trình bày dưới nhiều dạng như
bảng, biểu số liệu, biểu đồ, đồ thị, chỉ số trung bình... làm cơ sở đánh giá thực
trạng của vấn đề nhằm rút ra các kết luận (các mặt ưu điểm, hạn chế, nguyên

nhân...) và đưa ra một số giải pháp giải quyết vấn đề một cách cụ thể nhằm hoàn
thiện QLNN về PCBLGĐ.
-

Phương pháp khảo sát, điều tra xã hội học, thu thập và xử lý thông tin dưới

nhiều hình thức: phiếu khảo sát (200 phiếu phát ra), phỏng vấn trực tiếp, phỏng vấn
sâu (35 cuộc phỏng vấn với đối tượng là các chị em phụ nữ trên địa bàn các quận
10, Bình Thạnh, Gò Vấp)… Số cuộc phỏng vấn có thể cao hơn nhưng do nhiều lý
do, mà một trong số đó là do chị em phụ nữ vẫn còn e ngại trong việc chia sẻ
chuyện riêng tư của gia đình mình với người lạ nên tác giả cũng gặp không ít khó
khăn khi áp dụng phương pháp này trong thực tế.Tuy nhiên thông tin thu thập được
sau khảo sát rất có giá trị với độ tin cậy cao, giúp ích rất nhiều cho tác giả để

11


đưa ra các giải pháp phù hợp với thực tế tình hình bạo lực gia đình đối với phụ nữ
trong thời gian tiếp theo.
Các phương pháp nêu trên được vận dụng và kết hợp linh hoạt nhằm đảm
bảo nội dung của luận văn đáp ứng cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn khách quan và
khoa học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Theo tác giả, luận văn có những đóng góp chủ yếu sau:
Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước
đối với việc phòng, chống bạo lực gia đình từ thực tiễn một số quận, huyện trên địa
bàn TP. Hồ Chí Minh, luận văn đã đưa ra hệ thống lý luận khoa học về bạo lực gia
đình và quản lý nhà nước đối với hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình; quan
điểm của Đảng và nhà nước ta về phòng, chống bạo lực gia đình; sự cần thiết,
những nội dung và phương thức quản lý nhà nước đối với hoạt động mang tính

nhạy cảm này. Bên cạnh đó, luận văn cũng nghiên cứu công tác quản lý nhà nước
đối với việc phòng, chống bạo lực gia đình tại một số quận, huyện trên địa bàn TP.
Hồ Chí Minh để từ đó có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm trong hoạt động
quản lý nhà nước trên lĩnh vực này hiện nay.
Về mặt thực tiễn: Qua phân tích, đánh giá hoạt động quản lý nhà
nước đối với phòng, chống bạo lực gia đình trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, luận
văn đã làm rõ thực trạng quản lý, những mặt làm được, chưa làm được, nguyên
nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan trong hoạt động quản lý nhà nước đối với
lĩnh vực này. Từ những cơ sở trên, luận văn đưa ra những định hướng, những giải
pháp có tính khả thi cao nhằm tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về vấn đề
phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ trong thời gian tới.

12


7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục và tài liệu tham khảo, luận
văn gồm ba chương:
Chƣơng I: Lý luận chung về bạo lực gia đình và quản lý nhà nước về
phòng, chống bạo lực gia đình.
Chƣơng II: Thực trạng quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình
trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.
Chƣơng III: Một số giải pháp trong công tác phòng, chống bạo lực gia đình
trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.

13


CHƢƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHÒNG,
CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH

1.1. Lý luận chung về bạo lực gia đình
1.1.1. Khái niệm cơ bản có liên quan
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, gia đình là một phạm trù xuất hiện sớm
nhất trong lịch sử nhân loại, thay đổi cùng với sự phát triển của xã hội. Ngay từ
thời nguyên thủy cho tới hiện nay, không phụ thuộc vào cách kiếm sống, gia đình
luôn tồn tại và là nơi để đáp ứng những nhu cầu cơ bản cho các thành viên trong
gia đình. Cho đến nay, gia đình vẫn đang được định nghĩa theo nhiều cách khác
nhau. Việc xác định khái niệm gia đình có ý nghĩa quan trọng trong đời sống của
mỗi con người, trong nhận thức xã hội đồng thời là cơ sở để Nhà nước xây dựng
những chính sách phù hợp với gia đình. Thực tế, gia đình là một khái niệm phức
hợp bao gồm các yếu tố sinh học, tâm lý, văn hóa, kinh tế,... khiến cho nó không
giống với bất k một nhóm xã hội nào. Từ mỗi một góc độ nghiên cứu hay mỗi một
khoa học khi xem xét về gia đình đều có thể đưa ra một khái niệm gia đình cụ thể,
phù hợp với nội dung nghiên cứu. Sau đây là một số khái niệm về gia đình:
Trong cuốn Từ điển xã hội học của G.Endrweit và G.Trommsdorff, các tác
giả đưa ra định nghĩa gia đình như sau: “Gia đình là một nhóm thuộc loại đặc biệt
vì nó biểu hiện một cấu trúc, vai trò nhất định, sự tách biệt về giới tính và thế hệ là
tiêu chí của cơ cấu gia đình, ngoài ra xã hội cũng trao cho nhóm đặc biệt này
những chức năng rất đặc biệt” [17, tr.12]. Theo định nghĩa này, gia đình được xác
định là một nhóm có cấu trúc và đảm nhận những chức năng nhất định trong xã
hội.
Theo cuốn sách Gia đình học, “Gia đình là một thiết chế xã hội liên kết con
người lại với nhau nhằm thực hiện việc duy trì nòi giống và chăm sóc con cái. Các
mối quan hệ gia đình còn được gọi là mối quan hệ họ hàng. Đó là sự liên kết ít nhất
14


cũng là của hai con người dựa trên hai mối quan hệ cơ bản là hôn nhân (chồng vợ) và huyết thống (cha mẹ - con). Những người này cũng phải sống với nhau”
[22, tr.54].
Gia đình là thiết chế xã hội dựa trên cơ sở kết hợp những thành viên khác

giới, thông qua hôn nhân, để thực hiện các chức năng sinh học, kinh tế, văn hoá, xã
hội, tín ngưỡng... Khi gia đình đã có con cái, thì các thành viên trong gia đình được
liên kết với nhau vừa bằng quan hệ hôn nhân (không cùng huyết thống) vừa bằng
quan hệ huyết thống (theo dòng mẹ hoặc dòng bố).
Đối với xã hội học, gia đình thuộc về phạm trù cộng đồng xã hội. Vì vậy,
có thể xem xét gia đình như một thiết chế xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng
trong quá trình xã hội hóa con người. Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một
nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân,
quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con nuôi; bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách
nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của mỗi thành viên
cũng như để thực hiện tính tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người.
Theo mục 10, Điều 8, Chương I Luật Hôn nhân và gia đình ban hành ngày
9

tháng 6 năm 2000 giải thích: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau

do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các
nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của Luật này” [30, tr.3]
Qua các nhận định trên, có thể tóm lại một định nghĩa chung nhất “Gia
đình là một nhóm người, có quan hệ với nhau bởi hôn nhân, huyết thống hoặc quan
hệ nghĩa dưỡng, có đặc trưng giới tính qua quan hệ hôn nhân, cùng chung sống và
có ngân sách chung”.
Có nhiều cơ sở để phân loại gia đình thành các loại khác nhau.
-

Dựa trên quy mô, có thể phân loại gia đình thành:
15





Gia đình hai thế hệ (hay gia đình hạt nhân) bao gồm cha mẹ và con.

 Gia đình ba thế hệ (hay gia đình truyền thống) bao gồm ông bà, cha mẹ

và con; còn gọi là tam đại đồng đường.
Gia đình bốn thế hệ trở lên là gia đình nhiều hơn ba thế hệ; còn gọi là tứ
đại đồng đường.


-

Dưới khía cạnh xã hội học và về quy mô các thế hệ trong gia đình, cũng có

thể phân chia gia đình thành hai loại:


Gia đình lớn (gia đình ba thế hệ hoặc gia đình mở rộng) thường được

coi là gia đình truyền thống liên quan tới dạng gia đình trong quá khứ. Đó là một
nhóm người ruột thịt của một vài thế hệ sống chung với nhau dưới một mái nhà.
Gia đình nhỏ (gia đình hai thế hệ hoặc gia đình hạt nhân) là nhóm người
thể hiện mối quan hệ của chồng và vợ với các con, hay cũng là mối quan hệ của một
người vợ hoặc một người chồng với các con. Gia đình nhỏ là dạng gia đình đặc biệt
quan trọng trong đời sống gia đình. Nó là kiểu gia đình của tương lai và


ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại và công nghiệp phát triển.
Bạo lực nói chung theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) có thể được hiểu là
việc đe dọa hay dùng sức mạnh thể chất hay quyền lực đối với bản thân, người

khác hoặc đối với một nhóm người, một cộng đồng người mà gây ra hay làm tăng
khả năng gây ra tổn thương, tử vong, tổn hại về tâm lý, ảnh hưởng đến sự phát
triển hay gây ra sự mất mát.
Theo Từ điển Tiếng Việt định nghĩa bạo lực “là sức mạnh dùng để cưỡng
bức, trấn áp hoặc lật đổ” [35, tr.33]. Với giải thích này, bạo lực thường được hiểu
theo nghĩa là phương thức thực hiện một cuộc cách mạng lật đổ chính quyền và
thiên về sử dụng vật chất.

16


Khái niệm bạo lực gia đình là một dạng thức của bạo lực xã hội. Bạo lực
gia đình là bất k việc sử dụng vũ lực hay cưỡng ép tình dục, dù đã sử dụng hay đe
dọa sử dụng, trong quan hệ tình cảm hay quan hệ gia đình. Bạo lực gia đình có thể
bao gồm một hành động đơn lẻ hoặc một số hành động tạo nên một kiểu lạm dụng
trong đó có những hành vi tấn công hoặc kiểm soát.
Định nghĩa bạo lực gia đình của Liên hiệp quốc thông qua năm 1993 được
các tổ chức cũng như các nhà khoa học trên thế giới chấp nhận rộng rãi. Theo đó,
bạo lực gia đình là bất k hành động bạo lực nào dẫn đến hoặc có thể dẫn đến những
tổn thất về thân thể, tâm lý hay tình dục hay những đau khổ của người trong gia
đình, bao gồm cả sự đe dọa có những hành động như vậy, việc cưỡng bức hay tước
đoạt sự tự do.
Bạo lực gia đình là hành vi cố ý. Mục đích của bạo lực gia đình là để thiết
lập và áp dụng quyền lực và sự kiểm soát đối với người khác. Bạo lực được sử
dụng để đe dọa, xúc phạm hoặc làm nạn nhân khiếp sợ. Nam giới thường sử dụng
bạo lực nêu trên với vợ hoặc bạn tình, bao gồm vợ hiện tại hoặc vợ cũ, bạn gái
hoặc đối tác hẹn hò.


Việt Nam, Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 định nghĩa


“Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả
năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với các thành viên khác trong
gia đình” [29, tr.5].
Như vậy, từ những quan điểm khác nhau về bạo lực gia đình, ta có thể hiểu
một cách chung nhất về bạo lực gia đình như sau: bạo lực gia đình là hành vi gây
tổn hại đến sức khỏe, tinh thần, thể chất của thành viên gia đình lên 1 thành viên
khác trong gia đình với nhiều hành động khác nhau của người gây ra hành vi bạo
lực dẫn đến hậu quả cho gia đình, người thân và xã hội.
17


1.1.2. Phân loại, tính chất bạo lực gia đình
Dựa trên hiện tượng, mức độ, tính chất và các yếu tố đặc trưng của bạo lực
gia đình, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 đã đưa ra một số cách phân
loại khác nhau như:
Bạo lực thể chất, được hiểu là việc một người sử dụng sức mạnh cơ bắp
(tay, chân) hoặc công cụ (thậm chí cả vũ khí) để bạo hành như đánh, đấm, đá, tát
gây nên sự đau đớn về thân thể của nạn nhân… hoặc các hình thức khác mà gây
tổn hại tới sức khỏe thể chất của người bị bạo hành như là hắt nước sôi, bắt chui
vào cũi,… hoặc ngăn cản việc đi khám chữa sức khỏe.
Thực tế cho thấy bạo lực thể chất đối với phụ nữ trong gia đình là một hành
động nguy hiểm mà không được mọi người trong xã hội chú ý ngăn cản. Bạo lực
thể chất ở Việt Nam chiếm 15% tổng số các hình thức bạo lực gia đình.
Bạo lực tinh thần là loại hình bạo lực không sử dụng vũ lực, tác động lên
tinh thần của nạn nhân. Bạo lực tinh thần là những biểu hiện nhằm gây tổn thương
tâm lý bởi những lời nói và không lời như quát tháo, đe dọa, chửi rủa, sỉ nhục, bỏ
rơi không quan tâm; nói những lời xúc phạm đến nhân phẩm, trừng phạt con cái để
làm cho người mẹ đau đớn hoặc tự trừng phạt mình; lăng mạ, hạ thấp giá trị một
người trước những người khác; kiểm soát hoặc ngăn cấm người phụ nữ tham gia

các hoạt động xã hội hoặc kinh tế. Trong loại bạo hành này đáng chú ý là loại bạo
hành ngôn ngữ.
Trên thế giới hiện chưa thống nhất về định nghĩa bạo lực tinh thần. Bạo lực
tinh thần hoặc tâm lý thường là dạng bạo lực khó xác định nhất vì một số lý do.
Thứ nhất, không có biểu hiện tổn thương bên ngoài. Thứ hai, những hành vi như
“xúc phạm” hoặc “đổ lỗi” có thể xảy ra trong bất cứ mối quan hệ nào và có thể
chưa tới ngưỡng “lạm dụng”. Để xác định loại hành vi này có phải là một dạng bạo
18


lực gia đình hay không thì cần xem xét xem nó có dựa trên quyền lực và sự kiểm
soát hay không. Nhìn chung bạo lực tâm lý hoặc tinh thần thường phải là những
hành động như thường xuyên đe dọa, hạ nhục hay kiểm soát chứ không phải là
hành vi gây sức ép tâm lý hoặc xúc phạm đơn thuần.
Bạo lực kinh tế/tài chính là một thành viên trong gia đình dùng quyền lực
để ép buộc các thành viên khác, tạo sự lệ thuộc của họ về kinh tế, gồm các hành
động hoặc quyết tâm thực hiện để đưa nạn nhân phụ thuộc vào tài chính, bao gồm
các hành vi sau: ngưng hỗ trợ về tài chính và ngăn cản nạn nhân có một nghề
nghiệp, công việc hợp pháp; kiểm soát tiền bạc, tước đoạt hay đe dọa tước đoạt các
nguồn tài chính về quyền sử dụng, thừa hưởng của vợ, chồng, cộng đồng và quyền
sở hữu tài sản nói chung; phá hủy tài sản trong gia đình; cưỡng ép các thành viên
gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ,…
Bạo lực tình dục là bất k hành động hoặc hành vi nào trong tình dục mà
không được sự chấp nhận của người kia, bao gồm những hành động như cưỡng ép
quan hệ tình dục, ngăn chặn sử dụng các biện pháp tránh thai hay bắt ép mang thai
hoặc phá thai theo ý muốn của người chồng, bạn tình… Hành vi này có thể diễn ra
một lần hoặc lặp đi lặp lại nhiều lần và diễn ra cả trong quan hệ vợ chồng hoặc bạn
tình. Trong các hình thức bạo hành, bạo hành tình dục ít bị phát hiện và nạn nhân
không được bảo vệ, vì ở nước ta tình dục là vấn đề hết sức tế nhị khó tìm hiểu. Ở
Việt Nam, bạo hành tình dục chiếm khoảng 20%, nghĩa là cứ 05 phụ nữ thì có ít

nhất 01 người bị bạo hành tình dục.
1.1.3. Nguyên nhân và hậu quả của bạo lực gia đình đối với phụ nữ
Có nhiều nguyên nhân gây nên tình trạng bạo lực gia đình, xuất phát từ
nhiều khía cạnh:
Thứ nhất, nguyên nhân phát sinh từ hoàn cảnh sống:

19


Hoàn cảnh sống khó khăn, thiếu thốn vật chất là nguyên nhân dẫn đến gia
tăng tình trạng bạo lực gia đình. Đa số nạn nhân trong các trường hợp bạo lực gia
đình đều không có đủ tiền, thời gian và thông tin để gọi điện thoại hoặc đến tận nơi
trình báo, nhờ tư vấn và giúp đỡ. Thực tế bạo lực diễn ra ở tất cả các nhóm gia
đình, không phân biệt mức sống, trình độ. Tuy nhiên, đối với những gia đình có
hoàn cảnh sống khó khăn thì các hành vi bạo lực gia đình xuất hiện nhiều hơn.
Cuộc sống khó khăn khiến các thành viên trong gia đình không có đủ điều kiện học
hành, nâng cao nhận thức, họ không nhận thức được một cách đầy đủ tác hại của
các hành vi bạo lực gia đình.
Thứ hai, nguyên nhân phát sinh từ văn hóa vùng miền, phong tục tập quán: Người
Việt Nam hiện nay vẫn chịu nhiều ảnh hưởng của nền văn hóa phong kiến với
những quan niệm mang màu sắc đậm nét về định kiến giới, tư
tưởng gia trưởng, “trọng nam khinh nữ”, “chồng chúa – vợ tôi”, “mâm trên, mâm
dưới”,… đã khiến cho suy nghĩ của người nam giới cho rằng chỉ có họ mới làm
chủ gia đình, có quyền quyết định mọi việc, có quyền la mắng, đánh đập các thành
viên khác trong gia đình.
Thứ ba, nguyên nhân phát sinh từ công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật
về phòng, chống bạo lực gia đình còn hạn chế. Trình độ nhận thức và sự hiểu biết
về pháp luật trong một bộ phận người dân còn thấp cũng là nguyên nhân dẫn đến
tình trạng bạo lực gia đình vẫn còn tiếp tục xảy ra. Nhiều người do thiếu hiểu biết
về pháp luật nên cho rằng cha mẹ có quyền đánh đập, chửi mắng con cái, chồng có

quyền đánh vợ… Nhiều phụ nữ, người già cũng không nhận thức được đầy đủ
quyền của mình nên không dám đấu tranh mà cam chịu bạo lực, hay do tư tưởng
"xấu chàng hổ ai" mà chấp nhận im lặng. Tuy nhiên, cũng giống như nguyên nhân
về hoàn cảnh sống, bạo lực gia đình vẫn xảy ra ở cả những gia đình mà thành viên
có trình độ học vấn cao, am hiểu về pháp luật. Sự quan tâm của cộng đồng tới
20


phòng, chống bạo lực gia đình còn chưa đầy đủ. Cộng đồng và các gia đình vẫn coi
bạo lực gia đình là vấn đề riêng tư trong mỗi gia đình và người ngoài không nên
can thiệp. Chính vì vậy, phản ứng của cộng đồng đối với các hành vi bạo lực gia
đình còn thờ ơ, chưa mạnh mẽ. Việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý
hành vi bạo lực gia đình còn chưa kịp thời, nghiêm minh, vì thế bạo lực vẫn tiếp
tục xảy ra mà không bị ngăn chặn.
Có thể nói, gia đình là nơi trú ngụ của hạnh phúc, cái nôi nuôi dưỡng và
giáo dục con người, là nơi trở về sau mỗi lần vấp ngã của mỗi người. Nhưng trong
nhiều trường hợp, bạo lực đang trở thành một trong những nguy cơ biến gia đình
thành “địa ngục trần gian”, khiến cho nạn nhân của nó cảm thấy bị đe dọa, bất an
ngay chính trong môi trường đáng ra phải là nơi an toàn nhất, nơi che chở và bao
bọc cho họ, là nơi chốn quay về sau một ngày lao động vất vả. Nạn nhân của bạo
lực gia đình không phân biệt già, trẻ, lớn, bé, nam, nữ. Tuy nhiên, đa phần trong
các vụ việc nạn nhân đều là phụ nữ chân yếu tay mềm, chủ yếu là những người
yếm thế, ít có tiếng nói và có địa vị quyền lực trong xã hội.
Mỗi hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ đều trực tiếp hay gián tiếp tác
động đến chính cá nhân mỗi con người, đến hạnh phúc gia đình và trật tự xã hội.
Vì vậy hậu quả có thể để lại như:
Một là, bạo lực giữa vợ và chồng dưới bất k hình thức cũng để lại những
tác động tiêu cực đến sức khỏe về thể chất, tinh thần không chỉ của nạn nhân mà
còn cả các thành viên khác trong gia đình.
Hai là, bạo lực gia đình đối với phụ nữ tác động tiêu cực đến lực lượng

lao động và do đó cũng tác động đến các hoạt động kinh tế. Bạo lực gia đình đối
với phụ nữ trực tiếp gây ra những tổn thất nặng nề như gia tăng bệnh tật và tự tử,
mất sức lao động, mất khả năng tham gia sản xuất…
21


Ba là, bạo lực gia đình chống lại phụ nữ chất gánh nặng lên hệ thống y tế,
an sinh, bảo trợ xã hội. Bạo lực gia đình đặt ra yêu cầu với hệ thống bảo trợ xã hội
của quốc gia về việc trợ giúp và bảo vệ những nạn nhân là phụ nữ và trẻ em. Ví dụ,
để bảo vệ các phụ nữ và trẻ em là nạn nhân của các hành vi bạo lực trong gia đình,
cần thiết phải xây dựng hệ thống các cơ sở tạm lánh, nhà tạm trú cho họ.... Bạo lực
gia đình đối với phụ nữ thường dẫn đến sự đổ vỡ gia đình, kéo theo tình trạng trẻ
em không được chăm sóc, nuôi dưỡng, trẻ bỏ nhà đi lang thang, có thai ngoài ý
muốn, nạn nhân của bạo lực bị nhiễm HIV và các bệnh lây qua đường tình dục…
tạo nên gánh nặng rất lớn cho hệ thống bảo trợ và y tế xã hội; không chỉ dừng lại ở
việc là bắt buộc phải cung cấp nơi tạm lánh cho nạn nhân, mà còn bao gồm cả việc
xây dựng các cơ sở nuôi dưỡng, phục hồi thể chất, tinh thần cũng như chính sách,
cơ chế khác để giải quyết các vấn đề an sinh xã hội phát sinh về lâu dài.
Bốn là, bạo lực gia đình đối với phụ nữ đồng thời cũng chất gánh nặng
lên hệ thống giáo dục. Bạo lực giữa vợ và chồng có thể gây ra cho những đứa trẻ
trong gia đình, cũng là những học sinh đang tuổi ăn tuổi học - nạn nhân trực tiếp
hoặc gián tiếp, phải chứng kiến cảnh người mẹ là nạn nhân của bạo lực gia đình những rối loạn tâm lý và sự sa sút trong học tập. Những vết thương tâm hồn ấy sẽ
in sâu vào tiềm thức và điều khiển hành vi của trẻ trong quá trình lớn lên, thậm chí
có thể gây nên hiện tượng "chuyển giao hành vi bạo lực gia đình cho thế hệ sau".
Năm là, bạo lực giữa vợ và chồng chống lại phụ nữ đồng thời cũng chất
gánh nặng lên hệ thống các cơ quan tư pháp. Điều này dễ hiểu bởi lẽ pháp luật của
hầu hết quốc gia trên thế giới hiện đã xếp các hình thức bạo lực gia đình (ở những
phạm vi, mức độ khác nhau) là những hành vi vi phạm pháp luật và vì vậy, mỗi khi
các hành vi bạo lực gia đình xảy ra, các cơ quan tư pháp sẽ phải "vào cuộc" để điều
tra, truy tố, xét xử. Do đó, khối lượng công việc mà cơ quan tư pháp phải đảm

đương lại càng tăng cao.
22


1.2. Quản lý nhà nƣớc về phòng, chống bạo lực gia đình
1.2.1. Khái niệm
Trước khi đưa ra định nghĩa quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia
đình, cần phải tìm hiểu một số định nghĩa liên quan như:
Quản lý là đối tượng nghiên cứu và vận hành của nhiều ngành khoa học
trên các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn. Trong mỗi lĩnh
vực, phạm vi hoặc mỗi ngành nghề nghiên cứu ứng dụng và vận hành quản lý ở
mỗi góc độ riêng biệt, để từ đó đưa ra các định nghĩa riêng về quản lý của lĩnh vực
hay ngành khoa học đó.
Hiện nay, ở Việt Nam, quản lý là thuật ngữ có thể hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau tùy thuộc vào góc độ nghiên cứu của các ngành khoa học khác nhau. Có
thể kể đến một số định nghĩa như sau:
-

Trong lĩnh vực xã hội loài người, quản lý ở phạm vi vĩ mô được chia

thành hệ thống quản lý và hệ thống bị quản lý; ở phạm vi vi mô, quản lý được chia
thành chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Theo đó, “Quản lý là sự tác động có tổ
chức, có định hướng của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý và khách thể quản
lý bằng các phương thức nhất định để đạt được những mục tiêu định trước”. [40,
tr.14]
-

“Quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá trình, căn cứ

theo quy luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng để cho hệ thống hay quá trình ấy

vận động theo ý muốn của người quản lý và nhằm đạt được những mục đích đã
định trước”. [40, tr.135]
-

“Quản lý là sự tác động có ý thức để chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các

quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để hướng đến mục đích đúng
ý

chí và phù hợp với quy luật khách quan”. [40, tr.136]
23


Có thể nói, có rất nhiều cách định nghĩa thuật ngữ “quản lý”, tuy nhiên, xét
trên góc độ nghiên cứu của đề tài có thể hiểu thống nhất về quản lý như sau: Quản
lý là thuật ngữ chỉ hoạt động có ý thức của con người nhằm sắp xếp, tổ chức, chỉ
huy, điều hành, hướng dẫn, kiểm tra các quá trình xã hội và hoạt động của con
người để hướng chúng phát triển phù hợp với quy luật xã hội, đạt được mục tiêu
xác định theo ý chí của nhà quản lý với chi phí thấp nhất.
Tiếp đến, thuật ngữ "Quản lý nhà nước" được sử dụng khá phổ biến ở
Việt Nam với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Có thể liệt kê một số định nghĩa của
các nhà nghiên cứu luật pháp, hành chính như:
-“Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà
nước để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người”.
[40, tr.153]
-“ Quản lý nhà nước là hoạt động của Nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp,
hành pháp, tư pháp, nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà
nước”. [40, tr.153]
- “Quản lý nhà nước là hoạt động có tổ chức bằng pháp quyền của bộ máy
nhà nước (công quyền) để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi của công dân

và mọi tổ chức xã hội, chính trị, khoa học, văn hóa - xã hội nhằm giữ gìn thể chế
chính trị, trật tự và phát triển xã hội theo những mục tiêu đã định”. [40, tr.153]
- “Quản lý nhà nước là thuật ngữ chỉ hoạt động thực hiện quyền lực nhà
nước của các cơ quan trong bộ máy nhà nước nhằm thực hiện các chức năng đối
nội và đối ngoại của Nhà nước trên cơ sở các quy luật phát triển xã hội, nhằm mục
đích ổn định và phát triển đất nước”. [40, tr.155]

24


-

“Quản lý nhà nước là hoạt động hành chính của các cơ quan thực thi

quyền lực nhà nước để quản lý, điều chỉnh các lĩnh vực của đời sống xã hội theo
luật pháp”. [18, tr.15]
-

“Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền

lực nhà nước và sử dụng pháp luật nhà nước để điều chỉnh hành vi, hoạt động của
con người trên tất cả các mặt của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà
nước thực hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người, duy trì sự ổn định và phát
triển của xã hội”. [18, tr.13]
Mặc dù có nhiều cách giải thích khác nhau nhưng tựu chung về nội dung
các khái niệm này đều có những điểm giống nhau, đều mang những đặc điểm cơ
bản phản ánh bản chất của quản lý nhà nước như:
-

Chủ thể quản lý nhà nước là các cơ quan có thẩm quyền trong hệ thống


nhà nước, gồm có cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp.
-

Đối tượng quản lý nhà nước là tất cả các cá nhân, tổ chức hoạt động trên

phạm vi lãnh thổ Việt Nam; công dân và tổ chức Việt Nam sống và hoạt động bên
ngoài lãnh thổ quốc gia.
-

Quản lý nhà nước là quản lý toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời

sống xã hội, bao gồm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng,
ngoại giao…
-

Quản lý nhà nước mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng pháp luật,

chính sách làm công cụ chủ yếu để quản lý xã hội.
-

Mục tiêu của quản lý nhà nước là phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và

phát triển bền vững của toàn xã hội.
Từ những đặc điểm trên có thể hiểu: Quản lý nhà nước là sự tác động
mang tính quyền lực của nhà nước đến mọi vấn đề, mọi đối tượng của đời sống
25



×