Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số biện pháp phát triển kỹ năng ngôn ngữ tiếng việt cho trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi dân tộc thiểu số tại trường MN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (640.82 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Mục

NỘI DUNG

Trang

Mục lục

1

I

MỞ ĐẦU

2

1

Lý do chọn đề tài

2

2

Mục đích nghiên cứu

3

3


Đối tượng nghiên cứu

3

4

Phương pháp nghiên cứu

3

II

NỘI DUNG

3

1

Cơ sở lý luận

3

2

Thực trạng

5

3


Các biện pháp và tổ chức thực hiện

7

4

Kết quả đạt được

15

KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

17

1

Kết luận

17

2

Kiến nghị

17

Tài liệu tham khảo

19


III

1


I . MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Ngôn ngữ là công cụ của tư duy, là chìa khóa để nhận thức, là phương tiện
để chiếm lĩnh kho tàng kiến thức của dân tộc và của nhân loại. Ngôn ngữ tồn tại
ở hai dạng cơ bản đó là ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết; trong đó ngôn ngữ viết
là công cụ mà con người dùng để ghi lại những kinh nghiệm lịch sử xã hội của
mình. Ngôn ngữ nói có trước, nó xuất hiện từ rất sớm và giúp trẻ giao tiếp học
hỏi kinh nghiệm của loài người qua giao tiếp, ngay từ nhỏ trẻ đã có thể biết nói
khi trẻ nghe và cảm nhận được âm thanh của lời nói, đồng thời với sự phát triển
của cơ quan phát âm, trẻ từ nói bập bẹ dần chuyển sang nói ngày càng lưu loát
hơn, ngôn ngữ nói trở thành công cụ giao tiếp và học hỏi chính của trẻ.
Đối với trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi, là lứa tuổi quan trọng mà cuối độ tuổi trẻ
phải trải qua bước ngoặt chuyển giao từ hoạt động chủ đạo là "Hoạt động vui
chơi" của trẻ mầm non thành hoạt động chủ đạo là "Hoạt động học tập" của học
sinh tiểu học. Để sẵn sàng với việc học, trẻ cần được chuẩn bị toàn diện về mọi
mặt. Để làm tốt điều này trẻ cần được chuẩn bị ngay từ khi còn nhỏ với sự hợp
tác của gia đình và nhà trường ở tất cả các lĩnh vực, đó là: phát triển thể chất,
nhận thức, ngôn ngữ, thẩm mỹ, tình cảm và kỹ năng xã hội. Trong đó phát triển
Ngôn ngữ là một trong những lĩnh vực quan trọng nhất. Mục tiêu của phát triển
ngôn ngữ cho trẻ 5 tuổi là hình thành và phát triển ở trẻ khả năng nghe, phát âm
và một số kỹ năng cần thiết cho trẻ về việc học đọc, học viết như: Cách lật giở
sách, cách cầm bút tô viết chữ, khả năng phối hợp tay, mắt và tri giác trọn vẹn từ
trái sang phải, biết diễn tả sự việc hoặc ý muốn của mình bằng câu đầy đủ rõ
ràng, mạch lạc.
Ở lứa tuổi này, việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc trong giao tiếp sẽ giúp trẻ

dễ dàng tiếp cận với các hoạt động học khác như: Hoạt động làm quen với toán,
văn học, âm nhạc và tạo hình..., đặc biệt là thông qua hoạt động làm quen với
tác phẩm văn học trẻ được nghe cô đọc thơ, kể chuyện, đóng kịch tạo cho trẻ
được hoạt động nhiều, giúp trẻ phát triển trí nhớ, tư duy và ngôn ngữ, ngoài ra
còn giúp trẻ cảm nhận cái hay, cái đẹp, giúp phân biệt cái tốt, cái xấu xung
quanh trẻ. Bởi vì ở lứa tuổi này được ví như tờ giấy trắng, trẻ đến lớp như mở
đầu trang giấy, cô giáo in lên những hình ảnh, cung cấp những vốn từ, những
nhân vật, cử chỉ hành động khác nhau. Thông qua những bài thơ, những câu
chuyện giúp trẻ mở mang những kiến thức sơ đẳng về tự nhiên và xã hội và giúp
trẻ phát triển ngôn ngữ, tạo tiền đề tốt nhất cho trẻ trước khi vào lớp 1.
Trong thực tế, phần lớn trẻ em người dân tộc thiểu số đều ở vùng sâu, vùng
xa, vùng kinh tế khó khăn, trước khi đến trường mầm non đều sống trong môi
trường với ngôn ngữ giao tiếp chủ yếu là tiếng mẹ đẻ của dân tộc mình mà
không phải là tiếng Việt. Do vậy trẻ chỉ nắm được tiếng mẹ đẻ ở dạng khẩu ngữ
không có hoặc không biết chữ viết, môi trường giao tiếp tiếng Việt ít. Khi đến
trường trẻ thích trao đổi với nhau bằng tiếng mẹ đẻ và luôn có thói quen đó
trong các hoạt động vui chơi, giao lưu trò chuyện và ngay cả trong các hoạt
2


động học. Trẻ biết ít và có thể không biết tiếng Việt, khả năng nghe và nói tiếng
Việt rất kém nhất là khi trẻ ra khỏi trường học.
Ví dụ: Khi tìm hiểu khám phá về một số con vật nuôi trong gia đình cụ thể
là con gà, khi gọi tên "con gà" trẻ sẽ nói thành "con kha" và khi nhận xét về các
đặc điểm trẻ thường hay nói lớ sang ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ. Hoặc khi diễn đạt bí
từ và chưa hiểu, trẻ sẽ nói trực tiếp bằng ngôn ngữ thứ nhất...
Như chúng ta đã biết, giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống
giáo dục quốc dân, là nền tảng đầu tiên của sự hình thành và phát triển nhân
cách trẻ. Chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ mẫu giáo ở trường mầm non tốt có
tác dụng rất lớn đến chất lượng giáo dục ở bậc học tiếp theo. Mặt khác hiện nay

ngôn ngữ chính thức dùng trong các cơ sở giáo dục từ mầm non đến đại học là
ngôn ngữ tiếng Việt. Bản thân là một giáo viên trực tiếp phụ trách công tác
giảng dạy nhiều năm với đa số học sinh là trẻ em dân tộc thiểu số, hiểu được
những khó khăn của trẻ khi học tiếng Việt, cũng giống như chúng ta học một
ngoại ngữ nào đó. Khả năng nghe, hiểu và nói không dễ dàng như trẻ người dân
tộc kinh; trẻ dân tộc thiểu số thường nhút nhát, không tự tin, ít giao tiếp với cô
giáo, dẫn đến người dạy và người học không hiểu nhau do bất đồng ngôn ngữ,
chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ không thể đạt được như mong muốn.
Chính vì vậy nên tôi đã chọn đề tài: "Một số biện pháp phát triển kỹ năng
nói mạch lạc ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ 5-6 tuổi người dân tộc thiểu số ở
trường Mầm Non Quang Hiến" để làm đề tài nghiên cứu cho mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Khảo sát thực trạng về ngôn ngữ tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi tại trường
mầm non Quang Hiến, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa.
- Đưa ra một số biện pháp nhằm phát triển kỹ năng nói mạch lạc cho trẻ
mẫu giáo 5 - 6 tuổi người dân tộc thiểu số ở Trường mầm non Quang Hiến,
huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi lớp Lá A 1 ở Trường mầm non
Quang Hiến, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp thực hành, thí nghiệm.
- Phương pháp nghiên cứu số liệu.
- Phương pháp nghiên cứu các tài liệu tham khảo liên quan đến đề tài.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận:
Thực hiện Quyết định số 1008/QĐ-TTg ngày 02 tháng 6 năm 2016 của thủ
tướng chính phủ về Đề án tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non và học sinh

tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2025.
Tiếp đó, Bộ giáo dục và đào tạo kí quyết định số: 2805/QĐ-BGDĐT ngày 15
3


tháng 8 năm 2016, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Tỉnh Thanh Hóa ký quyết định
1628/QP-UBND ngày 23 tháng 5 năm 2017 và Ủy ban nhân dân huyện Lang
Chánh ban hành kế hoạch số 45/KH-UBND thực hiện Đề án "Tăng cường chuẩn
bị tiếng Việt cho trẻ mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn
2016 - 2020, định hướng đến 2025". Nhằm mục tiêu "tập trung tăng cường tiếng
Việt cho trẻ mầm non, học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số, bảo đảm các em
có kỹ năng cơ bản trong việc sử dụng tiếng Việt để hoàn thành chương trình giáo
dục mầm non và chương trình giáo dục tiểu học; tạo tiền đề để học tập, lĩnh hội
tri thức của các cấp học tiếp theo; góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và
phát triển bền vững các dân tộc thiểu số, đóng góp vào sự tiến bộ, phát triển của
đất nước".
Để nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng với mục tiêu trên, một trong
những nội dung quan trọng đó là dạy trẻ 5 - 6 tuổi "Kỹ năng nói mạch lạc ngôn
ngữ tiếng Việt" chuẩn bị tốt cho việc học tiếng Việt tiếp theo ở lớp một. Dạy
tiếng Việt cho trẻ mầm non có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì ngôn ngữ của
trẻ phát triển tốt sẽ giúp trẻ nhận thức và giao tiếp tốt góp phần quan trọng vào
việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Việc phát triển ngôn ngữ mạch
lạc cho trẻ trong giao tiếp sẽ giúp trẻ dễ dàng tiếp cận với các môn khoa học
khác như toán, khám phá, tạo hình, âm nhạc....
Về căn bản học tiếng Việt đối với trẻ dân tộc thiểu số là học ngôn ngữ thứ
hai, khi đi học ở trường mầm non trẻ nói chung đã có vốn hiểu biết và kỹ năng
ban đầu về hoạt động ngôn ngữ nói biết sử dụng tiếng mẹ đẻ (ngôn ngữ thứ
nhất) để giao tiếp hàng ngày nên khi học, sử dụng tiếng Việt (ngôn ngữ thứ hai)
trẻ gặp những khó khăn sau:
- Trẻ học tiếng Việt trên cơ sở kinh nghiệm tiếng mẹ đẻ không phải là tiếng Việt.

- Môi trường giao tiếp tiếng Việt của trẻ thu hẹp cả về mặt không gian lẫn
thời gian (trong phạm vi trường lớp mầm non)
- Tiếng Việt giàu thanh điệu tạo nên tính nhạc điệu trầm bổng của ngôn ngữ
khó khăn cho việc phát âm chính xác.
- Cùng lúc trẻ tiếp cận với nhiều nguồn ngôn ngữ: tiếng mẹ đẻ, tiếng Việt,
tiếng của các dân tộc cùng chung sống.
Ngoài ra, những khác biệt về văn hóa, điều kiện về kinh tế, xã hội cũng là
những cản trở khi trẻ học tiếng Việt.
Vì vậy để giúp trẻ mẫu giáo 5 -6 tuổi người dân tộc thiểu số có kỹ năng nói
mạch lạc ngôn ngữ tiếng Việt có nghĩa là giúp trẻ nghe hiểu được từ về tên gọi,
đặc điểm các đồ vật, con vật và sự vật hiện tượng gần gũi quen thuộc. Sử dụng
được các từ và câu đơn giản trong giao tiếp phù hợp với ngữ cảnh, biết hỏi và trả
lời các câu hỏi: Tại sao? Như thế nào? Làm bằng gì? Để làm gì?... Biết điều
chỉnh giọng nói phù hợp với ngữ cảnh giao tiếp và thể hiện hành vi văn minh
trong giao tiếp (chú ý lắng nghe người khác nói, nhìn vào mặt người nói, giơ tay
khi muốn nói và biết chờ đến lượt). Thể hiện sự quan tâm, hứng thú đến chữ viết
trong môi trường xung quanh. Biết cầm sách đúng chiều, lật giở sách lần lượt
4


theo trang, xem sách từ trái sang phải, từ trên xuống dưới. Nói được tên các chữ
cái chữ số và phát âm đúng các âm tương ứng 29 chữ cái tiếng Việt. Sao chép
được ký hiệu, chữ cái, từ, tên của mình. Hay nói cách khác là cần tổ chức các
hoạt động phát triển kỹ năng nghe - nói; hướng dẫn kể chuyện, đọc thơ, ca dao;
phát triển kỹ năng tiền đọc và tiền viết cho trẻ.
Để dạy trẻ dân tộc thiểu số nói mạch lạc ngôn ngữ tiếng Việt tốt nhất cần có
cách tiếp cận khác với dạy tiếng mẹ đẻ. Nội dung và phương pháp cần phải thích
hợp với trẻ, các hoạt động dạy trẻ nói tiếng Việt nên phù hợp với đặc điểm tâm
sinh lý, gắn với sự hứng thú của trẻ. Cần có thời gian để xây dựng vốn từ vựng
trong giao tiếp tiếng Việt, bằng lời nói trước khi làm quen với kỹ năng viết. Tạo

cho trẻ thích đi học và hứng thú học tiếng Việt, làm tiền đề để thích ứng với việc
tập đọc, tập viết ở lớp 1. Tạo cơ hội khuyến khích trẻ bộc lộ khả năng sáng tạo
của cá nhân. Quá trình giao tiếp tiếng Việt thông qua tất cả các môn học, thông
qua mọi hoạt động của trẻ, việc giao tiếp cần diễn ra ở mọi lúc mọi nơi với môi
trường hoạt động phong phú. Thông qua các hoạt động trực tiếp giúp trẻ tiếp thu
kiến thức mới và học tiếng Việt một cách rễ dàng, thúc đẩy quá trình giao tiếp.
Từ những cơ sở trên bản thân đã nghiên cứu thực trạng và thực hiện một số
biện pháp phát triển kỹ năng nói mạch lạc ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ lớp Lá
A1(mẫu giáo 5 - 6 tuổi) ở trường mình đạt hiệu quả.
2. Thực trạng:
Trường mầm non Quang Hiến, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa thuộc
địa bàn xã Quang Hiến. Trường cách Trung tâm xã 1km, là xã 30a của huyện
nên điều kiện kinh tế xã hội gặp nhiều khó khăn. Trong năm học 2017 - 2018
nhà trường có 16 nhóm lớp với 325 học sinh. Trong đó nhà trẻ 6 nhóm và mẫu
giáo 10 lớp.
Năm học 2017 - 2018, bản thân tôi được nhà trường phân công phụ trách
lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi A1. Tổng số trẻ trong lớp là 25 cháu, trong đó có 17 cháu
dân tộc Mường, 6 cháu dân tộc Thái và 2 cháu dân tộc Kinh nhưng cũng sống tại
các thôn bản. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ năm học bản thân tôi và nhà
trường gặp những thuận lợi và khó khăn sau đây:
2.1. Thuận lợi:
- Nhà trường có 1 khu nên thuận lợi trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ
cũng như tổ chức các hoạt động của chuyên môn và nhà trường.
- Trường là trường đạt chuẩn quốc gia mức độ I, đạt kiểm định chất lượng
giáo dục cấp độ 2 nên cơ sở vật chất nhìn chung đảm bảo cho việc học tập cũng
như ăn ở bán trú của học sinh.
- Cán bộ quản lý của nhà trường và tổ chuyên môn luôn tạo điều kiện thuận
lợi cho việc dạy và học của cô và trẻ.
- Đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho mọi hoạt động phong phú hấp dẫn, thu hút trẻ.
- 100% cán bộ quản lý, giáo viên đều có trình độ chuẩn và trên chuẩn, nhiệt

tình trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ cũng như làm các đồ dùng, đồ chơi
phục vụ cho hoạt động học cũng như hoạt động vui chơi cho trẻ.
5


- Các giáo viên được phân công phụ trách lớp thường đi kèm một giáo viên
vùng thấp và một giáo viên người dân tộc.
- Trẻ trong nhà trường được phân chia theo đúng độ tuổi, đa số trẻ đi học
rất đều.
2.2. Khó khăn:
- Đối với trẻ
+ Đa số trẻ là con em là người dân tộc thiểu số nên việc làm quen chữ cái và tăng
cường tiếng Việt còn nhiều hạn chế bất cập, trẻ tiếp thu một cách thụ động.
+ Trẻ phát âm còn nói ngọng, nói lắp và nói lớ tiếng mẹ đẻ.
+ Một số cháu chưa biết cách cầm bút hoặc có những cháu cầm bút còn
chưa đúng, ngồi sai tư thế, chưa biết cách giở sách.
+ Khi viết chưa xác định được vị trí đặt bút và viết nét nào trước nét nào sau.
+ Trẻ còn đang nhút nhát chưa mạnh dạn đọc thơ hay kể chuyện nhất là khi
có người lạ.
- Đối với giáo viên
+ Với điều kiện cơ bản về cơ sở vật chất của trường chuẩn quốc gia nhưng,
trường có đông nhóm trẻ, phòng học còn thiếu cũng như khuôn viên chật hẹp,
hai lớp chung một phòng, đồ dùng đồ chơi ít, không đáp ứng được nhu cầu học
cũng như chơi của trẻ.
+ Trong lớp bố trí các khu vực hoạt động không phù hợp do thiếu không
gian và các trang thiết bị. Các chữ dùng còn chưa đúng mẫu chữ, không phù hợp
và chủ yếu là chữ in thường.
+ Nhà trường đã có phần mền giảng dạy nhưng không có hệ thống máy
chiếu phục vụ cho việc thực hiện phần mềm để tổ chức các hoạt động cho trẻ.
Nên việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy còn chưa thường xuyên.

+ Giáo viên thường dạy đại trà theo chương trình đã lên kế hoạch, chưa chú
trọng vào các hoạt động cá nhân trẻ, nhất là những trẻ phát triển chậm về ngôn
ngữ cũng như các lĩnh vực khác..
+ Ít thời gian đầu tư vào các hoạt động giáo dục, chưa tạo môi trường mở
để trẻ được hoạt động trải nghiệm.
- Đối với phụ huynh
+ Địa phương là xã 30a thuộc xã nghèo của huyện Lang Chánh, nên điều
kiện kinh tế của địa phương còn nghèo và sự đầu tư của phụ huynh trong việc
chăm sóc cũng như ủng hộ về tài chính trong việc mua sắm trang thiết bị còn
hạn chế.
+ Phụ huynh chủ yếu là người dân tộc thiểu số, ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ
chiếm ưu thế nên việc phát âm và dạy tiếng Việt cho trẻ gặp không ít khó khăn.
6


+ Một số bậc phụ huynh chưa chú ý đến việc trẻ phát âm chưa chính xác
hay ngọng, sai âm, sai dấu… để kịp thời sửa sai và uốn nắn cho trẻ.
+ Chưa phối hợp với giáo viên trong công tác giáo dục, còn phó mặc việc
học của con em cho giáo viên và nhà trường.
+ Chưa hiểu được sự cần thiết của kỹ năng nói mạch lạc ngôn ngữ tiếng
Việt đối với trẻ.
+ Đa số phụ huynh đi làm xa để con cái cho ông bà chăm sóc. Chính vì vậy
cũng ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý cũng như việc chăm sóc dạy dỗ các cháu.
+ Một số bậc phụ huynh chưa nhận thức tầm quan trọng của bậc học mầm
non, vẫn còn có tình trạng trẻ chưa đi học chuyên cần do thời tiết thay đổi.
2.3. Quá trình điều tra thực tiễn:
- Là một giáo viên đứng lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi nhiều năm, bản thân nhận
thấy tầm quan trọng của việc làm giàu vốn từ tiếng Việt và phát triển ngôn ngữ
mạch lạc cho trẻ, thường xuyên tổ chức cho trẻ được nghe, được hiểu, được nói
một cách có hiệu quả tạo tiền đề cho việc học Tiếng Việt của trẻ khi vào lớp 1.

Từ đó tôi đã tiến hành khảo sát đầu năm học như sau:
* Bảng khảo sát trẻ đầu năm học:
STT
1
2
3
4

Nội dung khảo sát
Kỹ năng nghe
Kỹ năng nói
Làm quen với đọc, viết
Sự hứng thú học tập

Tổng
số trẻ
25
25
25
25

Đạt
Số trẻ
15
14
14
16

%
60

56
56
64

Chưa
Số trẻ
%
10
40
11
44
11
44
9
36

(Bảng 01)
Tổng hợp:
- Số trẻ đạt: 15/25 trẻ = 60%.
- Số trẻ chưa đạt: 10/25 trẻ = 40 %.
Qua quá trình điều tra thực trạng và khảo sát đánh giá trẻ đầu năm và xuất
phát từ đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của trẻ để khắc phục vấn đề trên tôi đã đưa
ra một số biện pháp sau.
3. Các biện pháp và tổ chức thực hiện
3.1. Biện pháp 1: Xây dựng môi trường tiếng Việt phong phú:
Đối với việc xây dựng môi trường tiếng Việt trước hết tôi xây dựng môi
trường giao tiếp bằng tiếng Việt giữa cô và trẻ.
Hàng ngày, tôi thường xuyên trò chuyện với trẻ, chăm chú lắng nghe trẻ
nói và khuyến khích trẻ nói ở mọi lúc, mọi nơi về những chủ đề gần gũi trong
cuộc sống của trẻ, đồng thời mời các phụ huynh hay các anh chị...(những người

7


biết tiếng Việt) đến trò chuyện giao tiếp với trẻ để khắc phục sự nhút nhát của
trẻ, tạo cơ hội cho trẻ được nghe và nói.
Bên cạnh đó tổ chức các trò chơi, sinh hoạt tập thể văn hóa văn nghệ để trẻ
có nhiều cơ hội thể hiện mình, khuyến khích sự sáng tạo của trẻ khi sử dụng câu
từ, không bắt trẻ nói đúng ngay khi dạy mà kiên trì, nhẫn nại cùng với các hoạt
động làm quen với tiếng Việt trong tuần để hướng trẻ nói đúng, phát âm chuẩn
tiếng Việt.
Ngoài ra tôi còn sưu tầm thêm các bài thơ, ca dao, đồng dao, các câu truyện
dân gian mang đậm sắc thái văn hóa địa phương để đọc cho trẻ nghe, khuyến
khích trẻ đọc theo và đọc thuộc những đoạn phù hợp từ đó kích thích trẻ giao
tiếp và tự tin khi nói tiếng Việt. Nếu trẻ gặp khó khăn khi diễn đạt tôi gợi ý trẻ
một vài từ, cố gắng để trẻ tự trình bày tiếng Việt bằng lời nói của mình.
Do đặc điểm nhận thức của trẻ chủ yếu thông qua các hình ảnh trực quan,
trẻ lĩnh hội và tiếp thu kiến thức chủ yếu thông qua hoạt động vui chơi. Chính vì
vậy việc tạo môi trường để tổ chức hoạt động cho trẻ vô cùng quan trọng, một
môi trường đẹp, phù hợp sẽ thu hút trẻ đến lớp, cũng như hứng thú tham gia vào
các hoạt động một cách tích cực. Vì vậy, tôi cũng đầu tư xây dựng môi trường
chữ viết tiếng Việt trong lớp học.
Thông qua mảng chủ đề và các góc hoạt động ở mỗi chủ điểm tôi cùng trẻ
lựa chọn những tên gọi, hình ảnh linh hoạt, gần gũi với trẻ, phù hợp chủ đề, chủ
điểm để minh họa, đồng thời khuyến khích trẻ cùng cô đặt tên và thay thế theo
từng chủ đề. Tên gọi thường sử dụng là các chữ cái in thường để trẻ dễ nhận
biết, như vậy sẽ thu hút được sự chú ý của trẻ, từ đó mục đích làm quen, ôn
luyện chữ, cung cấp vốn từ đạt hiệu quả tối đa.
Ví dụ: Đối với chủ đề "Gia đình" cô có thể trò chuyện, hỏi trẻ cách đặt tên
chủ đề như: "Gia đình thân yêu của bé" hoặc "Tổ ấm gia đình"; Hay đối với góc
phân vai ta có thể đặt là "Bé tập làm nội trợ" hoặc "Bé đi siêu thị". Nhưng sang

chủ đề ngành nghề ta có thể đổi thành "Siêu thị mi ni" hoặc "Bé làm đầu bếp"...
Ở đây trẻ được cung cấp thêm vốn từ như: Đầu bếp, nấu ăn, nội trợ... Từ các từ
gần gũi quen thuộc đó đã kích thích trẻ ghi nhớ và phần nào hiểu được nghĩa của
từ. Đồng thời trẻ có thể ghép các từ bằng các thẻ chữ cái để biết được số chữ và
thứ tự các chữ trong từ.

8


Ảnh: Góc phân vai "Bé đi siêu thị"
Nhất là "góc thư viện" để giúp trẻ hoạt động trải nghiệm ngôn ngữ tiếng
Việt một cách hứng thú tôi đã chuẩn bị nhiều loại tranh ảnh, sách báo, cây thư
mục chữ cái, giỏ học chữ cái, hộp chữ cái, album sách, các sản phẩm của trẻ và
các phương tiên học liệu khác như chì, sáp màu, băng hình, loa đài... sinh động
hấp dẫn và luôn thay đổi theo tùng chủ đề.
Như vậy, qua mỗi chủ đề lại cung cấp cho trẻ nhiều từ mới để ôn luyện các
chữ cái và rèn luyện kỹ năng tiền đọc, viết cho trẻ. Ở các góc chơi này tôi có thể
tổ chức cho trẻ ôn tập các hoạt động học như: Khám phá khoa học, làm quen với
toán, văn học và các hoạt động mọi lúc mọi nơi...
Ví dụ: Qua bài thơ về các con vật, có thể cho trẻ chọn hình ảnh để lắp ghép
tạo nên tranh, làm các động tác, mô phỏng tiếng kêu, ghép chữ cái tạo thành
tên... hoặc dùng các hột hạt để xếp các chữ cái chữ số, tận dụng các loại lông các
con vật gần gũi như lông Gà, lông Vịt để xếp hình các con vật, đồ dùng, dụng cụ
sinh hoạt hàng ngày.
Tùy theo từng chủ đề tôi lựa chọn hình ảnh phù hợp, rõ ràng, đảm bảo thẩm
mỹ, dưới mỗi hình ảnh còn có từ để trẻ làm quen. Tận dụng các giá đồ chơi, tủ
đồ dùng cá nhân, đồ chơi, sách vở, ghế ngồi, bát, cốc...để gắn các chữ cái hoặc
dán nhãn tên để chữ viết được xuất hiện trong mọi hoạt động, thường xuyên đọc
các chữ để trẻ được tiếp xúc và thấy được mối quan hệ giữa lời nói và chữ viết.
9



Với trẻ dân tộc thiểu số cuộc sống hằng ngày được gắn với môi trường
thiên nhiên, với cỏ, cây, hoa, lá,và những con vật, đồ dùng, đồ chơi quen thuộc
để trẻ được tự do tham gia, khám phá trải nghiệm. Vì vậy, tôi còn xây dựng
thêm môi trường ngoài lớp học như thông qua góc thiên nhiên, góc thư viện
xanh, góc địa phương, góc vận động, hay tham gia giao thông ... trong đó chú ý
hơn ở "góc địa phương" để cho trẻ thấy gần gũi như ở gia đình, bản làng trẻ. Ở
các góc này tôi cùng trẻ sưu tầm và huy động sự đóng góp của phụ huynh các
loại hoa, cây cỏ, đồ dùng vật dụng gần gũi, quen thuộc, hoặc các loại vật liệu
thiên nhiên sẵn có, các loại phế liệu để tân dụng làm đồ dùng, đồ chơi và bố trí
sắp xếp phù hợp, được gắn chữ viết hoặc các ký hiệu, hình vẽ biểu trưng hoặc
chú thích bằng tiếng Việt, nhằm giúp trẻ có cơ hội làm quen với chữ viết ở mọi
lúc mọi nơi.

Ảnh: Góc Địa phương
3.2. Biện pháp 2:
Thông qua hoạt động học và các hoạt động mọi lúc mọi nơi.
Các hoạt động học ở trường mầm non, chủ yếu nhằm mục đích cho trẻ làm
quen với các kỹ năng, nề nếp học tập như ở trường tiểu học. Trong giờ hoạt
động học trẻ được cung cấp kiến thức một cách có kế hoạch, có mục đích. Nội
dung hình thành kỹ năng nói mạch lạc ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ được giáo
viên truyền tải gần như chủ yếu trong hoạt động học.
10


Mục đích chính là cho trẻ làm quen với các chữ cái, cho trẻ làm quen với
chữ cái theo các nhóm chữ và đặt vào chủ đề. Tôi tìm các từ chứa nhóm chữ
đang học thuộc chủ đề tại thời điểm cho trẻ làm quen, từng bước phân tích chữ
tìm ra chữ cái đã học và giới thiệu chữ mới dưới dạnh một từ tổng quát có nghĩa,

sau đó chủ yếu trẻ hoạt động với chữ mà cô vừa giới thiệu bằng các hoạt động
cụ thể. Ngoài các giờ học chính trẻ phải thực hiện các bài tập trong vở làm quen
chữ cái. Qua đó cô hướng dẫn trẻ ngồi đúng tư thế, biết cách cầm bút, đặt sách
vở, tô viết chữ đúng quy trình...
Ngoài ra, trong các giờ hoạt động học khác cô thường xuyên tạo cơ hội cho
trẻ được nói, được phát biểu ý kiến bằng các câu hỏi mở khuyến khích nhiều trẻ
trả lời, từ đó giúp trẻ có khả năng diễn đạt được ngôn ngữ theo khả năng của trẻ.
Ví dụ trong "Hoạt động làm quen với tác phẩm văn học", thông qua kể chuyện,
đọc thơ cô vừa cung cấp vốn ngôn ngữ cho trẻ, nhưng đồng thời cô còn yêu cầu
trẻ kể lại chuyện, đọc thơ một cách diễn cảm, có trình tự lôgic và thể hiện được
giọng điệu và cử chỉ điệu bộ của các nhân vật trong chuyện và vần điệu, nhịp
điệu của bài thơ.
Hay trong các hoạt động lao động, ăn, ngủ, vệ sinh (lao động tự phục vụ)
khi trải nghiệm những công việc như trực nhật, nhổ cỏ, tưới cây hay dọn bàn ăn,
dọn đồ sau khi ngủ, rửa tay, đánh răng, đeo giầy dép mặc quần áo... trẻ được
nghe nói, giao tiếp bằng việc sử dụng câu từ để nói về các hoạt động đó. Từ đó,
trẻ được củng cố và mở rộng những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm sẵn có của
bản thân, hình thành một số nề nếp, thói quen tốt trong sinh hoạt, đáp ứng nhu
cầu sinh lý của trẻ, tạo cho trẻ trạng thái tâm lý thỏa mái, vui vẻ. Kích thích trẻ
sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp.
Thông qua tất cả những hoạt động này để quan sát, đánh giá sự phát triển
ngôn ngữ của từng trẻ, lên kế hoạch giáo dục phù hợp với khả năng của trẻ trong
lớp. Từ đó phát hiện những trẻ có khó khăn về ngôn ngữ để có biện pháp phù
hợp giúp đỡ trẻ.
3.3. Biện pháp 3: Kể chuyện qua tranh, miêu tả sự vật, hiện tượng.
Đây là một biện pháp rất thực tế và hấp dẫn trẻ, khi áp dụng biện pháp này
đã cho hiệu quả cao trong phát triển kỹ năng nghe - nói; đặc biệt có ý nghĩa
trong việc phát triển vốn từ và khả năng hội thoại trong giao tiếp. Biện pháp này
tập trung vào sự trao đổi có ý nghĩa, thay vì dạy trẻ những âm thanh hay lặp lại
những từ cụ thể, trẻ sẽ trao đổi về một thứ mà trẻ thích với cha mẹ, cô giáo,

người thân hoặc bạn bè. Hay trẻ có thể xem tranh và kể thành một câu chuyện
mà trẻ thích. Trong giờ đón hoặc trả trẻ, tôi thường tạo cơ hội cho trẻ được tiếp
xúc với các đồ vật, sự vật hiên tượng và yêu cầu trẻ đưa ra những ý kiến của
mình. Bởi vì ở giai đoạn này trẻ phát triển mạnh mẽ cả về ngôn ngữ và tư duy,
hơn thế nữa trẻ thích thể hiện khả năng của bản thân trước mặt cô giáo và các
bạn.
11


Ví dụ: Trong hoạt động tìm hiểu về đồ dùng trong gia đình. Tôi cho trẻ tiếp
xúc với các đồ dùng và trò chuyện gợi ý trẻ giới thiệu đồ dùng trẻ thích, trẻ có
thể cầm "cái cốc" và giới thiệu: Đây là cái cốc mà mẹ đã mua cho em khi đi Siêu
thị, nó được làm bằng nhựa, nó có màu vàng rất đẹp, hằng ngày em thường dùng
cốc để uống nước và đánh răng.
Chính vì vậy việc miêu tả sự vật, hiện tượng có một ý nghĩa vô cùng quan
trọng để phát triển sự phong phú đa dạng về ngôn ngữ cho trẻ. Mỗi trẻ có một
cách nói khác nhau. Qua đó trẻ có cơ hội tưởng tượng rất phong phú và đa dạng,
trẻ được nói lên ý hiểu của mình và nghe ý kiến của bạn, trẻ tích lũy được thêm
nhiều vốn từ, trẻ tưởng tượng ra nhiều nội dung và trẻ trình bày nhiều mẫu câu,
kiểu câu khác nhau...
Kể chuyện theo tranh là phát huy tính sáng tạo cho trẻ, cô giới thiệu các
bức tranh và giúp trẻ làm quen với các nhân vật, giúp trẻ khám phá những điều
mới trong các bức tranh. Tổ chức cho các bé thảo luận nhóm để sáng tạo cho câu
chuyện của mình.
Trước tiên cần chuẩn bị một câu chuyện phù hợp có tranh minh họa đẹp,
thu hút trẻ, cô giới thiệu các nhân vật trong tranh và kể câu chuyện theo thứ tự
các bức tranh đó. Sau đó cô khuyến khích trẻ kể lại câu chuyện hoặc kể theo một
cách khác mà trẻ hiểu, có thể đổi thứ tự các bức tranh theo sự sáng tạo của trẻ.
Tùy theo khả năng của trẻ có thể không cần kể trước để tạo sự hứng thú và
yêu cầu trẻ kể theo ý của mình, trẻ có thể dùng ngôn ngữ của mình để kể và đặt

tên cho câu chuyện.

Ảnh: Bé kể chuyện theo tranh
12


Để có thể thực hiện hiệu quả cần phải chuẩn bị cho trẻ cách diễn đạt câu,
cách hiểu vấn đề, cách nhập vai... Thông qua cách này sẽ giúp trẻ tự tin hơn khi
rèn luyện cho trẻ tính sáng tạo và khả năng trình bày của mình trước đám đông,
trẻ phát âm rõ ràng mạch lạc, vốn từ phong phú hơn. Trẻ biết trình bày ý kiến,
suy nghĩ, kể về một sự vật hay sự kiện nào đó bằng chính ngôn ngữ của mình.
Trong một hoạt động "kể chuyện qua tranh" để phát triển kỹ năng tiền đọc,
viết cho trẻ ta cần làm ba việc sau:
- Một: Tổ chức cho trẻ xem tranh, vẽ tranh tương tự như học sinh có một
văn bản để đọc.
- Hai: Mô tả lại tranh tương tự như giúp học sinh đọc đúng tiếng và tìm
hiểu từ ngữ bài học.
- Ba: Sau mô tả tương tự như học sinh đã đọc đúng và hiểu ý nghĩa bài đọc.
Kể chuyện qua tranh, giúp cho trẻ phát triển kỹ năng tiền đọc viết, năng lực
tư duy, óc tưởng tượng sáng tạo, biết yêu cái đẹp, hướng tới cái đẹp, thông qua
đó giúp cho trẻ dễ dàng hơn khi giao tiếp, học tập và vui chơi. Là phương tiện để
giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo đức, tư duy nhận
thức và các chuẩn mực hành vi văn hóa.
3.4. Biện pháp 4: Sử dụng trò chơi trong quá trình dạy phát triển tiếng
Việt cho trẻ
Vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo, qua các hoạt động chơi mà
trẻ được học, học bằng chơi, nó phù hợp với đặc điểm phát triển của trẻ, nó
truyền tải hầu hết các kiến thức, kỹ năng xã hội và đời sống đến trẻ. Trò chơi
giúp giáo viên truyền tải các nội dung giáo dục đến trẻ một cách tự nhiên, thoải
mái nhẹ nhàng. Có nhiều trò chơi có thể sử dụng như: Chơi lô tô, chơi dán chữ,

tạo hình chữ với nguyên vật liệu, album chữ cái (trong đó trẻ sưu tầm cắt, dán
nhiều loại, nhiều kiểu in hoa, in thường, viết hoa, viết thường của các chữ cái đã
học trên báo, tạp chí để dán vào album của mình)...
Như chúng ta đã biết đặc điểm của trẻ mầm non là chóng nhớ, chóng quên.
Chính vì vậy kiến thức mới cung cấp cho trẻ nếu không ôn luyện trẻ sẽ quên
ngay khi lĩnh hội kiến thức khác. Vì vậy, việc sử dụng các trò chơi để ôn luyện
là một biện pháp quan trọng. Thông qua trò chơi trẻ được phối hợp các hoạt
động của tay, mắt tạo tiền đề cho kỹ năng đọc viết, được thực hành ngôn ngữ,
dùng ngôn ngữ để nói ra những ý nghĩ của mình và học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm
với bạn... Sử dụng trò chơi để phát triển ngôn ngữ, tạo cho trẻ trạng thái học nói
tự nhiên, là con đường nhanh nhất để trẻ bắt trước, tập nói và ghi nhớ lâu những
từ ngữ mới học được.
Ví dụ: Trong trò chơi lắp ghép "Ngôi nhà".
- Các bộ phận để lắp ghép sẽ tương ứng với thứ tự lần lượt các chữ cái như:
+ Mái nhà chứa chữ N
+ Thân nhà chứa chữ G
+ Cửa chính chứa chữ Ô
13


+ Cửa sổ chứa chữ I
Trong quá trình lắp ghép trẻ sẽ biết được kí hiệu các chữ, thứ tự các chữ
trong từ và đọc được từ.
3.5. Biện pháp 5: Cho trẻ tiếp xúc với sách.
Đọc sách mỗi ngày cung cấp cho trẻ em cơ hội phát triển khả năng tưởng
tượng về nhân vật, môi trường, diễn biến, tình tiết nội dung câu chuyện. Khi
những câu chuyện trở nên quen thuộc sẽ giúp trẻ cảm nhận được vần điệu, nhịp
điệu của ngôn ngữ nghệ thuật, làm quen với cách diễn đạt của ngôn ngữ văn
học. Trẻ học hỏi và thực hành kỹ năng ngôn ngữ như: Khả năng dự đoán, hiểu
nguyên nhân và kết quả, trình tự thời gian, kể lại câu chuyện, sử dụng từ vựng

trong các ngữ cảnh khác nhau.
Ví dụ: Giáo viên có thể thực hiện như sau:
- Ngày 1: Giới thiệu các bộ phận của cuốn sách (tác giả, tiêu đề, minh họa)
Cho trẻ đoán những gì có thể hiện ở tiêu đề, tranh minh họa và đọc cho trẻ nghe.
- Ngày 2: Đọc cuốn sách với đạo cụ như sa bàn hoặc con rối. ..
- Ngày 3: Đọc kết hợp cho trẻ dự đoán sự kiện.
Đó là khi đọc một văn bản quen thuộc giáo viên cung cấp một vài từ đầu
tiên và khuyến kích trẻ dự đoán.
- Ngày 4: Cho trẻ thay nhau đọc sách (đọc theo cách hiểu của trẻ về nội
dung qua tranh), tạo cơ hội cho nhiều trẻ tham gia.
- Ngày 5: Cho trẻ diễn lại nội dung cuốn sách, có thể thêm vào tình tiết làm
cho câu chuyện hấp dẫn. Nếu trẻ quên cô có thể gợi ý cho trẻ.

Ảnh: Bé làm quen với sách
14


Thông qua đó hướng dẫn trẻ cách cầm sách, giữ sách, lật giở từng trang,
đọc và quan sát ảnh minh họa lần lượt từ trang đầu đến trang cuối. Vì vậy thư
viện cần được đặt ở khu vực yên tĩnh. Sách cần được thay đổi thường xuyên tạo
sự phong phú, bìa quay ra ngoài để trẻ rễ dàng lựa chọn. Nếu sách bị rách, hư
hỏng cần được sữa chữa ngay, để giáo dục trẻ ý thức bảo quản giữ gìn. Tuyên
truyền, vận động phụ huynh đóng góp thêm sách và có thể mượn về nhà đọc cho
trẻ nghe và hướng dẫn trẻ đọc.
3.6. Biện pháp 6: Tuyên truyền kết hợp với phụ huynh
Nhiều phụ huynh chưa nhận thức rõ về vai trò nhiệm vụ của bậc học mầm
non, nhiều người nghĩ đến trường mầm non chỉ mỗi nhiệm vụ trông giữ trẻ mà
không biết rằng ngoài việc chăm sóc các cháu, hàng ngày các cô còn phải tổ
chức các hoạt động học cho trẻ. Sau khi đón con về nhiều phụ huynh cũng
không trò chuyện với trẻ về những những gì mà con được hoạt động ở trường

mà chủ yếu để các con tự chơi hoặc xem các phương tiện hiện đại như ti vi, điện
thoại.
Gia đình và nhà trường là hai nhân tố vô cùng quan trọng trong việc chăm
sóc giáo dục trẻ. Vì vậy, là giáo viên chủ nhiệm tôi thường xuyên trao đổi với
các bậc phụ huynh về tình hình sức khỏe cũng như học tập của các cháu, nhất là
những cháu nhút nhát, những cháu có khả năng nhận thức kém hơn các bạn
trong lớp. Chính vì điều này tôi nhận được sự đồng thuận và ủng hộ của phụ
huynh rất nhiều, từ đó trẻ của lớp tôi phụ trách khả năng nhận biết chữ cái cũng
như các mặt hoạt động khác của ngôn ngữ tiếng Việt được tốt hơn.
Ngoài những tài liệu sách vở của trẻ trên lớp theo quy định của bậc học, tôi
còn tuyên truyền và kết hợp với các bậc phụ huynh xây dựng "góc học tập" cho
trẻ tại nhà với bàn ghế phù hợp có bút chì, sáp màu, giấy, tranh, sách, bảng chữ
cái... được sắp xếp gọn gàng để trẻ cùng học tập với các thành viên trong gia
đình, nhắc trẻ ngồi đúng tư thế, cách cầm bút, giữ vở, giở sách rèn thói quen và
sự hứng thú trong học tập
Đồng thời tôi còn in các bài thơ câu chuyện phát tay cho các phụ huynh khi
đón con về, thường xuyên khuyến khích phụ huynh đọc truyện thơ bằng tiếng
Việt cho trẻ nghe để giúp trẻ nhớ tên truyện, thơ; tên các nhân vật trong truyện,
hiểu được nội dung và có thể đọc thuộc thơ, kể lại được câu chuyện cho người
khác nghe. Trường hợp bố mẹ không biết đọc thì có thể động viên các phụ
huynh kết hợp theo nhóm để phụ huynh nào biết thì đọc cho trẻ nghe, ngoài ra
nhà trường còn tư vấn và vận động các trưởng thôn, trưởng bản có các chương
trình phát thanh hay các buổi sinh hoạt tập thể như thi kể chuyện, hát múa, lễ hội
tại thôn bản bằng tiếng Việt cho trẻ, để trẻ có nhiều cơ hội giao lưu, sử dụng
tiếng Việt.
Chúng tôi còn tuyên truyền đến các bậc phụ huynh ủng hộ các phế liệu, các
nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để làm đồ dùng đồ chơi và các góc hoạt
động cho trẻ.
15



4. Kết quả đạt được sau khi thực hiện các biện pháp:
Sau khi áp dụng các biện pháp trên trong năm học tôi thấy có những
chuyển biến rõ rệt, cụ thể như sau:
- Đối với trẻ:
+ Đa số trẻ thuộc hết 29 chữ cái và 10 số đầu.
+ Biết đọc thơ, kể chuyện diễn cảm.
+ Trẻ biết cách cầm bút, ngồi đúng tư thế và tô màu các chữ cái.
+ Biết bắt trước viết tên mình.
+ Trẻ biết cầm và lật giở sách lần lượt.
+ Có thói quen học tập, tuân thủ các nội quy, quy định.
- Đối với giáo viên
+ Bản thân tôi nhận thức được tầm quan trọng của việc nói mạch lạc ngôn
ngữ tiếng Việt cho trẻ trước khi vào lớp 1. Từ đó tôi chú trọng và tạo điều kiện
cho trẻ được nghe, nói mọi lúc, mọi nơi để trẻ phát huy được khả năng của
mình. Từ đó việc chuẩn bị tâm thế cho trẻ vào lớp 1 được tốt hơn.
+ Tôi thường xuyên xây dựng môi trường vật chất trong lớp để trẻ có nhiều
cơ hội tìm tòi, trải nghiệm và khám phá giúp cho khả năng tư duy của trẻ phát
triển hơn.
+ Thường xuyên cho trẻ giao tiếp, trao đổi với cô, với bạn về những suy
nghĩ, quan điểm của mình giúp cho ngôn ngữ mạch lạc của trẻ được cũng cố và
tăng cường.
- Đối với phụ huynh:
+ Phụ huynh hiểu được tầm quan trọng của bậc học mầm non, đặc biệt là
trẻ 5 - 6 tuổi.
+ Thường xuyên quan tâm, trao đổi với giáo viên về tình hình sức khỏe
cũng như học tập của con em mình. Từ đó giúp trẻ có nhiều cơ hội được thể hiện
bản thân và thể hiện khả năng vốn có của trẻ và giúp trẻ phát triển một cách tích
cực chủ động hơn.
Bằng một số kinh nghiệm của mình mà tôi đã áp dụng trong việc phát triển

kỹ năng nói mạch lạc ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số lớp Lá A 1 (5 6 tuổi) trong năm học và đạt kết quả như sau:
ST
T
1
2
3
4

Kết quả đạt được cuối giai đoạn 2 như sau:
Đạt
Nội dung khảo sát
Tổng số trẻ
Số trẻ
%
Kỹ năng nghe
25
25
100
Kỹ năng nói
25
25
100
Làm quen với đọc, viết
25
25
100
Sự hứng thú học tập
25
25
100


Tổng hợp:
- Số trẻ đạt: 25/25 trẻ = 100%.
- Số trẻ chưa đạt: 0/0 trẻ = 0%.
16

Chưa
Số trẻ
0
0
0
0

%
0
0
0
0


Để đạt được kết quả này không chỉ là sự nỗ lực của cô và trẻ mà còn là sự
hướng dẫn tận tình của tổ chuyên môn, sự quan tâm trợ giúp của các đồng
nghiệp, sự ủng hộ nhiệt tình của các bậc phụ huynh. Từ đó kỹ năng nói mạch lạc
ngôn ngữ tiếng Việt của trẻ được phát triển và dần đi vào hoàn thiện.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Kỹ năng nói mạch lạc ngôn ngữ tiếng Việt là một kỹ năng quan trọng cần
phát triển cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi. Vì trẻ không được hình thành và phát triển
kỹ năng nói mạch lạc ngôn ngữ tiếng Việt thì sẽ rất khó khăn trong sự hình
thành kỹ năng đọc, viết thực thụ.

Bản thân thấy rằng việc hình thành và phát triển kỹ năng nói mạch lạc ngôn
ngữ tiếng Việt cho trẻ là cả quá trình liên tục và có hệ thống đòi hỏi giáo viên
phải kiên trì, bền bỉ, khắc phục khó khăn để tìm ra phương tiện, điều kiện cần
thiết để biến việc học đọc, học viết thành nhu cầu của trẻ, việc học chữ càng hấp
dẫn càng thu hút sự chú ý của trẻ.
Để đạt được kết quả trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua quá trình
thực hiện tôi rút ra một số kinh nghiệm sau:
- Giáo viên cần hiểu rõ tầm quan trọng của việc hình thành và phát triển kỹ
năng nói mạch lạc ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ, không ngừng học tập để nâng
cao trình độ chuyên môn, tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình
giảng dạy.
- Tích cực làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo hấp dẫn với trẻ và phù hợp với nội
dung của bài dạy.
- Luôn tạo không khí vui tươi, thoải mái cho trẻ, tạo điều kiện quan tâm
đến trẻ, giúp trẻ phát huy hết tiềm năng của mình.
- Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa cô giáo và phụ huynh để nắm được khả
năng của trẻ từ đó có kế hoạch phát triển kỹ năng nói mạch lạc ngôn ngữ tiếng
Việt phù hợp.
2. Kiến nghị:
Tôi mong lãnh đạo các cấp quản lí giáo dục ngày càng quan tâm hơn đến
bậc học mầm non, đặc biệt là việc thực hiện chế độ chính sách để đáp ứng nhu
cầu cuộc sống, tăng cường cải tạo cơ sở vật chất, đầu tư các trang thiết bị dạy
học để giáo viên có nhiều điều kiện trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ, quan
tâm hơn nữa đến chế độ chính sách cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
để giúp các em có điều kiện đến trường được tốt hơn. Giáo viên là lực lượng
nòng cốt tạo nên sự phát triển của nhà trường, chính vì vậy cần xây dựng kế
hoạch để giáo viên có điều kiện được đi thăm quan các môi trường sư phạm và
được xem nhiều tiết dạy thực hành để học hỏi trau dồi kinh nghiệm hơn nữa./.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG

ĐƠN VỊ

Quang Hiến, ngày 20 tháng 04 năm 2018
CAM KẾT KHÔNG COPPY
17


Phạm Lệ Thùy

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các hoạt động phát triển ngôn ngữ của trẻ mầm non. NXBGD
2. Chương trình Giáo dục Mầm Non NXBGD
3. Bộ tranh truyện, tranh thơ theo chủ đề 5 - 6 tuổi. NXBGD
4. Tạp chí giáo dục mầm non, số 4 năm 2009, số 4 năm 2011, số 2 năm 2016
5. Hướng dẫn chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số.
6. Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục mầm non.
(Dành cho giáo viên dạy lớp 5 - 6 tuổi vùng khó)
7. Hướng dẫn tăng cường tiếng Việt cho trẻ em người dân tộc thiểu số trong các
cơ sở giáo dục mầm non. Tài liệu của sở giáo dục và đào tạo Thanh Hóa

19


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GD&ĐT HUYỆN LANG CHÁNH


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI
MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG
NÓI MẠCH LẠC NGÔN NGỮ TIẾNG VIỆT CHO TRẺ 5 - 6
TUỔI NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TRƯỜNG MẦM
NON QUANG HIẾN - LANG CHÁNH - THANH HÓA.

Người thực hiện: Phạm Lệ Thùy
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm Non Quang Hiến
SKKN thuộc lĩnh vực: Phát triển ngôn ngữ

THANH HÓA NĂM 2018
20



×