MỤC LỤC
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1
1.1 Lí do chọn đề tài
1
1.2. Mục đích của đề tài
1
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2
2. PHẦN NỘI DUNG
3
2.1. Cơ sở lí luận
3
2.2.Thực trạng của vấn đề
3
2.3.Giải pháp thực hiện
4
2.3.1. Sử dụng đồ dùng và phương tiện dạy học có hiệu quả
4
2.3.2 Khai thác vốn hiểu biết của học sinh
6
2.3.3 Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học
8
2.3.3.1. Phương pháp quan sát
8
2.3.3.2. Phương pháp hỏi đáp
9
2.3.3.3. Tổ chức trò chơi học tập
10
2.3.4. Lựa chọn các hình thức dạy học phù hợp
12
2.3.4.1. Hình thức dạy học trong lớp
13
2.3.4.2. Hình thức dạy học ngoài lớp
13
2.4.Kết quả
19
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
21
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Cùng với sự phát triển đi lên của xã hội, của khoa học, con người cũng cần
phải được trang bị lượng kiến thức đầy đủ, toàn diện. Muốn vậy, mục tiêu đầu
tiên của giáo dục phải đào tạo ra những con người, phát triển toàn diện. Chính vì
vậy, chương trình giáo dục không chỉ đi sâu vào hai môn Toán và Tiếng Việt mà
còn chú trọng các môn khác như: Âm nhạc, Đạo đức, Tự nhhiên và Xã hội … và
phải bắt đầu từ giáo dục Tiểu học. Trong giáo dục Tiểu học mỗi môn học có một
vị trí quan trọng riêng.
Môn Tự nhiên và Xã hội cung cấp cho học sinh những hiểu biết ban đầu về
môi trường tự nhiên và xã hội gần gũi với đời sống hàng ngày của các em.
Thông qua những kiến thức khoa học cơ bản được trình bày đơn giản, phù hợp
với trình độ nhận thức và đặc điểm lứa tuổi học sinh, giúp các em hình thành
được tư duy lôgic mang tính khoa học, những năng lực cần thiết khác để các em
có thể ứng xử hợp lý trong cuộc sống.
Môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1 cung cấp cho học sinh những tri thức cơ bản
cần thiết và tối thiểu về cơ thể con người, một số cây, con vật phổ biến giúp học
sinh có hiểu biết ban đầu về gia đình, trường học, cộng đồng, một số hiện tượng
tự nhiên về thời tiết như: nắng, mưa, gió, nóng, rét…
Tuy môn Tự nhiên và Xã hội ở tiểu học nói chung (lớp 1 nói riêng) có vai trò
đặc biệt như vậy nhưng còn một số giáo viên chưa quan tâm đúng mức tới môn
học. Từ đó, chất lượng môn học chưa cao, giờ học tẻ nhạt, đơn điệu, học sinh
tiếp thu bài thụ động, việc giảng dạy môn Tự nhiên và Xã hội chưa được coi
trọng.
Thực hiện việc đổi mới trong giảng dạy, giúp học sinh học có hiệu quả môn
Tự nhiên và Xã hội lớp 1, tôi đã đi sâu nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp
nhằm phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh khi học môn Tự nhiên
và Xã hội lớp 1” tại lớp 1C - Trường Tiểu học Thị trấn Cẩm Thủy do tôi chủ
nhiệm. Với mục đích nghiên cứu của đề tài là: Tìm ra các biện pháp dạy học phù
hợp giúp các em nắm nội dung bài chắc chắn, sâu sắc, giờ học có hiệu quả, nhẹ
nhàng, học sinh được “Học mà chơi - Chơi mà học”.
1.2. Mục đích của đề tài
- Nghiên cứu thực trạng về việc dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp Một,
phân tích những thuận lợi và khó khăn khi dạy và học Tự nhiên và Xã hội ở lớp 1.
- Tìm ra một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động cho học
sinh trong tiết Tự nhiên và Xã hội .
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp dạy học giúp học sinh học tốt môn
Tự nhiên và Xã hội lớp 1.
2
- Đối tượng áp dụng: học sinh lớp 1C - Trường Tiểu học Thị trấn Cẩm Thủy
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài việc học hỏi đồng nghiệp tôi còn sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp nghiên cứu SGK, tài liệu tham khảo.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp thực nghiệm.
2. PHẦN NỘI DUNG
3
2.1.Cơ sở lí luận
Chúng ta ai cũng biết lớp 1 là lớp học đầu tiên của bậc Tiểu học, là lớp thừa
hưởng trực tiếp kết quả học tập của trẻ từ mẫu giáo lên. ở mẫu giáo, các em học
theo cách “Chơi để học - Vui chơi là hoạt động chủ đạo”. Nhưng vào lớp 1, hoạt
động học tập được chuyển dần sang chủ đạo, học tập trở thành hoạt động chính
của trẻ.
Môn học Tự nhiên và Xã hội là môn học khá mới mẻ với các em lớp 1. Vậy
dạy môn học này thế nào để giúp các em tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng,
không áp đặt. Học sinh tự tìm tòi phát hiện kiến thức làm phong phú cuộc sống
của bản thân phù hợp với lứa tuổi. Từ đó, các em biết vận dụng vào cuộc sống
hàng ngày một các hợp lý. Để làm được điều đó, mỗi khi lên lớp giáo viên cần
chuẩn bị tổ chức các hình thức, phương pháp dạy học thích hợp nhằm thu hút
học sinh hứng thú với hoạt động học mà không bị hụt hẫng - học sinh mỗi ngày
đến trường là một ngày vui, được “học mà chơi - chơi mà học” phù hợp với tâm
lý lứa tuổi. Đây là việc làm cần thiết giúp cho Môn học Tự nhiên và Xã hội đạt
hiệu quả cao.
2.2. Thực trạng của vấn đề
2.2.1.Cách dạy coi trọng vai trò truyền đạt thông tin của giáo viên:
Đây là kiểu dạy học theo phương pháp truyền thống giáo viên đóng vai trò
chủ thể của hoạt động dạy với một chức năng duy nhất là truyền đạt kiến thức
trong SGK.
Với cách dạy học này, học sinh tiếp thu bài một cách thụ dộng, học sinh
ngồi nghe và ghi nhớ kiến thức, về nhà học thuộc sau đó tái diễn lại. Với cách
này, giờ học trầm và không hiệu quả.
2.2.2 Cách dạy coi trọng hoạt động học của học sinh:
Giáo viên là người hướng dẫn gợi mở, học sinh tự khám phá kiến thức.
Song trong quá trình giảng dạy, giáo viên chưa linh hoạt tổ chức các hình thức
giảng dạy nên tiết học khô khan, thiếu phong phú.
Hiểu được điều này nên trong thực tế giảng dạy, tôi luôn trăn trở suy nghĩ
làm thế nào để tiết học Tự nhiên và Xã hội trở nên nhẹ nhàng, không khô cứng,
học sinh hăng hái chủ động tham gia vào quá trình học. Học sinh hứng thú mong
muốn học Tự nhiên và Xã hội. Đây quả là một việc khó, đòi hỏi giáo viên phải
đầu tư thời gian, tâm huyết với nghề, có lòng hăng say nhiệt tình công tác,
nghiên cứu kỹ tài liệu.
Đáp ứng sự đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện học sinh, từ thực tế giảng dạy, tôi đã tìm ra được “Một số biện pháp
nhằm phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh khi học môn Tự nhiên
và Xã hội lớp 1”.
2.3. Giải pháp thực hiện
4
2.3.1. Sử dụng đồ dùng và phương tiện dạy học có hiệu quả:
2.3.1.1.Đồ dùng dạy học:
Học sinh tiểu học tư duy vẫn chủ yếu là “Từ trực quan sinh động đến tư
duy trừu tượng. Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn” (Lê-nin). Đặc biệt với đối
tượng học sinh lớp 1, vừa từ mẫu giáo lên, do vậy tư duy của các em là tư duy
cụ thể. Nên đồ dùng dạy học là phương tiện không thể thiếu trong mỗi tiết học.
Đồ dùng môn Tự nhiên và Xã hội bao gồm: tranh, ảnh, thẻ từ, bảng nhóm,
vật thật.
2.3.1.1.1. Đồ dùng là tranh ảnh:
Trong sách giáo khoa Tự nhiên và Xã hội, mỗi bài đều có tranh minh họa
với màu sắc đẹp và hấp dẫn. Bên cạnh đó, tôi và học sinh sưu tầm nhiều tranh
ảnh phục vụ cho bài dạy, tranh đảm báo tính thẩm mỹ, to, rõ ràng, màu sắc phù
hợp với trẻ.
Ví dụ : Khi dạy bài 23: “Cây hoa”
Hoạt động 2: Làm việc với SGK.
- Mục tiêu:
+ HS biết đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi dựa trên các hình trong SGK.
+ Biết ích lợi của việc trồng hoa.
- Cách tiến hành:
+ Giáo viên chia nhóm 4 học sinh. Giúp đỡ kiểm tra hoạt động thảo luận
của HS.
+ HS quan sát tranh, một HS đọc câu hỏi một HS trả lời, những HS khác bổ
sung.
+ Kiểm tra kết quả của hoạt động.
- Sau khi học sinh kể tên các loại hoa có trong bài, tôi yêu cầu học sinh kể
tên các loại hoa khác mà em biết (dựa vào tranh ảnh mà các em chuẩn bị). Tiếp
theo giáo viên đưa ra tranh ảnh về một số loại hoa và yêu cầu học sinh nên tên.
Từ đó giúp học sinh mở rộng hiểu biết và biết được nhiều loại hoa qua tranh ảnh
sưu tầm.
2.3.1.1.2. Đồ dùng là vật thật
Ngoài những đồ dùng là tranh ảnh, sang phần Tự nhiên, học sinh được tìm
hiểu về một số cây rau, hoa, các con vật. Nhìn vào vật thật, học sinh dễ nêu đặc
điểm qua quan sát.
Ở hoạt động 1: Quan sát con cá được mang đến lớp
Mục tiêu:
- Học sinh nhận ra các bộ phận của con cá.
5
- Mô tả con cá bơi và thở như thế nào?
Tiến hành:
Bước 1: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát con cá theo nhóm 4 thật kỹ
và trả lời các câu hỏi sau :
1. Chỉ và nói tên các bộ phận bên ngoài của con cá.
2. Cá sử dụng những bộ phận nào của cơ thể để bơi?
3. Cá thở như thế nào?
Bước 2: Học sinh quan sát và mô tả những gì các em nhìn thấy.
Với câu hỏi 1, học sinh có thể quan sát tranh ảnh con cá cũng có thể trả lời
được: Con cá có đầu, mình, đuôi và các vây. Nhưng nếu chỉ quan sát tranh ảnh
thì học sinh khó có thể trả lời câu hỏi 2 và 3. Vì vậy, việc quan sát trực tiếp con
cá giúp học sinh chủ động, tích cực tìm hiểu kiến thức để đi đến thống nhất câu
trả lời:
- Cá bơi bằng cách uốn mình và vẫy đuôi để di chuyển. Cá sử dụng vây để
giữ thăng bằng.
- Cá thở bằng mang (cá há miệng để cho nước chảy vào, khi cá ngậm
miệng, nước chảy qua các mang cá, ôxy tan trong nước được đưa vào máu cá.
Cá sử dụng ôxy để thở.
Ví dụ 2: Khi dạy bài 22: “ Cây rau”
Hoạt động 1: Quan sát cây rau.
- Mục tiêu của hoạt động này là:
+ Học sinh biết tên các bộ phận của cây rau.
+ Biết phân biệt loại rau này với loại rau khác.
- Tôi đã tiến hành như sau: Chia học thành các nhóm đôi, hướng dẫn học
sinh quan sát cây rau mang đến lớp và trả lời các câu hỏi:
+ Hãy chỉ và nói rễ, thân, lá của cây rau mang đến lớp? Trong đó, bộ phận
nào ăn được?
+ Em thích ăn rau nào?
Sau đó, tôi gọi học sinh trình bày. Từ việc quan sát cây rau, học sinh chủ
động, tích cực quan sát và trao đổi với bạn để đi đến thống nhất câu trả lời như:
các cây rau đều có rễ, thân, lá. HS nêu được các bộ phận của rau ăn được:
+ Các loại rau ăn lá: bắp cải, xà lách,...
+ Các loại rau ăn lá và thân: rau muống, rau cải,...
+ Các loại ra ăn rễ: củ cải, cà rốt,...
+ Các loại rau ăn thân: xu hào,...
+ Các loại rau ăn quả: cà chua, su su, đậu, bí. mướp, dưa chuột,...
6
+ Các loại rau ăn hoa: súp lơ, thiên lí, ...
2.3.1.2. Các thiết bị dạy học hiện đại:
1.3.1.2.1. Băng đĩa
Ngày nay khoa học phát triển, việc sử dụng băng đĩa không quá khó khăn,
nó giúp cho giáo viên cung cấp cho học sinh những tư liệu làm phong phú kiến
thức bài học, hơn nữa nó giúp cho học sinh có thêm hứng thú trong học tập, tạo
sự mới lạ trong giảng dạy.
Ví dụ : Khi dạy bài 11: “Gia đình”
Phần giới thiệu bài: Tôi cho cả lớp nghe bài hát “Cả nhà thương nhau”, sau
đó tôi dẫn dắt học sinh vào bài.
Sau khi cho học sinh tìm hiểu hoạt động 1 và hoạt động 2, đến hoạt động
nghỉ giải lao, tôi cho cả lớp nghe và hát bài “Ba ngọn nến lung linh”. Khi học
sinh nghe và hát xong, học sinh thoải mái, tiếp thu kiến thức bài được tốt hơn.
2.3.1.2.2. Máy chiếu Projector:
Tôi đã kết hợp với máy tính, sử dụng giáo án điện tử, sử dụng phần mềm
Powerpoint tạo các slide và dùng Projector trình chiếu.
Ví dụ: Khi dạy bài 21: “Ôn tập: Xã hội”
Tôi đã thiết kế bài giảng điện tử
Như vậy để giờ học tự nhiên, sinh động giúp học sinh yêu thích môn học thì
giáo viên phải chuẩn bị đồ dùng dạy học phải công phu và phong phú về thể
loại. Nó quyết định rất lớn đến thành công của tiết dạy.
Việc sử dụng đồ dùng và phương tiện dạy học của giáo viên và học sinh là
điều kiện rất tốt để tiết học thành công.
Bên cạnh đó, giáo viên cũng cần chú ý khai thác vốn hiểu biết của học sinh
khi tìm hiểu bài.
2.3.2. Khai thác vốn hiểu biết của học sinh
Để phấn đấu đạt được những yêu cầu về đổi mới phương pháp dạy học, cần
tăng cường tính chủ động nhận thức của học sinh. Người giáo viên phải biết dẫn
dắt học sinh dựa vào kinh nghiệm cá nhân và vốn hiểu biết của mình để tự phát
hiện kiến thức.
Ví dụ 1: Khi dạy bài: “Con mèo”
Khi học bài này, học sinh đã học qua bài “Con gà”, “Con cá”. các em đã
biết cách quan sát con vật, biết tự nêu câu hỏi và quan sát để trả lời. Nhiều gia
đình có nuôi mèo nên các em có hiểu biết về mèo khá phong phú.
Tôi thiết kế bài này làm 3 hoạt động. Trong đó, hoạt động thứ nhất có sử
dụng đến vốn kiến thức và sự hiểu biết đã có của học sinh. Đó là:
Hoạt động 1: Quan sát con mèo
7
* Mục tiêu: Học sinh biết các bộ phận của con mèo
* Cách tiến hành:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát: 1 học sinh đọc câu hỏi trong
SGK
+ Con mèo có lông màu gì?
(Chỉ nói tên các bộ phận bên ngoài của con mèo)
+ Học sinh quan sát theo nhóm đôi và mô tả con mèo với bạn (1 học sinh
hỏi - 1 học sinh trả lời).
+ Gọi một số học sinh lên chỉ tranh phóng to và trình bày.
+ Hỏi: Khi vuốt ve bộ lông mèo, em thấy thế nào ?
- Giáo viên kết luận: Mèo có đầu, mình, đuôi và bốn chân. Toàn thân được
phủ một lớp lông mềm và mượt.
Ví dụ 2: Khi dạy bài: “Thời tiết”
+ Học sinh ra ngoài trời, quan sát kỹ bầu trời và cảnh vật. Học sinh đã được
học các dạng của thời tiết nên tôi đặt câu hỏi:
Bầu trời như thế nào? (2 học sinh trả lời)
Trời có gió không? Vì sao con biết? (1 học sinh trả lời)
Hãy nói về thời tiết ngày hôm nay (2 học sinh trả lời)
Cũng trong bài này, học sinh được tham gia một hoạt động nữa là: Thu thập
và trình bày những câu ca dao, tục ngữ về thời tiết để khai thác sự hiểu biết của
các em (Tôi đã cho học sinh chuẩn bị trước khi đến lớp). Học sinh đọc cho nhau
nghe trong nhóm, sau đó đọc trước lớp những câu ca dao, tục ngữ mình thu thập
được:
- Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm.
- Ráng mỡ gà ai có nhà phải chống.
- Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng
Ngày tháng mười chưa cười đã tối
- Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa.
Giáo viên có thể giải thích thêm cho học sinh hiểu những câu tục ngữ các
em vừa nêu.
Việc chú ý đến khai thác những hiểu biết về vốn sống của học sinh khi xây
dựng kế hoạch dạy học đối với từng bài là việc làm cần thiết. Nó giúp học sinh
vận dụng kiến thức dã có để khám phá, tiếp thu kiến thức mới một cách dễ dàng
8
hơn. Từ đó, học sinh hứng thú học tập, tham gia vào các hoạt động học tập một
cách tích cực.
2.3.3. Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học
Việc dạy học đối với mỗi bài học là trách nhiệm của mỗi giáo viên, vì vậy
chính giáo viên là người quyết định việc lựa chọn phương pháp dạy học thích
hợp cho từng bài học, sao cho tương tác giữa thày và trò trong quá trình lĩnh hội
tri thức của trò đạt hiệu quả cao nhất. Kinh nghiệm cho thấy, trong một bài giảng
thành công không bao giờ chỉ dùng một phương pháp mà phải phối hợp nhiều
phương pháp, các phương pháp hiện đại và phương pháp truyền thống một cách
hợp lý. Người giáo viên cần phải: Nắm chắc cách dạy từng nhóm phương pháp.
Từ đó có sự lựa chọn thích hợp để các phương pháp bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau,
phù hợp với nội dung, hình thức dạy học tương ứng.
2.3.3.1. Phương pháp quan sát:
Hoạt động quan sát về cơ sở khoa học là hoạt động nguồn gốc, là phương
tiện nhận thức và phát huy trí lực con người. Trong dạy học, phương pháp quan
sát là cách thức cho học sinh sử dụng thị giác và phối hợp với các giác quan
khác để tiếp nhận thông tin. Ở lớp 1, phương pháp này dùng trong hầu hết các
bài học Tự nhiên và Xã hội. Học sinh lớp 1 hầu hết chưa biết cách quan sát. Vì
vậy, giáo viên cần:
* Yêu cầu khi quan sát: Hướng dẫn học sinh quan sát theo trình tự (đi từ
tổng thể đến chi tiết, quan sát từ bên ngoài rồi mới đến bên trong). Ví dụ, quan
sát cây hoa:
- Tổng thể: Là các bộ phận chính.
- Chi tiết: Bông hoa như thế nào (nêu màu sắc, hình dáng, hương thơm).
Để sử dụng phương pháp này đạt hiệu quả, nhằm phát huy tính tích cực học
tập của học sinh, giáo viên phải hướng dẫn học sinh vào đối tượng quan sát một
cách có mục đích.
* Mục đích quan sát: Quan sát phải có mục đích rõ ràng. Tuy nhiên, mục
tiêu quan sát phải đơn giản, phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh. Trong
quá trình quan sát, giáo viên cần đặt những câu hỏi ngắn và rõ ràng để hướng
dẫn học sinh tập trung vào kiến thức cần tìm kiếm.
Ví dụ:
- Hãy quan sát cây hoa, nhìn kỹ từ gốc đến ngọn rồi chỉ và nêu tên các bộ
phận bên ngoài của cây hoa.
- Bông hoa có đặc điểm gì mà ai cũng thích nhìn và ngắm.
* Trong quá trình quan sát, học sinh phải được nói với các bạn, hỏi bạn,
thảo luận với bạn về kết quả quan sát rồi tự rút ra kết luận. Giáo viên luôn chú ý
giúp đỡ, uốn nắn động viên học sinh kịp thời khi các em thực hành quan sát.
9
- Khi quan sát cây hoa rồi bông hoa, các em được giới thiệu các bộ phận
của cây hoa với bạn, hỏi bạn (Ví dụ: Cây hoa có những bộ phận nào? Bạn hãy
chỉ và nêu tên các bộ phận đó?).
- Nếu học sinh khó khăn trong khi quan sát, giáo viên có thể giúp đỡ bằng
các câu hỏi gợi ý. (Ví dụ: Các bông hoa có màu sắc như thế nào? Hình dáng ra
sao? Mùi hương của nó có gì đặc biệt?)
- Có thể nói, phương pháp này sẽ giúp học sinh được hoạt động một cách
đa dạng, tích cực (được nhìn, được ngửi, được nghe …) từ đó thu nhập được
nhiều thông tin về bài học. Phương pháp quan sát luôn được sử dụng phối hợp
với các phương pháp khác, đặc biệt là:
2.3.3.2. Phương pháp hỏi đáp:
Đây là cách thức đối thoại giữa giáo viên và học sinh nhằm khơi gợi, dẫn
dắt học sinh tự rút ra kết luận hoặc vận dụng kiến thức vào thực tế. Phương pháp
này là công cụ tốt nhất để dẫn dắt học sinh tự rút ra kết luận. Khi sử dụng
phương pháp hỏi đáp trong giảng dạy môn Tự nhiên và Xã hội, tôi luôn chuẩn bị
một hệ thống câu hỏi và sắp xếp theo một trình tự logic. Mỗi câu hỏi phải là một
bước để dần dần giải quyết những vấn đề do bài đặt ra.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Công việc nhà”
* Hoạt động 1: Học sinh làm việc với SGK để biết được một số công việc ở
nhà của những người trong gia đình.
Tôi có 2 câu hỏi:
1. Từng người trong mỗi hình làm gì?
2. Hãy nêu tác dụng của mỗi công việc vừa nêu trong cuộc sống gia đình?
Dựa trên những thông tin thu thập được qua việc trả lời câu hỏi 1, học sinh
rút ra kết luận: Ở nhà mọi người đều làm những công việc khác nhau để làm cho
nhà cửa sạch sẽ, vừa thể hiện sự quan tâm giúp đỡ nhau.
* Hoạt động 2: Thảo luận nhóm: Kể tên một số công việc các em thường
làm để giúp đỡ gia đình. Tôi dùng hệ thống câu hỏi:
1. Hãy kể cho các bạn nghe về những công việc mà con và những người
trong gia đình thường làm (Ai nấu cơm? Ai quét dọn? Ai dạy con học?
Ai trông em bé? Ai chơi đùa, nói chuyện với em?)
2. Con cảm thấy thế nào khi làm xong công việc đó?
Kết luận: Mọi người trong gia đình đều phải tham gia làm việc tùy theo
sức của mình.
* Hoạt động 3: Quan sát tranh, giúp học sinh hiểu tác hại của việc không ai
quan tâm dọn dẹp nhà ở.
Học sinh sẽ quan sát và trả lời câu hỏi:
10
1. Hãy tìm ra điểm giống nhau và khác nhau giữa hai căn phòng?
2. Em thích căn phòng nào? Tại sao?
Câu hỏi 1 có tác dụng gợi mở để học sinh suy nghĩ trả lời câu hỏi tiếp theo.
Sau đó học sinh phải sử dụng các kiến thức vừa tìm hiểu được ở hoạt động 1 và
cả 2 câu hỏi vừa rồi thì mới trả lời câu hỏi sau:
3. Để có được nhà cửa gọn gàng, sạch sẽ, em phải làm gì giúp đỡ bố mẹ?
Học sinh dễ dàng nhận thấy: Để có nhà cửa gọn gàng, sạch sẽ, ngoài giờ
học, cần chăm chỉ làm việc hơn để giúp đỡ bố mẹ.
Ví dụ: Khi dạy bài “Ăn uống hàng ngày”
* Hoạt động 4: Thảo luận cả lớp để biết phải ăn uống như thế nào để có sức
khỏe tốt?
Đây là câu hỏi khó học sinh sẽ lúng túng, không diễn đạt được điều mình
hiểu để trả lời. Tôi đã đưa ra 3 câu hỏi phụ:
+ Khi nào chúng ta cần ăn và uống?
(Chúng ta cần ăn khi đói và uống khi khát)
+ Hàng ngày, cần phải ăn mấy bữa? Vào lúc nào?
(Cần ăn ba bữa chính là sáng, trưa và tối)
+ Tại sao chúng ta không nên ăn bánh kẹo trước bữa ăn chính?
(Không nên ăn bánh kẹo trước bữa ăn chính vì như vậy sẽ làm ta ăn
không ngon miệng ở bữa chính)
Cuối cùng tôi hỏi:
+ Vậy phải ăn uống như thế nào để có sức khỏe tốt?
Các em trả lời ngay: Cần phải ăn khi đói và uống khi khát, nên ăn ba bữa
sáng, trưa và tối. Không nên ăn bánh kẹo trước bữa ăn chính để bữa ăn chính
ăn được nhiều và ngon miệng).
Chúng ta vẫn quen cách học: Người đặt câu hỏi là giáo viên, người trả lời
câu hỏi là học sinh. Điều này có thể thực hiện theo chiều ngược lại. Để học sinh
tự giác, tích cực hơn trong học tập, tôi khuyến khích các em nêu câu hỏi thắc
mắc để cả lớp và giáo viên cùng giải đáp.
Hỏi đáp và quan sát là những phương pháp đặc trưng của môn Tự nhiên và
Xã hội. Mỗi phương pháp đều có mặt mạnh riêng nên cần khai thác hợp lý và sử
dụng phối hợp linh hoạt với các phương pháp khác để giờ học hấp dẫn, lý thú để
học sinh hứng thú hơn khi tham gia các hoạt động học tập.
2.3.3.3. Tổ chức trò chơi học tập
Việc tổ chức trò chơi vào bất cứ phần nào của bài học đều rất quan trọng vì
nó làm thay đổi hình thức học tập, tạo không khí thoải mái, dễ chịu, học sinh vui
11
vẻ, nhanh nhẹn, cởi mở hơn và được củng cố hệ thống hóa kiến thức, khi cho
học sinh tham gia trò chơi học tập cần phải đảm báo tính mục đích. Trò chơi
phải thú vị và thu hút đa số hay tất cả học sinh tham gia. Khi trò chơi kết thúc,
giáo viên cần nhận xét kết quả của trò chơi, thái độ của người tham dự và rút
kinh nghiệm. Giáo viên cần hỏi xem, học sinh đã được học những gì qua trò
chơi.
Trò chơi học tập giúp cho giờ học trở nên nhẹ nhàng, thoải mái, giúp học
sinh nhanh nhẹn, tiếp thu tự giác và tích cực hơn. Qua đó, học sinh được củng cố
hệ thống hóa kiến thức.
Tôi thường tổ chức trò chơi học tập theo các bước sau:
- Giới thiệu tên trò chơi và phổ biến luật chơi
- Cho học sinh chơi thử (nếu thấy cần)
- Chơi thật
- Nhận xét kết quả của trò chơi (có động viên, khen thưởng)
- Kết thúc
Giáo viên hỏi học sinh qua trò chơi học sinh đã rút ra bài học gì? Giáo viên
tổng kết lại những gì cần học được qua trò chơi đó.
Ví dụ: Khi dạy bài “Cây rau”
Ở hoạt động 3: Đố bạn rau gì?
Tôi đã tổ chức cho học sinh chơi trò chơi: “Tôi là rau gì?”
Mục đích: Học sinh được củng cố những hiểu biết về cây rau mà các em đã
học.
Cách tiến hành:
- Nêu tên trò chơi: “Tôi là rau gì?”
- Hướng dẫn cách chơi: Một học sinh lên chơi tự giới thiệu các đặc điểm
cây rau. Một học sinh xung phong đoán. Nếu học sinh đoán sai, đổi học sinh
khác.
- Cho học sinh chơi thử:
+ Học sinh A:
Cũng gọi là bắp
Lá sắp vòng quanh
Lá ngoài thì xanh
Lá trong thì trắng
Là rau gì?
+ Học sinh B đoán: Rau cải bắp.
- Học sinh chơi thật: 7 đến 10 học sinh
12
- Nhận xét kết quả trò chơi - Giáo viên khen học sinh trả lời đúng.
Ví dụ: Khi dạy bài 21 “Ôn tập xã hội”
Tôi đã tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “Hái hoa dân chủ”
Mục đích: Giúp học sinh hệ thống hóa các kiến thức đã học về xã hội, kể
với bạn bè gia đình, lớp học và cuộc sống xung quanh, yêu quý gia đình, lớp học
và nơi các em sống …
Giáo viên chuẩn bị 2 bộ tấm bìa ghi số từ 1 đến 32 để chia cho từng học
sinh, một bộ giáo viên dùng để lựa chọn học sinh lên chơi.
Một số câu hỏi gợi ý như sau:
+ Kể về các thành viên trong gia đình em?
+ Nói về những người bạn yêu quý?
+ Kể về ngôi nhà của bạn?
+ Kể về những việc bạn đã làm để giúp đỡ bố mẹ
+ Kể về cô giáo (thầy giáo) của bạn?
+ Kể về một người bạn của bạn?
+ Kể về những gì bạn thấy trên đường đến trường?
+ Kể về nơi công cộng và nói về các hoạt động ở đó?
+ Kể về một ngày của bạn?
Giáo viên phổ biến cách chơi: giáo viên bốc số bất kỳ, học sinh mang đúng
số giáo viên bốc lên sẽ được lên “Hái hoa” và đọc to câu hỏi trước lớp và trả lời.
Giáo viên tổng kết trò chơi.
Ai trả lời đúng, rõ ràng, lưu loát sẽ được nhận phần thưởng.
Việc tổ chức trò chơi học tập trong môn Tự nhiên và Xã hội tạo ra không
khí hào hứng, thoải mái, giờ học diễn ra nhẹ nhàng, không gò bó. Trò chơi phù
hợp với đặc điểm nhận thức với lứa tuổi và tính hiếu động của các em nên đã
góp phần thúc đẩy tính tích cực hoạt động, rèn luyện kỹ năng suy nghĩ độc lập,
sự nhanh trí sáng tạo và tinh thần hợp tác cùng bạn.
2.3.4. Lựa chọn các hình thức dạy học phù hợp
Việc giáo viên biết lựa chọn hình thức dạy học thích hợp đã làm cho các
hoạt động học tập của học sinh được đa dạng, phong phú, lôi cuốn, học sinh
cùng tích cực tham gia học tập. Ngoài ra còn rèn cho học sinh kỹ năng tư duy,
tạo điều kiện để học sinh chủ động, tự tìm tòi, phát hiện ra kiến thức một cách
dễ dàng nhất.
Trong quá trình dạy môn Tự nhiên và Xã hội, tôi đã linh hoạt sử dụng một
số hình thức dạy học sau:
13
2.3.4.1 Hình thức dạy học trong lớp
Hình thức dạy học trong lớp từ trước đến nay đều là phổ biến và được giáo
viên ưa dùng. Với phạm vi bên trong lớp học, cùng với hình thức: “Thầy dạy Trò nghe” truyền thống đã tạo ra sự áp đặt những điều sẵn có cho học sinh, coi
học sinh đồng loạt giống nhau về trình độ nhận thức. Tuy giáo viên có sử dụng
các phương pháp dạy: hỏi đáp - quan sát - thảo luận … song vẫn chưa giúp cho
học sinh phát huy được tính tự giác, tích cực. Do vậy, việc đổi mới phương pháp
dạy học phải gắn liền với việc đổi mới các hình thức tổ chức dạy học trên cơ sở
“Học đi đôi với hành”. Qua đó giúp các em tích cực tự phát hiện, giải quyết các
vấn đề của bài học. Để học sinh tự phát hiện, giải quyết vấn đề của bài học, phát
huy của học sinh nên khi dạy học trong lớp tiết Tự nhiên và Xã hội, tôi đã sử
dụng một số hình thức sau:
2.3.4.1.1. Hình thức dạy học theo nhóm:
“Học thày không tày học bạn”: Cha ông chúng ta đã đúc rút ra được kinh
nghiệm quý báu của sự học tập lẫn nhau. Việc học tập của học sinh sẽ đạt kết
quả cao hơn khi các em được trao đổi, đối chiếu, tranh luận những hiểu biết của
mình với bạn, qua đó biết được những hiểu biết của bạn.
Ngoài ra, qua việc tổ chức nhóm, học sinh có thể hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau,
kiểm tra nhau.
Khi tham gia hình thức này, đòi hỏi học sinh phải cố gắng rất lớn bởi lẽ các
em không muốn thua kém bạn bè “Thua thày một vạn không bằng kém bạn
một li”. Đây chính là động lực giúp các em mạnh dạn trước đám đông và rèn kỹ
năng nói trước lớp.
Muốn cho việc học theo nhóm của học sinh đạt hiệu quả, tôi đã chú ý:
* Chia nhóm:
Việc chia nhóm học sinh tùy thuộc vào nội dung bài học, tôi thường có cách
chia nhóm như sau:
- Nhóm cố định: Lớp tôi có 32 học sinh, tôi chia thành 8 nhóm 4, cứ 2
bàn là một nhóm.
Khi phân nhóm, tôi thường chú ý đến từng đối tượng học sinh: những em
chậm chạp, nhút nhát, rụt rè được ngồi cùng những em nhanh nhẹn, hoạt bát để
tạo cho các sự hỗ trợ lẫn nhau.
Trong mỗi nhóm 4 sẽ phân thành 2 nhóm nhỏ.
Mỗi nhóm học sinh tôi đều quy định số cho từng em (1), (2), (3), (4)
(Những em số (1), (2) thường là những em học tốt). Khi tiến hành học nhóm
những ngày đầu thường là các em số (1), (2) là nhóm trưởng. Sau đó lần lượt
một thời gian sẽ đến những em mang số (3), (4) làm nhóm trưởng. Khi hoạt
động nhóm đã ổn định, tôi ghi số nào lên bảng, số đó làm nhóm trưởng.
14
Ví dụ: Cùng quan sát và tìm hiểu các bộ phận của con cá
- Nhóm cùng sở thích: Ngoài việc chia nhóm như thích màu đỏ, xanh,
vàng … để tạo nhanh nhóm này, tôi đã cắt sẵn các bông hoa (xanh, đỏ, tím, vàng
hoặc các thẻ màu).
Tôi thường dùng hình thức này khi học sinh học các tiết ôn tập, khi chơi trò
chơi.
Ví dụ: Khi dạy bài 10 “Ôn tập con người và sức khỏe”
Ở hoạt động 2: Nhớ và kể lại việc làm của mỗi người trong một ngày.
Tôi bao quát lớp, tôi đã để 4 bông hoa: xanh, đỏ, tím, vàng ở 4 vị trí khác
nhau và yêu cầu những em thích màu xanh vào một nhóm, màu vàng vào một
nhóm …Mỗi nhóm cần 4 em chơi trò chơi: “Một ngày của gia đình Hoa”
Mỗi em trong nhóm nhớ lại các hoạt động chính trong ngày của mọi người
trong gia đình Hoa (theo tranh vẽ) để đưa vào vai diễn: bố, mẹ, Hoa và em của
Hoa.
- Nhóm trí tuệ: Đối với những tiết học có những câu hỏi khó đòi hỏi học
sinh tư duy ở mức độ cao, tôi sẽ tập trung các em số (1) vào một nhóm thảo
luận, trả lời cho câu hỏi gọi đó là nhóm trí tuệ. Sau khi các em ở nhóm trí tuệ
thảo luận song sẽ trở về nhóm cố định, trình bày lại cho các bạn trong nhóm
nghe. Việc tạo nhóm trí tuệ sẽ giúp học sinh giỏi phát huy khả năng của mình.
Ví dụ: Khi dạy bài 25 “Con cá”
Ở hoạt động 1: Quan sát con cá
Sau khi thảo luận ở nhóm cố định và biết được các bộ phận bên ngoài của
con cá là: đầu, mình, đuôi và các vây. Cá bơi bằng cách uốn mình và vẫy đuôi để
di chuyển. Cá sử dụng vây để giữ thăng bằng. Để học sinh hiểu rõ cá thở như thế
nào, giáo viên đưa thêm một số câu hỏi phụ:
- Tại sao con cá lại đang mở miệng?
- Vì sao nắp mang của con cá luôn mở ra rồi khép lại?
Đây là những câu hỏi khó. Do vậy tôi yêu cầu nhóm trí tuệ thảo luận. Và
8bạn số (1) của 8 nhóm tập trung lại, thảo luận, bàn bạc, bổ sung, đối chiếu kiến
thức dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên.
Sau đó giáo viên đi đến thống nhất:
Cá thở bằng mang (cá há miệng để cho nước chảy vào, khi cá ngậm miệng
nước chảy qua các lá mang cá, ôxy tan trong nước đưa vào máu cá. Cá sử dụng
ôxy để thở).
Cuối cùng, các bạn ở nhóm trí tuệ sẽ về nhóm cố định của mình và trao đổi
lại với các bạn trong nhóm.
15
2.3.4.1.2. Hình thức dạy học cá nhân:
Đây là hình thức dạy học quan trọng vì hình thức này thúc đẩy phát huy
tính tự giác, tích cực của học sinh. Học sinh tự giác khám phá kiến thức. Với
hình thức dạy học này, giáo viên đã quan tâm đến các đối tượng học sinh trong
lớp. Để tất cả các em trong lớp đều tham gia quá trình học tập một cách chủ
động, tích cực, tôi đã thực hiện dạy học cá nhân bằng các hình thức như phiếu
học tập, hái hoa dân chủ, vẽ tranh …
* Sử dụng phiếu học tập:
Như chúng ta đã biết, việc sử dụng phiếu học tập phát huy được khả năng
nhận thức của mỗi học sinh. Phiếu học tập là phương tiện được thể hiện cá biệt
hóa quá trình dạy học.
Ví dụ: Khi dạy bài “Con gà”
Tôi đã biên soạn phiếu học tập như sau:
PHIẾU HỌC TẬP
Môn: Tự nhiên và Xã hội
Bài 26: Con gà
Bài 1: Đánh dấu x vào ô trống nếu con thấy câu trả lời đúng:
Cơ thể gà gồm:
Đầu
Tay
Cổ
Chân
Thân
Lông
Bài 2: Đánh dấu x vào ô trống nếu con thấy câu trả lời đúng:
Gà có ích lợi
Lông gà để làm áo
Trứng và thịt để ăn
Phân để nuôi cá, bón ruộng
Để gáy báo thức
Để làm cảnh
Với từng bài tập trên, tôi cho học sinh quan sát hình vẽ trong sách giáo
khoa hoặc tranh minh họa do giáo viên chuẩn bị. Học sinh sẽ nêu ý kiến của
riêng mình, học sinh khác nhận xét bổ sung.
16
Ví dụ: Khi dạy bài “Cây hoa”
Để củng cố những hiểu biết về cây hoa, tôi đã đưa ra những phương án học
sinh lựa chọn như: Con hãy cho biết câu nào đúng, câu nào sai? Theo cách ghi:
1 - đ - s vào thẻ từ
1) Cây hoa có: rễ, thân, lá, hoa
2) Rau cải là cây hoa
3) Cây hoa đồng tiền có thân cứng
4) Lá của cây hoa hồng có gai
5) Thân cây hoa hồng có gai
6) Cây hoa để trang trí, làm cảnh, làm nước hoa
Học sinh ghi số đáp án đúng - sai vào thẻ từ.
Như chúng ta đã biết, ngày nay, thực hiện đổi mới phương pháp dạy học,
giáo viên chỉ là những người tổ chức dẫn dắt và kết luận, giúp học sinh tự chiếm
lĩnh kiến thức một cách chủ động, tích cực. Ngoài hai hình thức trên, hình thức
mà giáo viên vẫn sử dụng đó là:
2.3.4.1.3. Hình thức dạy học theo lớp:
Hình thức dạy học theo lớp tuy không chiếm nhiều thời gian nhưng hình
thức này được giáo viên sử dụng đan xen trong hình thức học nhóm và hình thức
học cá nhân. Đó là lúc giáo viên bổ sung, mở rộng, giải thích minh họa hoặc
tổng kết kiến thức.
Qua việc sử dụng hình thức dạy học theo lớp, giáo viên không những khẳng
định kiến thức, tạo sự tự tin cho học sinh mà còn khắc sâu, mở rộng thêm kiến
thức cho các em. Khi sử dụng hình thức này, giáo viên cần nói với giọng vừa
phải nhưng chắc chắn, có sức thu hút học sinh.
2.3.4.2. Hình thức dạy học ngoài lớp
2.3.4.2.1. Tiết học ngoài trời
Trong chương trình môn Tự nhiên và Xã hội có một số bài giáo viên nên sử
dụng hình thức học ngoài thiên nhiên, qua việc quan sát thực tế, học sinh sẽ dễ
dàng rút ra bài học, học sinh sẽ hiểu rõ, hiểu sâu kiến thức hơn.
Khi dạy về mạch nội dung “Hiện tượng thời tiết” gồm 5 bài:
Bài 30: Trời nắng, trời mưa.
Bài 31: Thực hành quan sát bầu trời
Bài 32: Gió
Bài 33: Trời rét, trời nóng.
Bài 34: Thời tiết
17
Khi dạy những bài này, với điều kiện thời tiết phù hợp, tôi đã tổ chức cho
học sinh ra ngoài sân trường trực tiếp quan sát bầu trời, mây, cảnh vật xung
quanh trong những ngày trời nắng, trời mưa … để học sinh mô tả những dấu
hiệu thời tiết.
Yêu cầu tổ chức khi dạy theo hình thức dạy học ngoài lớp:
- Dạy học ngoài lớp với không gian rộng, nếu không thu hút học sinh chú
ý vào sự điều khiển của giáo viên sẽ làm cho giờ học lộn xộn, không hiệu quả.
- Giáo viên phân công nhóm, nên yêu cầu, định hướng nội dung cho học
sinh quan sát.
- Giáo viên thu thập kết quả quan sát của học sinh qua việc thảo luận các
câu hỏi.
- Giáo viên tổng kết …
Ví dụ: Khi dạy bài 31: Thực hành “Quan sát bầu trời”
Tôi tập cho học sinh xếp hàng đứng dưới bóng cây mát nếu trời nắng. Học
sinh đứng ngoài hành lang dưới hiên để quan sát nếu trời mưa …
Sau đó: Giáo viên đưa ra lần lượt câu hỏi để học sinh quan sát trả lời.
+ Nhìn lên bầu trời, em có trông thấy mặt trời và những khoảng trời xanh
không?
+ Trời hôm nay nhiều mây hay ít mây?
+ Những đám mây có màu gì? Chúng đứng yên hay chuyển động?
+ Quan sát cảnh vật xung quanh?
+ Sân trường, cây cối, moi vật … lúc này khô ráo hay ướt át?
+ Em có trông thấy ánh nắng vàng (hoặc những giọt mưa) không?
Sau khi học sinh thực hành quan sát, giáo viên cho học sinh trả lời câu hỏi
+ Những đám mây trên bầu trời cho chúng ta biết được điều gì? (Trời đang
nắng, trời râm mát hay trời sắp mưa …)
Như vậy qua việc học ngoài thiên nhiên các em được tận mắt chứng kiến
những sự vật, hiện tượng giúp họ sinh nhớ lâu kiến thức, hơn nữa còn phát triển
năng lực quan sát, miêu tả, so sánh, sự nhạy cảm của các giác quan cho các em.
Học sinh được thư giãn, học mà chơi, chơi mà học. Tuy nhiên, khi học ngoài sân
trường, giáo viên cũng cần hướng dẫn học sinh tập nhanh theo nhóm, không đùa
nghịch, chú ý quan sát theo sự hướng dẫn của giáo viên.
Ngoài việc tổ chức cho học sinh học tập ngoài thiên nhiên, tôi còn tổ chức
cho các em đi tham quan học tập.
18
2.3.4.2.2. Tham quan học tập
Tham quan học tập là hình thức tổ chức cho học sinh trực tiếp tiếp xúc với
các phong cảnh tự nhiên, di tích lịch sử … Qua đó trực tiếp quan sát các sự vật,
hiện tượng thực tế để củng cố, mở rộng kiến thức. Qua hình thức tham quan sẽ
góp phần bồi dưỡng năng lực quan sát, nghiên cứu, nâng cao hình thức học tập,
mở rộng tầm hiểu biết, trí tò mò.
Trong chương trình Tự nhiên và Xã hội lớp 1, khi dạy nội dung địa phương
có bài 18, bài 19 “Cuộc sống xung quanh”, tôi lên kế hoạch và thống nhất trong
tổ cho học sinh đi tham quan phong cảnh, hoạt động sinh sống của nhân dân khu
vực xung quanh trường. Mục đích giúp học sinh tập quan sát thực tế các hoạt
động đang diễn ra xung quanh mình.
Ví dụ: Khi dạy bài 18 “Cuộc sống xung quanh”
Tôi đã tiến hành cho học sinh đi tham quan khu vực quanh trường theo
trình tự như sau:
* Bước 1: Giao nhiệm vụ
- Nhận xét về quang cảnh trên đường (Người qua lại, các phương tiện
giao thông).
- Nhận xét về quang cảnh hai bên đường: Có nhà ở, cây cối, ruộng vườn
như thế nào? Người dân địa phương sống bằng nghề gì?
* Bước 2: Phổ biến nội quy khi đi tham quan
- Đi thẳng hàng không tự do.
- Đi theo hướng dẫn của giáo viên, không nói chuyện riêng, không đùa
nghịch hoặc mất tập trung.
* Bước 3: Đưa học sinh đi tham quan
Giáo viên cho học sinh xếp hai hàng đi quanh khu vực trường. Trên đường
đi, giáo viên sẽ quyết định những điểm dừng để cho học sinh quan sát kỹ và
khuyến khích các em nói với nhau về những gì các em trông thấy.
* Bước 4: Kiểm tra kết quả tham quan
Con đi tham quan có thích không? Con nhìn thấy những gì?
Cho một vài học sinh đi tham quan, giáo viên giúp học sinh nắm chắc bài
và hiểu biết thêm về cuộc sống xung quanh. Qua đó bồi dưỡng cho học sinh về
tình cảm đối với quê hương nơi mình đang sinh sống, giúp các em yêu quê
hương mình hơn.
Môn Tự nhiên và Xã hội có rất nhiều hình thức dạy học, giáo viên cần linh
hoạt tổ chức các hình thức sao cho phù hợp. Qua đó phát huy tính tự giác, tích
cực của học sinh.
19
2. 4. Kết quả
Qua việc sử dụng các biện pháp như đã nêu ở trên, tôi thấy tình hình học
tập của lớp có nhiều tiến bộ, học sinh yêu thích môn Tự nhiên và Xã hội, học
sinh có hứng thú bởi các em được “Học mà chơi - chơi mà học”.
Qua thời gian vận dụng những biện pháp trên để dạy môn Tự nhiên và Xã
hội, lớp tôi đã thu được những kết quả như sau:
Thời gian
Không khí lớp học
Ý thức học tập
Hiệu quả giờ học
Đầu năm
Lớp học trầm, tẻ Một số học sinh Hiệu quả giờ học
nhạt.
không thích học, không cao.
ngồi im hoặc làm Khoảng 55% học
việc riêng.
sinh nắm bài tại
lớp.
Cuối Học
kỳ 1
Giờ học nhẹ nhàng, Còn một số học sinh Khoảng 85% học
không khí sôi nổi.
chưa tập trung vào sinh nắm bài tại
học.
lớp.
Cuối nam
học
- Lớp học sôi nổi.
Học sinh tích cực - Học sinh hiểu
- Giờ học nhẹ tham gia vào các sâu, nhớ lâu và
hoạt động học.
nắm chắc kiến
nhàng, thoải mái.
thức.
- 100% học sinh
nắm bài tại lớp.
20
3. KẾT LUẬN- KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Để phát triển con người toàn diện góp phần hình thành năng lực, phẩm
chất, tư duy cho học sinh thì việc dạy tốt tất cả các môn Toán, Tiếng Việt hình
thành tri thức cho học sinh mà còn phải dạy tốt tất cả các môn học khác nhau để
phát triển một con người toàn diện. Việc dạy tốt môn Tự nhiên và Xã hội là một
yêu cầu đã và đang được quan tâm song song với những môn khác. Cùng với
việc đổi mới các phương pháp dạy học trong nhà trường tiểu học mà môn Tự
nhiên và Xã hội được thay đổi theo hướng tích cực. Phát huy tính tự giác, tích
cực của học sinh chính là đã thực hiện đổi mới phương pháp dạy học trong môn
Tự nhiên và Xã hội. Để làm tốt việc này, người giáo viên phải có lòng nhiệt tình,
sự năng động và say mê tìm hiểu, học hỏi, nghiên cứu. Nâng cao vai trò chủ
động của học sinh chính là phát huy tính tích cực của học sinh, góp phần tạo ra
không khí học tập vui tươi hồn nhiên, sinh động làm thay đổi không khí học tập
để học tốt các môn học tiếp theo.
Qua quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng một số biện pháp để “Phát huy
tính chủ động, tích cực của học sinh khi học môn Tự nhiên và Xã hội ở lớp
1” có hiệu quả trong mỗi tiết học đó là:
- Giờ học nhẹ nhàng, thoải mái.
- Học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động học tập.
- Học sinh hiểu sâu, nhớ lâu và nắm chắc được kiến thức.
- Học sinh thích học môn Tự nhiên và Xã hội.
3.2. Kiến nghị
Để dạy môn TNXH ở tiểu học nói chung và lớp 1 nói riêng đạt kết quả tốt,
tôi xin kiến nghị với cấp trên một số việc như sau:
Trang bị thêm đồ dùng dạy học hiện đại để giáo viên sử dụng hàng ngày.
Trên đây là những biện pháp mà tôi đã áp dụng có hiệu quả cho mình trong quá
trình dạy môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1. Rất mong ý kiến đóng góp của hội đồng
xét duyệt các cấp để tôi có thêm kinh nghiệm khi dạy môn Tự nhiên và Xã hội.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Xác nhận của Thủ trưởng đơn vị
Thị trấn, ngày 26 tháng 3 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết
Nguyễn Thị Thúy
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TT
Tác giả
Tác phẩm
Nhà xuất
bản
Năm xuất
bản
1
Bộ Giáo dục và
đào tạo
Sách giáo khoa Tự nhiên và
Xã hội
Giáo dục
2006
2
Bộ Giáo dục và
đào tạo
Sách giáo viên Tự nhiên và
Xã hội
Giáo dục
2006
3
Bộ Giáo dục và
đào tạo
Tài liệu bồi dưỡng giáo viên
dạy các môn học lớp 1 (Tập
1)
Giáo dục
2002
4
Bộ Giáo dục và
đào tạo
Tài liệu BDTX dành cho
giáo viên Tiểu học chu kỳ
2003-2007
Giáo dục
2005
5
Vụ giáo dục tiểu
học
Các chuyên đề giáo dục
Tiểu học
Giáo dục
2005
2006
2007
2008
6
Nguyễn Ngọc
Bảo
Lý luận dạy học
Giáo dục
7
S.A.Amonasvili
Chào các em
Đại học
quốc gia
Tâm lý giáo dục Tiểu học
Đại học
quốc gia
Đổi mới việc dạy học môn
Tự nhiên và Xã hội ở Tiểu
học
Giáo dục
1999
Giáo trình phương pháp dạy
môn Tự nhiên và Xã hội ở
Tiểu học
Giáo dục
1998
8
9
Bùi Phương Nga
Trịnh Quốc Thái
10 Nguyễn Thượng
Giao
2001
22
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Thúy
Chức vụ và đơn vị công tác:Trường Tiểu học Thị Trấn Cẩm Thủy
Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
xếp loại
Năm học
đánh giá xếp
loại
TT
Tên đề tài SKKN
1.
Một số kinh nghiệm rèn kĩ
năng viết văn miêu tả cho học
sinh lớp 4
Phòng
GD&ĐT
B
2009- 2010
2.
Một số kinh nghiệm để làm
tốt công tác chủ nhiệm lớp
Phòng
GD&ĐT
B
2011- 2012
3.
Một số king nghiệm dạy từ
trái nghĩa cho các đối tượng
học sinh lớp 5 trường TH
Cẩm Châu
Phòng
GD&ĐT
B
2013- 2014
ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI SKKN CỦA HĐKH CẤP TRƯỜNG
23
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI SKKN CỦA HĐKH CẤP HUYỆN
24
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI SKKN CỦA HĐKH CẤP TỈNH
25