Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Phân tích các vấn đề pháp lý và thực tiễn xét xử các cá nhân bị coi là tội phạm quốc tế tại một thiết chế tài phán quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.31 KB, 9 trang )

MỞ ĐẦU
Trong điều kiện thế giới đang đứng trước các thời cơ và thách thức, nền chính
trị quốc tế còn nhiều yếu tố không ổn định, tình hình tội phạm diễn biến rất
phức tạp và ngày càng gia tăng, nhất là tội phạm có tính chất quốc tế, để tìm
hiểu về vấn đề tội phạm quốc tế, em xin trình bày đề tài : Phân tích các vấn đề
pháp lý và thực tiễn xét xử các cá nhân bị coi là tội phạm quốc tế tại một thiết
chế tài phán quốc tế
I.
Các vấn đề pháp lý về Tòa án hình sự quốc tế ( The International
Criminal Court _ ICC)
1.
Cơ cấu tổ chức của Tòa án hình sự quốc tế
Theo điều 34 quy chế Rome, Cơ cấu tổ chức của Tòa án Hình sự quốc tế gồm 4
bộ phận chính:
Cơ cấu của Tòa án hình sự quốc tế
Ban chánh
án (The
Presidency
)

2.

Các bộ phận(Chambers)

Bộ
phận
Dự
thẩm

Thẩm quyền tài phán


Bộ
phận

thẩm

Bộ
phận
Phúc
thẩm

Văn phòng
công tố
( The
Office of
prosecutor)

Văn phòng
lục sự
( The
Registry)

2.1. Thẩm quyền theo vụ việc _ Jurisdiction ratione materiae (quyền tài phán
đối với các loại tội phạm)
Theo điều 5 quy chế Roma, ICC không có thẩm quyền toàn phán mà chỉ có
thẩm quyền hạn chế về 4 tội phạm nghiêm trọng nhất đối với cộng đồng quốc
tế: tội diệt chủng, tội chống loài người, tội phạm chiến tranh và tội xâm lược.
Nhưng trong giai đoạn đầu, thẩm quyền của Tòa án chỉ mới trong phạm vi của
ba tội đầu vì với tội xâm lược Tòa án sẽ hoãn xử cho đến khi có định nghĩa
chính thức về tội xâm lược thật khách quan, khoa học khác với định nghĩa trước
đây của Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc

a. Tội diệt chủng(Genocide )
Điều 6 Quy chế Rome quy định “diệt chủng “ là bất kì hành vi nào trong số
những hành vi được thực hiện “ nhằm tiêu diệt toàn bộ hay một bộ phận nhóm
dân tộc, sắc tộc, chủng tộc hoặc tôn giáo” được thực hiện bằng một trong các
cách thức: giết các thành viên của nhóm, gây thương tích hoặc tổn hại nghiêm
trọng tinh thần cho các thành viên của nhóm, cố ý ép buộc về các điều kiện
sống của nhóm nhằm hủy hoại về mặt thể chất toàn bộ hoặc một phần của
nhóm, cố ý áp dụng các biện pháp ngăn chặn sinh sản trong nhóm hoặc di
~1~


chuyển cưỡng bức trẻ em của nhóm này sang nhóm khác. Các hành vi này có
tính chất xâm hại tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể của “nhóm người”. Bất kỳ
người nào ra lệnh , dụ dỗ hoặc xúi giục, kích động người khác thực hiện hoặc cố
gắng thực hiện các hành vi này sẽ phạm tội diệt chủng.Những người trợ giúp,
tiếp tay hoặc những hình thức giúp đỡ khác nhằm thực hiện hoặc cố gắng thực
hiện những hành vi này cũng phạm tội diệt chủng. Theo quy chế Rome, bất kỳ
người nào dù ở cương vị nào (binh lính trực tiếp sát hại dân thường, nhà lãnh
đạo lên kế hoạch, ra lệnh thực hiện…) thực hiện những hành vi đó đều phạm tội
diệt chủng và không chấp nhận quyền miễn trừ với bất kì ai nếu có hành vi trên,
kể cả thực hiện trong thời chiến hay thời bình và trong phạm vi lãnh thổ quốc
gia hay ở nước ngoài
b. Tội chống loài người (crimes agains humanity)
Tội chống loài người được ghi nhận tại quy chế Rome và trước đó là Tuyên bố
Xanh Pê téc bua 1986, quy chế Tòa án Nurembec… Tội chống loài người là bất
kỳ hành vi nào trong số những hành vi được thực hiện với quy mô lớn và có hệ
thống nhằm tấn công vào bất kì một cộng đồng dân thường nào với mục đích
được nêu tại 11 điểm điều 7 quy chế Rome: giết người;hủy diệt; ép buộc làm
nô lệ; trục xuất hoặc di chuyển cưỡng bức dân cư; tù giam hoặc có hình thức
khác tước đoạt tự do thân thể con người một cách nghiêm trọng vi phạm các

quy tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, tra tấn, ngược đãi các nhóm hoặc tập thể
ngườu đặc định vì lý do chính trị, chủng tộc, dân tộc. bộ tộc, văn hóa, tôn giáo,
giới hoặc vì các lý do khác được thừa nhận rộng rãi là không thể cho phép theo
pháp luật quốc tế; ép buộc người đi biệt tích; tội phân biệt chủng tộc hoặc các
hành vi vô nhân đạo khác có cùng tính chất cố ý gây đau đớn lớn hoặc gây
thương tích nghiêm trọng cho thân thể hoặc tinh thần hoặc sức khỏe vật chất.
Cũng như các tội ác quốc tế khác, những tội chống lại loài người không phân
biệt thực hiện cả trong thời chiến lẫn thời bình. Một trong những dấu hiệu quan
trọng để nhận biết tội chống loài người là tấn công trên phạm vi rộng (số lượng
nạn nhân lớn), hoặc có hệ thống (mức độ tổ chức cao) nhằm mục tiêu vào dân
thường và thực hiện các hành vi vô nhân đạo.
c. Tội phạm chiến tranh (war crimes)
Theo quy chế Rome tội phạm chiến tranh thuộc thẩm quyền xét xử của ICC chia
làm hai nhóm chính:
- Nhóm tội phạm được thực hiện bởi những cá nhân bị cáo buộc là vi phạm
nghiêm trọng bốn Công ước Giơnevơ 1949, bao gồm những hành vi chống lại
những người đã được Công ước bảo vệ : thương binh, bệnh binh, các thủy thủ
của tàu bị đánh chìm hoặc hư hại, tù binh và những thường dân trong các vùng
lãnh thổ bị chiếm đóng. Cụ thể là :chủ tâm giết chóc, tra tấn, đối xử tàn bạo phi
nhân tính, dùng con người thí nghiệm sinh học, chiếm đoạt và hủy hoại trên
~2~


dieenjn rộng tài sản mà không thể biện hộ bằng các yêu cầu về quan sự và được
thực hiện một cách bất hợp pháp và trái đạo lý, ép buộc gia nhập quân đội của
nước thù địch, cố ý tước đoạt quyền được xét xử công khai và công bằng, di
chuyển, giam giữ bất hợp pháp, bắt làm con tin.
- Nhóm tội phạm được cấu thành vởi những hành vi khác vi phạm Luật quốc tế
về nhân đạo với một phạm vi rộng, bao gồm những vi phạm được ghi nhận tại
Quy tắc La Hay và nghị thư I của công ước Giơ ne vơ và luật tập quán quốc tế

liên quan, những sự tấn công vào dân thường, cộng đồng dân cư, các mục tiêu
dân sự, các đơn vị trợ giúp nhân đạo hoặc gìn giữ hòa bình…đe dọa những
người không có khả năng tự vệ, sử dụng những biện pháp bị cấm trong thời
chiến, sử dụng các vũ khí bị cấm như đầu độc, vũ khí độc, khí độc; cố ý sử dụng
sự đói khát của thường dân làm công cụ chiến tranh; tuyển mộ, cưỡng bức nhập
ngũ trẻ em dưới 15 tuổi hoặc sử dụng trẻ em trong chiến đấu. Đồng thời các
hành vi vi phạm luật tập quán quốc tế ( xâm hại tính mạng, thân thể con người,
hạ nhục nhân phẩm, bắt giữ con tin, ra phán quyết và thi hành không hợp thức,
cố tình tấn công thường dân, nhân viên hoặc thiết bị cứu trợ nhân đạo hoặc gìn
giữ hòa bình, hành vi hãm hiếp, nô lệ tình dục, cưỡng ép bán dâm, cưỡng ép
mang thai, sinh sản…) nhằm vào những người không trực tiếp tham gia chiến
đấu, kể cả những người thuộc lực lượng vũ trang đã hạ vũ khí hoặc khong tham
chiến cũng bị coi là tội phạm chiến tranh thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án.
2.2. Thẩm quyền theo thời gian (quyền tài phán theo thời gian)
ICC chỉ có quyền tài phán đối với các tội phạm được thực hiện sau khi Quy chế
Rome có hiệu lực (01/07/2002) nhằm tôn trọng tuyệt đối nguyên tắc “không có
tội khi không có luật”:một Tòa án mới chỉ có thể biết đến những vụ án mới. Nếu
một quốc gia trở thành thành viên của Quy chế sau ngày 1/7/2002 thì ICC có
thể thực hiện quyền tài phán đối với hành vi phạm tội liên quan đến quốc gia đó
về mặt lãnh thổ hoặc quốc tịch sau khi Quy chế có hiệu lực với quốc gia đó
2.3. Thẩm quyền theo không gian (quyền tài phán theo lãnh thổ)
Về mặt không gian, quyền tài phán của ICC không chỉ giới hạn trong phạm vi
các quốc gia thành viên Quy chế Rome mà trong một số trường hợp còn vươn
xa đến các quốc gia phi thành viên như quốc gia có lãnh thổ nơi tội phạm xảy ra
hoặc nơi tàu biển hoặc tàu bay có tội phạm xảy ra đăng ký, quốc gia có bị cáo là
công dân. Thẩm quyền này pháp luật quốc tế chỉ giới hạn trong một số ít tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng (tội cướp biển, tội buôn bán phụ nữ và trẻ em). Quy
chế Rome cho phép ICC có thể thực thi thẩm quyền pháp lý với công dân của
các nước không phải thành viên mà không cần có sự chấp thuận của quốc gia đó
hay chỉ định của Hội đồng bảo an, chỉ khi tội ác được viện dẫn xảy ra trên vùng

lãnh thổ của quốc gia thành viên (thẩm quyền pháp lý quốc tế phổ quát)
~3~


2.4. Điều kiện thực hiện quyền tài phán của Tòa án hình sự quốc tế
Theo điều 13 quy chế Rome, ICC có thể thực hiện quyền tài phán với các tội
phạm nêu tại điều 5 quy chế khi:
- Vụ việc được Hội đồng bảo an Liên hợp quốc thông báo cho Trưởng công tố
theo đúng thẩm quyền được quy định tại chương VII Hiến chương Liên hợp
quốc
- Vụ việc được quốc gia thành viên thông báo cho Trưởng công tố
- Trưởng công tố tự mình mở điều tra ( hành vi điều tra độc lập _ proprio motu)
trước khi Tòa án được phép thực hiện quyền xét xử
3. Thủ tục điều tra, truy tố và xét xử
Thủ tục điều tra, truy tố
- Cơ quan điều tra, truy tố gồm hai cơ quan: Văn phòng công tố đặt dưới sự lãnh
đạo của Trưởng Công tố có chức năng tiến hành điều tra và truy tố người phạm
tội ra trước Tòa trong phạm vi những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của
Tòa án và Hội đồng xét xử ( có ít nhất 6 thẩm phán) xác định tính có căn cứ và
hợp pháp của việc tiến hành điều tra với vụ án và đưa ra quyết định sơ bộ về vụ
án có thuộc thẩm quyền của ICC hay không
- Người tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố gồm :Trưởng Công tố,
Phó Công tố và Công tố viên, Điều tra viên và có thể thay đổi người tiến hành
tố tụng theo Quy tắc số 34.
Vụ án được bắt đầu bằng việc khởi tố vụ án (khởi kiện), thẩm quyền khởi kiện
theo quy chế Rome quy định gồm có quyền khởi kiện của ba chủ thể: Quốc gia
thành viên, Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và Trưởng Công tố. Sau khi nhận
được đề nghị khởi tố, nếu xét thấy đủ căn cứ theo quy định của quy chế Rome,
Trưởng Công tố sẽ quyết định mở điều tra làm rõ tội phạm và hành vi phạm tội
của những người có liên quan đến vụ án. Sau khi khởi kiện, vụ án sẽ bước sang

giai đoạn điều tra nhằm thu thập chứng cứ làm rõ tội phạm và hành vi của bị can
làm cơ sở cho việc truy tố và xét xử: xác định vụ việc có thuộc thẩm quyền của
ICC không, xác định hình sự về tội phạm và chứng minh hành vi của bị can, bị
cáo có thỏa mãn cấu thành tội phạm được quy định tại điều 5 quy chế Rome hay
không, tính chất, mức độ phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự và tình tiết có liên quan khác. Trưởng Công tố phải đệ trình bằng văn
bản đề nghị hội đồng dự thẩm để xin phép điều tra vụ việc kèm theo các tài liệu
có liên quan. Hội đồng dự thẩm sẽ xem xét vụ việc trên cơ sở thẩm quyền của
ICC và quy định của quy chế Rome. Nếu Hội đồng dự thẩm không phê chuẩn
đề nghị điều tra thì Trưởng công tố phải ngừng việc điều tra chính thức trừ khi
có tình tiêt mới hoặc chứng cứ mới.
~4~


Việc truy tố của Công tố viên phải được thẩm tra bởi Hội đồng Dự thẩm tại một
phiên xử với sự có mặt của Trưởng Công tố, bị can cùng Luật sư của họ. Để mở
phiên tòa phải có kết luận điều tra, đề nghị của Trưởng Công tố và sự có mặt
của bị cáo và những người có liên quan khác. Trong một thời gian hợp lý sau
khi đương sự được chuyển giao hoặc tự nguyện có mặt tài Tòa, hội đồng Dự
thẩm phải mở một phiên tòa để xác nhận lời buộc tội mà căn cứ vào đó Trưởng
Công tố dự định sẽ truy tố người đo ra Tòa án. Trưởng Công tố phải đưa ra đủ
các chứng cứ hỗ trợ cho từng nội dung buộc tội để xác lập những căn cứ vững
chắc chứng tỏ người bị buộc tội đã thực hiện tội phạm bị cáo buộc. Hội đồng
Dự thẩm đưa ra một trong các quyết định: xác nhận lời buộc tội của Trưởng
Công tố và chuyển giao người bị buộc tội cho Hội đồng sơ thẩm để tiến hành
xét xử; từ chối xác nhận lời buộc tội hoặc hoãn phiên tòa và yêu cầu xem xét,
cung cấp chứng cứ hoặc điều tra bổ sung.
Thủ tục xét xử
Theo khoản 8 Điều 64 Quy chế Rome, khi bắt đầu phiên tòa, Hội đồng Sơ thẩm
công bố cho bị cáo biết bản cáo trạng đã được Hội đồng Dự thẩm phê chuẩn.

Khi xác định được bị cáo hiểu nội dung bản cáo trạng, Hội đồng Sơ thẩm hỏi bị
cáo về việc nhận tội hay không nhận tội để áp dụng các thủ tục tố tụng tiếp theo
(phiên tòa bị cáo nhận tội và phiên tòa thông thường), xem xét để quyết định
hình phạt và bồi thường thiệt hại.
Hội đồng Sơ thẩm nghị án kín, quyết định được thông qua theo nguyên tắc đa số
và được ban hành bằng văn bản, quyết định của Hội đồng Sơ thẩm là duy nhất
bản án của Tòa án được tuyên bố công khai và không nhất thiết phải có mặt
người bị kết án.
4.

Tội phạm quốc tế

Định nghĩa tội phạm quốc tế:
Theo khoa học luật hình sự quốc tế, tội phạm quốc tế (tội ác quốc tế) là các
hành vi xâm hại nghiêm trọng đến quyền lợi sống còn của cộng đồng quốc tế,
đe dọa an ninh và hòa bình thế giới. Tội phạm quốc tế được Ủy ban luật quốc tế
xác định là các hoạt động chống lại pháp luật quốc tế, phát sinnh do hành vi vi
phạm nghĩa vụ quốc gia. Theo điều 5 Quy chế Rome, tội phạm quốc tế thuộc
thẩm quyền tài phán của Tòa án hình sự quốc tế bao gồm:Tội phạm diệt chủng
(Genocide crimes);Tội chống loài người (Crimes against humanity); Tội phạm
chiến tranh (War crimes); Tội ác xâm lược (Agrression crimes _ Các hành vi bị
coi là hành vi xâm lược được quy định tại nghị quyết 3314 của Đại hội đồng
Liên hợp quốc ngày 14/12/1974, chính là "hành vi sử dụng lực lượng vũ trang
của một quốc gia chống lại một quốc gia khác ")
~5~


Trách nhiệm hình sự quốc tế của cá nhân đối với tội phạm quốc tế : Xu thế hiện
nay của cộng đồng quốc tế là công nhận thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế đối
với cả cá nhân là công dân của quốc gia có hành vi tội ác quốc tế cũng như đối

với cá nhân tội phạm có tính chất quốc tế có hành vi tội phạm với tư cách cá
nhân chứ không hoạt động nhân danh quốc gia.
II.
Thực tiễn xét xử một số cá nhân bị coi là tội phạm quốc tế
Kể từ khi Quy chế Rome có hiệu lực vào ngày 1/7/2002, văn phòng công tố mới
mở cuộc điều tra về một số vụ việc ở Cộng hòa dân chủ Côngô, Uganda, Cộng
hòa Kenya, Cộng hòa Trung Phi, Dafur (Sudan), Lybya và Cộng hòa Côte
d’Ivoire
1. Thomas Lubanga Dyilo (vụ Cộng hòa dân chủ Congo)
Vụ việc xảy ra ở CHDC Congo liên quan đến vụ thảm sát và hành quyết hàng
nghìn người từ năm 2002 cũng như các hành vi hãm hiếp, tra tấn trên phạm vi
rộng và tuyển mộ trẻ em làm quân lính. Thomas Lubanga Dyilo là lãnh tụ củ
phong trào quân sự chính trị liên minh những nhà ái quốc Congo, bị bắt giữ
17/3/2006. Việc xứt xử Thomas Lubanga Dyilo được xúc tiến từ 2008. Ngày
26/1/2009, Hội đồng sơ thẩm I đã triệu tập phiên tòa để nghe Công tố, Luật sư
bào chữa và 103 nạn nhân thông qua đại diện pháp lý của họ trình bày. Từ 26/1
đến 14/7/2009, Trưởng Công tố đưa ra các chứng cứ gồm 119 hàng mục, 30
nhân chứng đã cung cấp lời khai và đối chất trước Toà. Ông bị buộc “tội ác
chiến tranh "cưỡng ép và tranh thủ trẻ em dưới tuổi mười lăm năm và sử dụng
chúng để tham gia tích cực vào chiến sự, và ông đã bị kết án có tội vào ngày 14
tháng 3 năm 2012. . Cuối cùng, ngày 10/7/2012, Thomas Lubanga Dyilo bị kết
án 14 năm tù.
2. Germain Katanga và Mathieu Ngudjolo Chui
Germain Katanga và Mathieu Ngudjolo bị buộc tội về 3 cáo trạng phạm các tội
ác chống lại con người cùng 7 cáo trạng về các tội ác chiến tranh, bao gồm sát
nhân, cưỡng dâm, và cướp bóc.
Các thẩm phán nói rằng hai nghi can này đã cầm đầu các băng nhóm gồm các
tay súng thiếu niên lẫn đã trưởng thành trong vụ tấn công vào làng Bogoro ở
tỉnh Ituri của Cộng hòa Dân chủ Congo. Một cuộc tranh chấp có vũ trang về các
tài nguyên thiên nhiên đã nổ ra tại khu vực này khi cuộc nội chiến Congo đi đến

chỗ kết thúc. Tinh đến tháng 7/2010. Hội đồng Sơ thẩm II đã thực hiện 25 phiên
tòa. Phiên tòa xét xử Katanga và Ngudjolo Chui diễn ra vào ngày 24/11/2009.
Ngày 08 tháng 12 2010, bên công tố đã hoàn thành trình bày trường hợp của
mình và đại diện pháp lý của nạn nhân . Phiên tòa kéo dài đến ngày 15- 23
tháng 5 2012, các thẩm phán sẽ xác định phán quyết, 366 nạn nhân tham gia
trong quá trình tố tụng, một số người trong số họ là cựu chiến binh trẻ em.
3. Jean pierre Bemba ( Vụ cộng hòa Trung Phi )
~6~


Cựu Phó Tổng thống Cộng hòa Dân chủ Congo Jean-Pierre Bemba, bị cáo buộc
tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại do các thành viên của Phong trào Tự
do Congo (MLC) do Bemba lãnh đạo. Theo ICC, MLC đã tới Trung Phi để hỗ
trợ quân đội nước này nhưng đã phạm các tội hiếp dâm, cướp bóc và giết người.
Trong vòng 5 tháng, từ tháng 10/2002 đến tháng 3/2003, dân thường Trung Phi
đã trở thành mục tiêu của những vụ vòi tiền từ lực lượng MLC gồm khoảng
1.500 người.Theo cáo trạng, tại Bangui, thủ đô Trung Phi, người ta đã thống kê
khoảng 400 vụ hiếp dâm.
Các kiểm sát viên của ICC đã cáo buộc lực lượng của Phong trào giải phóng
Công gô tấn công một cách “có hệ thống” nhằm chống lại những dân thường
theo yêu cầu của cựu tổng thống Trung Phi Patassé. Lời cáo buộc này nhấn
mạnh ông Bemba đã cho phép những binh lính của mình hành động mà không
tìm cách ngăn chặn họ làm những hành động sai trái như vậy. Jean-Pierre
Bemba đã sử dụng quân đội như một công cụ để cưỡng hiếp, cướp phá và giết
những người dân thường vô tội tại Cộng hòa Trung Phi.
Tháng 1/2009 Hội đồng dự thẩm bắt đầu mở một số phiên Tòa để xem xét xác
nhận lời buộc tội đối với Jean Bemba. Ngày 15/6/2009, Hội đồng Dự thẩm II
khẳng định đã có đủ bằng chứng cho thấy ông đã phạm tội chống nhân loại và
tội phạm chiến tranh. Ngày 18/9/2009, hội đồng Sơ thẩm II được chỉ định dể xét
xử vụ này, phiên tòa luận tội dự kiến vào ngày 14/7/2010 nhưng bị hoãn để chờ

quyết định của Hội đồng phúc thẩm đối với khiếu nại của Luật sư bào chữa.
=>Tòa án hình sự quốc tế ICC mới thành lập và đi vào hoạt động nên còn một
số hạn chế nhất định. Việc điều tra, truy tố và xét xử các cá nhận bị coi là tội
phạm quốc tế còn diễn ra trong thời gian dài ( lên đến 6 năm), qua nhiều phiên
tòa . ICC không có lực lượng cảnh sát hỗ trợ của riêng mình, do vậy khi tiến
hành điều tra, truy bắt họ chỉ còn biết trông chờ vào sự hợp tác của các Chính
phủ hữu quan hoặc lực lượng gìn giữ hòa bình của LHQ. Hơn nữa hiện nay,
tính công lý của Tòa án đang bị nhiều nước nghi ngờ, đặc biệt là các quốc gia
ở Châu Phi. Mới đây, Chủ tịch Uỷ ban Liên minh Châu Phi AU đã tuyên bố
rằng Châu Phi sẽ thành lập một Tòa án hình sự riêng, vì họ cho rằng những
phán quyết của ICC không hề mang lại công lý và phân biệt đối xử khi mà họ
chỉ tập trung theo đuổi những vi phạm ở Châu Phi, nhưng lại lờ các hành động
tương tự khác ở phương Tây như Iraq, Afghanistan, Pakistan. Quyết định này
của AU đã cho thấy rằng họ không còn tin tưởng hoàn toàn vào quyền tài phán
của ICC sẽ công bằng như lúc đầu tổ chức này mới thành lập nữa.
Tóm lại, tòa án hình sự quốc tế là một thiết chế quan trọng và cần thiết của luật
hình sự quốc tế nói riêng và luật quốc tế nói chung. Sự ra đời và hoạt động của
tòa án hình sự quốc tế trên cơ sở Quy chế Roma năm 1998 thực sự là thắng lợi
của lực lượng hòa bình, tiến bộ trên thế giới. Mặc dù kết quả hoạt động của nó
còn những hạn chế nhất định nhưng sự hiện diện của tòa án hình sự quốc tế chác
chắn củng cố niềm tin và chiến thắng vào công lí.
~7~


Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Luật Quốc tế - Trường Đại học Luật Hà Nội 2003
2. Giáo trình Luật quốc tế _Ths Nguyễn Thị Kim Ngân-Ths Chu Mạnh Hùng,
2010
3. Giáo trình Tòa án hình sự quốc tế _ TS. Nguyễn Ngọc Chí, Đại học quốc gia Hà
Nội,

4. Quy chế Rome về Tòa án Hình sự quốc tế _ TS. Dương Tuyết Miên, 2011
5. Luật Hình sự quốc tế _ Ths. Nguyễn Thị Thuận
6. Quy chế Rome 1998 về Tòa án hình sự quốc tế
7. Hiến chương Liên hợp quốc
8. Các toà án xét xử tội phạm quốc tế và việc thành lập toà án hình sự quốc tế ICC
_ Khoá luận tốt nghiệp / Đỗ Thị Hằng; Người hướng dẫn: Luật gia Đỗ Mạnh
Hồng.
9. Pháp luật quốc tế về tội phạm quốc tế - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn :
Khoá luận tốt nghiệp / Trần Thị Thu Thuỷ ; Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị
Thuận
10.Các trang web:
- />- />
~8~


MỤC LỤC
I.
Các vấn đề pháp lý…………………………………………………..1
1. Cơ cấu tổ chức của Tòa án hình sự quốc tế………………………………1
2. Thẩm quyền tài phán……………………………………………………..1
2.1. Thẩm quyền theo vụ việc _ Jurisdiction ratione materiae (quyền tài
phán đối với các loại tội phạm)……………………………………….1
2.2. Thẩm quyền theo thời gian (quyền tài phán theo thời gian)………….3
2.3. Thẩm quyền theo không gian (quyền tài phán theo lãnh thổ)………...3
2.4. Điều kiện thực hiện quyền tài phán của Tòa án hình sự quốc tế……...3
3. Thủ tục điều tra, truy tố và xét xử………………………………………..4
4. Tội phạm quốc tế…………………………………………………………5
II.
Thực tiễn xét xử một số cá nhân TPQT……………………………6
1. Thomas Lubanga Dyilo (vụ Cộng hòa dân chủ Congo)…………………6

2. Germain Katanga và Mathieu Ngudjolo Chui……………………………6
3. Jean pierre Bemba Gombo( Vụ cộng hòa Trung Phi )…………………..6
Danh mục tài liệu thamkhảo………………………………………………….8

~9~



×