Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

bình luận quy định của pháp luật việt nam hiện hành về thỏa thuận trọng tài thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.95 KB, 17 trang )

Bài tập học kì

Môn: Luật thương mại.
ĐẶT VẤN ĐỀ.

Trước những đòi hỏi khách quan về đa dạng hóa các hình thức và phương
thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh phù hợp với các đặc điểm của cơ chế
thị trường, Việt Nam đã có một khung pháp lý hoàn chỉnh trong lĩnh vực trọng tài,
đó là việc ban hành Luật trọng tài thương mại (LTTTM) năm 2010. Để có thể sử
dụng phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, điều không thể thiếu đó là
ý chí tự nguyện của các bên muốn đưa tranh chấp của mình ra trọng tài giải quyết.
Có thể nói yếu tố cơ bản nhất trong phương thức trọng tài là yếu tố thỏa thuận. Để
tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này em xin chọn đề tài: “Bình luận quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành về thỏa thuận trọng tài thương mại” làm bài tập học kì
của mình.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I.
Khái quát về thỏa thuận trọng tài.
1. Khái niệm thỏa thuận trọng tài.
Khoản 2 Điều 3 LTTTM năm 2010 thì “Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa
các bên về việc giải quyết bằng trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát
sinh”. Như vậy có thể hiểu khái quát thỏa thuận trọng tài là một thỏa thuận bằng
văn bản theo đó các bên kí kết nhất trí đưa tất cả hoặc một số tranh chấp đã hoặc sẽ
có thể phát sinh từ giao dịch thương mại có khả năng được áp dụng trọng tài ra giải
quyết bằng con đường trọng tài.
2. Đặc điểm thỏa thuận trọng tài.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, thỏa thuận trọng tài có những đặc điểm
cụ thể sau:
Thứ nhất, thỏa thuận trọng tài là sự thể hiện ý chí của các bên có liên quan
trong việc giải quyết tranh chấp. Theo đó các bên cam kết và đồng thuận với nhau
về việc sử dụng phương thức trọng tài để giải quyết khi có tranh chấp xảy ra, đồng


Đỗ Xuân Phượng – Nhóm 1 – Lớp N01.TL1

Page 1


Bài tập học kì

Môn: Luật thương mại.

thời thỏa thuận cụ thể về cách thức, trình tự giải quyết và các vấn đề khác có liên
quan.
Thứ hai, thỏa thuận trọng tài được xác lập dưới hình thức văn bản trong mọi
trường hợp, điều này đảm bảo cho thỏa thuận trọng tài có giá trị như một chứng cứ
xác định ý chí của các bên muốn giải quyết tranh chấp trọng tài.
Thứ ba, thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập trước hoặc sau khi có tranh
chấp xảy ra.
Thứ tư, việc xác lập nội dung các điều khoản trong thỏa thuận trọng tài đều phụ
thuộc vào sự tự nguyện thỏa thuận của các bên mà không chịu sự can thiệp của
pháp luật; tuy nhiên pháp luật có quy định một số điều khoản mang tính cơ bản
trong thỏa thuận trọng tài như phạm vi tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài,
tổ chức trọng tài, ngôn ngữ trọng tài, luật áo dụng, địa điểm trọng tài, chi phí trọng
tài, cam kết thi hành quyết định trọng tài. Một thỏa thuận trọng tài chỉ có giá trị
pháp lý khi đáp ứng được những yêu cầu của pháp luât về mặt nội dung: phải rõ
ràng, chính xác, có thể dễ dàng xác định thẩm quyền của Hội đồng trọng tài và quy
tắc tố tụng nhất định.
Thứ năm, thỏa thuận trọng tài có hiệu lực độc lập với hợp đồng, trong cả trường
hợp thỏa thuận trọng tài là một điều khoản của hợp đồng.
II.

Những quy định của pháp luật hiện hành về thỏa thuận trọng tài.


Để điều chỉnh vấn đề trọng tài thương mại, pháp luật Việt Nam hiện hành gồm
có hai văn vản đang có giá trị pháp lí đó là LTTTM năm 2010 và Nghị định
63/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
trọng tài thương mại. Tuy nhiên, thỏa thuận trọng tài chỉ được quy định tại LTTTM
năm 2010, cụ thể như sau:
- Khoản 2 Điều 3 LTTTM năm 2010 quy định về khái niệm thỏa thuận trọng
tài.
- Điều 16: Hình thức thỏa thuận trọng tài.
Đỗ Xuân Phượng – Nhóm 1 – Lớp N01.TL1

Page 2


Bài tập học kì

Môn: Luật thương mại.

- Điều 17: Quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của người tiêu
dùng.
- Điều 18 quy định về các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
- Điều 19: Tính độc lập của thỏa thuận trọng tài.
- Điều 43: Xem xét thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không
thể thực hiện được, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài.
- Điều 44: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại quyết định của Hội đồng trong tài
về việc không có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng
tài không thể thực hiện được, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài.
III.
Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thỏa
thuận trọng tài thương mại.

Để có thể đi sâu phân tích những quy định của pháp luật về thỏa thuận trọng tài
thương mại, trong khuôn khổ bài viết của mình em chỉ xin trình bày một số quy
định tiêu biểu của LTTTM năm 2010 liên quan đến vấn đề thỏa thuận trọng tài để
từ đó thấy được sự khác biệt cơ bản so với Pháp lệnh trọng tài thương mại
(PLTTTM) năm 2003.
1. Quy định về khái niệm thỏa thuận trọng tài.
Theo khoản 2 Điều 2 PLTTTM năm 2003 định nghĩa: “thỏa thuận trọng tài
là thỏa thuận giữa các bên cam kết giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có
thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại”. Theo quy định tại
khoản 2 Điều 3 LTTTM năm 2010 thì khái niệm này không có nhiều thay đổi:
“Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài
tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh”. Tuy nhiên với quy định này Luật
đã khắc phục được bất cập của Pháp lệnh, khi quy định không hạn chế phạm vi chủ
thể có thể thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Theo đó điều kiện tiên
quyết để tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài là sự tồn tại của một thỏa thuận
trọng tài, tức là khi có người khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp thì tòa
án yêu cầu người khởi kiện cho biết trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên
Đỗ Xuân Phượng – Nhóm 1 – Lớp N01.TL1

Page 3


Bài tập học kì

Môn: Luật thương mại.

có thỏa thuận trọng tài hay không. Cách tiếp cận này hoàn toàn phù hợp với Luật
Mẫu của UNCITRAL và Luật trọng tài quốc tế (IAA), đó là đề cao và tôn trọng
thỏa thuận của các bên.
Nhưng một trong những bất cập mà LTTTM năm 2010 cũng giống như

PLTTTM năm 2003 chưa giải quyết được đó là trong phần khái niệm này vẫn chưa
làm rõ được câu hỏi Trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ
quan hệ ngoài hợp đồng hay không? Vấn đề này có nghĩa quan trọng trong việc
xác định thẩm quyền của trọng tài cũng như việc công nhận và cho thi hành quyết
định trọng tài. Như chúng ta đã biết, quan hệ thương mại rất đa dạng và phong phú,
nhiều quan hệ có thể xác định bằng hợp đồng cụ thể được ký kết giữa các bên
nhưng cũng có nhiều tranh chấp không phát sinh từ quan hệ hợp đồng, ví dụ tranh
chấp phát sinh do việc đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như tàu đâm va cầu
cảng, tàu đâm va nhau… Tại Điều 7 Luật mẫu đã có quy định cụ thể:“thỏa thuận
trọng tài là thỏa thuận mà các bên đưa ra trọng tài mọi tranh chấp nhất định phát
sinh hoặc có thể phát sinh giữa các bên về quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ
hợp đồng hay không phải là quan hệ hợp đồng”, tuy nhiên pháp luật Việt Nam
hiện hành lại chưa có quy định về trường hợp này. Theo định nghĩa về thỏa thuận
trọng tài mà LTTTM năm 2010 đưa ra thì vẫn chưa quy định rõ ràng các tranh chấp
phát sinh từ quan hệ thuộc phạm vi giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại
là quan hệ hợp đồng hay quan hệ ngoài hợp đồng. Vậy nên thiết nghĩ cần phải có
sự quy định rõ ràng về vấn đề này để tránh khó khăn khi áp dụng.
2. Quy định về hình thức của thỏa thuận trọng tài.
Hình thức của thỏa thuận trọng tài là sự thể hiện ra bên ngoài sự thống nhất
ý chí của các bên tham gia quan hệ thương mại. Phù hợp với thông lệ trọng tài
thương mại thế giới, LTTTM năm 2010 quy định về hình thức thỏa thuận trọng tài
tại Điều 16 như sau:
Đỗ Xuân Phượng – Nhóm 1 – Lớp N01.TL1

Page 4


Bài tập học kì

Môn: Luật thương mại.


“1. Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài
trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng.
2. Thoả thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Các hình thức thỏa
thuận sau đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản:
a) Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex,
thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật;
b) Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các
bên;
c) Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép
lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên;
d) Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận
trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác;
đ) Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của
thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận.”
Theo đó, thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản
trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng, cụ thể:
- Thứ nhất, các bên dự đoán trước và thỏa thuận ngay từ khi bắt đầu quan hệ
thương mại về việc sẽ đưa ra trọng tài giải quyết các tranh chấp phát sinh trong
tương lai. Sự thỏa thuận này thường được thể hiện thành một điều khoản trọng tài
trong hợp đồng xác lập quan hệ thương mại giữa các bên.
- Thứ hai, sau khi tranh chấp đã phát sinh các bên mới thỏa thuận đưa tranh
chấp ra trọng tài để giải quyết. Thỏa thuận này thường dưới hình thức một văn bản
thỏa thuận riêng và được coi như gắn liền với hợp đồng chính.
Pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật của hầu hết các quốc gia khác đều quy
định thỏa thuận trọng tài phải được thể hiện dưới dạng văn bản, và hình thức nào
được coi là văn bản cũng được liệt kê chi tiết tại khoản 2 Điều 16 LTTTM.

Đỗ Xuân Phượng – Nhóm 1 – Lớp N01.TL1


Page 5


Bài tập học kì

Môn: Luật thương mại.

LTTTM năm 2010 đã khắc phục được sự không rõ ràng về các dạng tồn tại
của thỏa thuận trọng tài quy định trong PLTTTM năm 2003. Khoản 1 Điều 9
PLTTTM năm 2003 quy định: “Thỏa thuận trọng tài phải được lập thành văn bản.
Thỏa thuận trọng tài thông qua thư, thư báo, telex, fax, thư điện tử hoặc hình thức
văn bản khác thể hiện rõ ý chí của các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài
được coi là thỏa thuận trọng tài bằng văn bản”. Đây là một hạn chế của PLTTTM
khi không có hướng dẫn cụ thể “hình thức văn bản khác” là gì. Điều này gây nên
khó khăn đối với trọng tài viên và các bên khi xác định hình thức nào là văn bản,
hình thức nào không được coi là văn bản.
Việc sửa đổi của LTTTM năm 2010 về hình thức trọng tài thương mại bằng
việc liệt kê như trên dù không phải lúc nào cũng bao quát được hết các nội dung
nhưng trong trường hợp này lại vô cùng cần thiết vì nó sẽ giúp các trung tâm trọng
tài hay Hội đồng trọng tài dễ dàng tiếp nhận các vụ tranh chấp mà không phải dè
dặt suy đoán với một vài khác biệt về hình thức của thỏa thuận trọng tài đồng thời
tạo nên sự tương đồng của pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam với Luật mẫu
UNITRAL và Luật trọng tài của nhiều nước trên thế giới.
Theo quy định mới của LTTTM năm 2010 tuy đã có những quy định theo
hướng mở về khái niệm “văn bản” góp phần giảm bớt các trường hợp thỏa thuận
trọng tài vô hiệu tuy nhiên vẫn không tránh khỏi sự mâu thuẫn. Nhận thấy nếu đem
so sánh các quy định về hình thức của hợp đồng dân sự với các quy định hình thức
của thỏa thuận trọng tài trong thương mại thì dễ nhận thấy hợp đồng thương mại có
sự khắt khe hơn. Cũng dễ dàng nhận thấy một trường hợp sau; nếu thỏa thuận
trọng tài được xác lập dưới hình thức điều khỏan trọng tài trong hợp đồng và nếu

hợp đồng được giao kết bằng lời nói thì sẽ có một vấn đề đó là sự không phù hợp
so với quy định của pháp luật về hình thức của hợp đồng chính và điều khoản hợp
đồng. Trong trường hợp này nếu như tuyên bố hợp đồng đó vô hiệu thì liệu rằng đã
thực sự phù hợp hay chưa?
Đỗ Xuân Phượng – Nhóm 1 – Lớp N01.TL1

Page 6


Bài tập học kì

Môn: Luật thương mại.

Trước vấn đề trên, theo em pháp luật trọng tài nước ta cần có những bổ sung về
hình thức của thỏa thuận trọng tài theo hướng sau:
- Cần quy định chung nhất về hình thức của thỏa thuận trọng tài để nhằm
tránh được khả năng nhanh lạc hậu của quy định pháp luật về hình thức thỏa thuận
trọng tài trước sự phát triển của khoa học công nghệ như hiện nay khi nó xuất hiện
những hình thức giao dịch mới hiện đại và vẫn đảm bảo độ tin cậy.
- Cũng cần quy định việc các bên thực hiện các hành vi nhằm thực hiện thỏa
thuận trọng tài và thực hiện các điều khoản của hợp đồng được xem như thỏa thuận
trọng tài được giao kết. Đồng thời cũng cần có cách hiểu thông thoáng quy định tại
điểm d, Khoản 2 Điều 16 Luật trọng tài thương mại 2010 về cụm từ “trong giao
dịch các bên có dẫn chiếu đến” để làm cho pháp luật Việt Nam theo xu hướng hiện
đại trong việc quy định về hình thức của thỏa thuận trọng tài.
3. Quy định về quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của
người tiêu dùng.
LTTTM năm 2010 là văn bản đầu tiên về trọng tài thương mại ghi nhận
quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng tại Điều 17
như sau: “Đối với các tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người

tiêu dùng, mặc dù điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong các điều kiện
chung về cung cấp hàng hóa, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn thỏa thuận trọng
tài thì người tiêu dùng vân có quyền lựa chọn trọng tài hoặc Tòa án để giải quyết
tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa chỉ được quyền khởi kiện tại trọng tài nếu
được người tiêu dung chấp thuận”. Quy định này dựa trên một thực tế là thông
thường thì người tiêu dùng bị đặt ở một vị thế có nhiều nguy cơ bị lạm dụng bởi
các điều kiện và điều khoản trong hợp đồng in sẵn của người bán hàng hóa, người
cung cấp hàng hóa dịch vụ nên cần thiết có những quy định để bảo vệ người tiêu
dùng trong các tình huống cần thiết. LTTTM năm 2010 đưa ra quy định tại Điều 17
này nhằm bảo vệ người tiêu dùng trong tình huống họ ở vị thế bất lợi và bị lạm
Đỗ Xuân Phượng – Nhóm 1 – Lớp N01.TL1

Page 7


Bài tập học kì

Môn: Luật thương mại.

dụng đối với các điều kiện và điều khoản trong hợp đồng in sẵn của người bán
hàng hoặc nhà cung cấp dịch vụ. Đây là một quy định mang tính tiến bộ của
LTTTM năm 2010.
4. Quy định về thỏa thuận trọng tài vô hiệu
Thỏa thuận trọng tài vô hiệu là trường hợp các bên thỏa thuận về việc giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài nhưng thỏa thuận đó không được công nhận hiệu
lực. Khắc phục sự không rõ ràng của PLTTTM năm 2003 về các tình huống có thể
làm vô hiệu thỏa thuận trọng tài, Điều 18 LTTTM năm 2010 giới hạn 6 tình huống
thỏa thuận trọng tài vô hiệu sau đây:
a. Tranh chấp không thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài.
Pháp luật luôn tôn trọng sự thỏa thuận của các bên về việc giải quyết tranh

chấp nhưng nếu thỏa thuận trọng tài không thuộc thẩm quyền giải quyết theo quy
định tại Điều 2 LTTTM năm 2010 thì tranh chấp cũng không được giải quyết bằng
trọng tài. Điều 2 quy định về những tranh chấp thuộc thẩm quyền của Trọng tài bao
gồm:
“1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động
thương mại.
3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng
Trọng tài”.
Đối chiếu với PLTTTM năm 2003, khoản 1 Điều 10 Pháp lệnh quy định thỏa
thuận trọng tài vô hiệu do “tranh chấp phát sinh không thuộc hoạt động thương
mại”, có thể thấy Luật trọng tài thương mại 2010 đã khắc phục được việc phân
định không rõ ràng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài đối với các tranh chấp
thương mại. Theo quy định này phạm vi giải quyết tranh chấp trọng tài không chỉ
bó hẹp trong các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại mà đã được mở
rộng đối với các tranh chấp có liên quan đến một bên có hoạt động thương mại và
Đỗ Xuân Phượng – Nhóm 1 – Lớp N01.TL1

Page 8


Bài tập học kì

Môn: Luật thương mại.

tranh chấp khác mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài. Trên cơ sở
đó phạm vi thẩm quyền của Trọng tài được đảm bảo, tương thích với các văn bản
pháp luật hiện hành như BLDS, Luật Thương mại, Luật đầu tư và các luật chuyên
ngành. Nói tóm lại, việc tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể không thuộc lĩnh
vực được quy định tại Điều 2 LTTTM năm 2010 ngay cả khi họ có thỏa thuận

trọng tài thì thỏa thuận trọng tài đó cũng vô hiệu dẫn đến việc Trọng tài đó cũng
không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các bên.
b. Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật.
Theo LTTTM 2010 thì người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật được hiểu là người không có quyền theo luật định để
kí kết thỏa thuận trọng tài. Hiện LTTTM 2010 không giới hạn phạm vi chủ thể
tranh chấp mà chỉ quy định: “trọng tài thương mại là phương thức giải quyết
tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này”
(khoản 1 Điều 3) và các bên tranh chấp ở đây được hiểu là “cá nhân, cơ quan tổ
chức Việt Nam hoặc nước ngoài tham gia tố tụng trọng tài với tư cách nguyên đơn,
bị đơn” (khoản 3 Điều 3). Điều đó có nghĩa là mọi cá nhân, cơ quan tổ chức bất kỳ
đều có thể thỏa thuận lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp miễn là tranh chấp
phát sinh trong lĩnh vực thương mại hoặc cũng có thể là tranh chấp phát sinh từ
lĩnh vực khác mà pháp luật quy định.
Như vậy, so với PLTTTM năm 2003 thì phạm vi chủ thể được xác lập của thỏa
thuận trọng tài được mở rộng rất nhiều. Cụ thể, khoản 3 Điều 2 PLTTTM năm
2003 quy định hoạt động thương mại là hành vi thương mại do cá nhân, tổ chức
kinh doanh thực hiện và tại Điều 2 Nghị định 25/2004/NĐ-CP nêu rõ: “trọng tài
thương mại có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương
mại quy định tại khoản 3 Điều 2 Pháp lệnh mà các bên tranh chấp là cá nhân kinh
doanh hoặc tổ chức kinh doanh”. Theo cách quy định này chỉ giới hạn phạm vi
Đỗ Xuân Phượng – Nhóm 1 – Lớp N01.TL1

Page 9


Bài tập học kì

Môn: Luật thương mại.


chủ thể tranh chấp bao gồm tổ chức kinh doanh và cá nhân kinh doanh khiến các
bên tranh chấp và các trung tâm trọng tài gặp rất nhiều khó khăn. Bởi trong khi
tinh thần pháp lệnh “mở” nhưng văn bản hướng dẫn thi hành tuy có hiệu lực thấp
hơn lại đưa ra một khái niệm “đóng” đã gây ra tình trạng không ít các trường hợp
các trung tâm trọng tài phải từ chối rất nhiều vụ tranh chấp mà chủ thể kí thỏa
thuận trọng tài không phải là cá nhân, tổ chức kinh doanh. Tuy nhiên, LTTTM năm
2010 đã khắc phục được bất cập này, theo đó bất kỳ một tổ chức, cá nhân nào đều
có thể thỏa thuận lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp miễn là lĩnh vực tranh
chấp phát sinh thuộc phạm vi điều chỉnh của luật. Tức là, chỉ có những thỏa thuận
trọng tài được xác lập bởi những chủ thể có tranh chấp không phát sinh trong các
lĩnh vực điều chỉnh của LTTTM thì thỏa thuận trọng tài đó sẽ vô hiệu dẫn đến
trọng tài không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đó.
c. Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự
theo quy định của Bộ luật dân sự.
Có nghĩa rằng nếu các chủ thể xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực
hành vi dân sự theo quy định của BLDS 2005 sẽ dẫn tới thỏa thuận trọng tài vô
hiệu theo quy định tại khoản 3 Điều 18 LTTTM.
Thứ nhất, đối với chủ thể xác lập thỏa thuận trọng tài là cá nhân, không có năng
lực hành vi dân sự theo BLDS là người chưa thành niên, người bị mất năng lực
hành vi dân sự. Theo đó để chứng minh người xác lập thỏa thuận trọng tài là người
không có năng lực hành vi dân sự thì phải có giấy tờ tài liệu chứng minh đầy đủ và
phái có quyết định của cơ quan có thẩm quyền hoặc quyết định của Tòa án tuyên
bố người đó mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Thứ hai, đối với chủ thể xác lập thỏa thuận trọng tài là tổ chức thì đặc trưng của
loại chủ thể này là phải thông qua người đại diện hợp pháp để xác lập thực hiện
thỏa thuận nên muốn xét tới vấn đề năng lực hành vi của chủ thể này thì phải thông
qua việc xét năng lực hành vi dân sự của người đại diện này. Nếu người đại diện
Đỗ Xuân Phượng – Nhóm 1 – Lớp N01.TL1


Page 10


Bài tập học kì

Môn: Luật thương mại.

không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự thì
thỏa thuận trọng tài sẽ vô hiệu.
Đây là quy định kế thừa khoản 3 Điều 10 PLTTTM năm 2003 “một bên ký kết
thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”. Tuy nhiên việc
quy định của hai văn bản này theo em về bản chất là khác nhau, bởi hai khái niệm
“không có năng lực hành vi dân sự” (LTTTM) và “không có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ” (PLTTTM) là hoàn toàn khác nhau, một bên là “có năng lực hành vi
dân sự” nhưng không đầy đủ ví dụ như hạn chế năng lực hành vi dân sự chẳng hạn
còn một bên là không có năng lực hành vi dân sự. Và việc quy định như LTTTM
đã phần nào thể hiện sự thắt chặt hơn điều kiện chủ thể của thỏa thuận trọng tài.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì LTTTM 2010 khi quy định về thỏa
thuận trọng tài vô hiệu còn bộc lộ những thiếu sót nhất định. Ví dụ như quy định
pháp luật không thấy đề cập tới trường hợp một bên của thỏa thuận trọng tài chết
hoặc mất hành vi dân sự, cho nên câu hỏi trong trường hợp người xác lập thỏa
thuận trọng tài chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì thỏa thuận trọng tài còn
có hiệu lực hay không? vẫn đang bị bỏ ngỏ.
d. Hình thức của trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 của luật
này.
Điều 16 LTTTM năm 2010 quy định về hình thức của thỏa thuận trọng tài
thương mại: “1. Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều
khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng; 2. Thỏa
thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản…”
Các hình thức sau đây được coi là xác lập dưới dạng văn bản: (a) Thỏa thuận

được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử, và
các hình thức khác theo quy định của pháp luật; (b) Thỏa thuận được xác lập thông
qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên; (c) Thỏa thuận được luật sư,
công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu
Đỗ Xuân Phượng – Nhóm 1 – Lớp N01.TL1

Page 11


Bài tập học kì

Môn: Luật thương mại.

cầu của các bên; (d) Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể
hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu
tương tự khác; (đ) Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện
sự tồn tại của thỏa thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận.
Tóm lại, theo quy định tại Điều 16 của LTTTM thì thỏa thuận trọng tài phải thể
hiện bắt buộc dưới hình thức bằng văn bản, không cho phép thỏa thuận trọng tài
tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào khác ngoài các hình thức quy định tại điều luật
này, nếu có thì thỏa thuận trọng tài sẽ vô hiệu.
e. Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập
thỏa thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó vô hiệu.
Đây là quy định mà LTTTM năm 2010 kế thừa hoàn toàn khoản 6 Điều 10
PLTTTM năm 2003. Thỏa thuận trọng tài được xây dựng trên tinh thần tự nguyện
thống nhất ý chí của các bên và không bên nào có quyền áp đặt, ràng buộc lên ý
chí của bên còn lại. Do đó sự lừa dối, đe dọa, cưỡng chế trong quá trình xác lập
thỏa thuận trọng tài sẽ làm cho thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi có yêu cầu của bên
bị áp đặt theo quy định tại khoản 5 Điều 18 của LTTTM 2010.
f. Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.

Khoản 6 Điều 18 LTTTM năm 2010 đưa ra quy định mới về điều kiện có hiệu
lực của thỏa thuận Trọng tài. Theo đó, thỏa thuận Trọng tài vô hiệu khi vi phạm
điều cấm của pháp luật bởi về bản chất, thỏa thuận Trọng tài được xem như một
hợp đồng. Nhưng trong LTTTM năm 2010 cũng như Luật Thương mại không có
một định nghĩa thế nào là “vi phạm điều cấm của pháp luật” . Đối chiếu theo
BLDS năm 2005 thì Bộ luật đã qui định vi phạm điều cấm của pháp luật là một
trong những trường hợp làm cho hợp đồng vô hiệu, và Điều 128 có quy định “điều
cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực
hiện những hành vi nhất định”. Tuy nhiên, khái niệm “vi phạm điều cấm của pháp
luật” lại quá chung chung. Điều. Cách quy định này dẫn đến nhiều cách hiểu khác
Đỗ Xuân Phượng – Nhóm 1 – Lớp N01.TL1

Page 12


Bài tập học kì

Môn: Luật thương mại.

nhau. Có ý kiến cho rằng, đó phải là các quy định cấm của pháp luật, chính xác
hơn là những quy định cấm được ghi nhận trong các văn bản luật. Cách khác lại
hiểu pháp luật theo nghĩa rộng hơn, bao gồm toàn bộ các quy định của pháp luật,
cả thông lệ, tập quán, các văn bản hướng dẫn, kể cả các văn bản của các cơ quan
quản lý nhà nước về kinh tế. Trong trường hợp này bất cứ vi phạm quy định cấm
nào của các văn bản trên cũng sẽ đưa đến vi phạm điều cấm của pháp luật. Như
vậy, thiết nghĩ khái niệm “vi phạm điều cấm của pháp luật” nên được quy định rõ
ràng, cụ thể hơn tránh tình trạng một bên lạm dụng quy định này để yêu cầu hủy
quyết định trọng tài.
 Tóm lại LTTTM 2010 đã liệt kê ra 6 trường hợp dẫn tới thỏa thuận
trọng tài vô hiệu. Nếu thỏa thuận rơi vào một trong sáu trường hợp trên thì thỏa

thuận trọng tài sẽ vô hiệu. Với quy định này đã khắc phục được hạn chế của
PLTTTM năm 2003. Cụ thể là tại khoản 4 Điều 10 Pháp lệnh có quy định: “Thỏa
thuận trọng tài không quy định hoặc không quy định rõ đối tượng tranh chấp, tổ
chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp mà sau đó các bên không
có thỏa thuận bổ sung” thì thỏa thuận bị coi là vô hiệu. Đây là quy định bất hợp lý
vì nếu xét trên mặt lí luận thì quy định này mâu thuẫn với quy định về hình thức
của thỏa thuận trọng tài quy định trong pháp lệnh này, pháp lệnh thừa nhận hai
hình thức trọng tài là trọng tài quy chế và trọng tài vụ việc nhưng lại yêu cầu phải
nêu rõ tổ chức trọng tài sẽ giải quyết tranh chấp. Như vậy, quy định này đã loại bỏ
thẩm quyền của trọng tài vụ việc. Hơn nữa trong trường hợp thỏa thuận trọng tài
được thành lập trước khi tranh chấp xảy ra thì việc nêu rõ đối tượng tranh chấp sẽ
rất khó. Nếu xét về mặt thực tiễn thì quy định này gây nhiều cản trở cho việc thực
thi. Nhận thấy bản chất của thỏa thuận trọng tài chính là sự tự nguyện, thống nhất ý
chí của các bên cùng nhau đưa tranh chấp ra trọng tài để giải quyết tuy nhiên do
một số nguyên nhân như không hiểu rõ quy định của pháp luật hay sơ xuất trong
việc dùng từ mà dẫn tới thỏa thuận trọng tài đó sẽ bị tòa án tuyên là vô hiệu theo
Đỗ Xuân Phượng – Nhóm 1 – Lớp N01.TL1

Page 13


Bài tập học kì

Môn: Luật thương mại.

thời điểm Pháp lệnh có hiệu lực. Nhận thấy rõ những hạn chế trên trong những quy
định của Pháp lệnh và những bất cập trong thực tiễn áp dụng thì LTTTM 2010 ra
đời đã bãi bỏ trường hợp này. Như vậy, với sự thay đổi này thì sẽ hạn chế được tình
trạng thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc tình trạng không có cơ quan nào giải quyết
tranh chấp dù không được xác định cụ thể trong thỏa thuận trọng tài.

5. Quy định về mối quan hệ giữa thỏa thuận trọng tài và hợp đồng.
Cũng giống như Luật mẫu UNCITRAL và pháp luật nhiều nước trên thế giới
Luật trọng tài cũng ghi nhận sự độc lập của thỏa thuận trọng tài, cụ thể là “Thỏa
thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp
đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực
của thỏa thuận trọng tài” (Điều 19 LTTTM năm 2010). Đây là một nguyên tắc hết
sức quan trọng đảm bảo mọi tranh chấp phát sinh đều được giải quyết ngay cả khi
hợp đồng bị thay đổi, hủy bỏ hay bị hết hiệu lực. Có điều này là do đối tượng của
thỏa thuận trọng tài là xác định thủ tục tố tụng sẽ được áp dụng trong trường hợp
có tranh chấp phát sinh giữa các bên, hoàn toàn khác so với các đối tượng của hợp
đồng chính là xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong một quan hệ pháp luật
nhất định. Theo đó, việc pháp luật trọng tài hiện hành xác định hiệu lực độc lập
của thỏa thuận trọng tài là hoàn toàn hợp lý, nó thể hiện nguyên tắc tôn trọng ý chí
của các bên mà cụ thể là tôn trọng sự thỏa thuận về việc lựa chọn cơ quan giải
quyết tranh chấp của các bên. Tuy nhiên đối với trường hợp hợp đồng chính bị vô
hiệu thì tính độc lập về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài chỉ là tương đối.
PLTTTM 2003 đã khẳng định rõ tính độc lập của thỏa thuận trọng tài trong
Điều 11: “Điều khoản trọng tài tồn tại độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia
hạn, hủy bỏ hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng không làm ảnh hưởng tới hiệu lực
của điều khoản trọng tài”. Tuy nhiên, Điều 11 của Pháp lệnh lại đề cập đến điều
khoản trọng tài chỉ là một dạng của thỏa thuận trọng tài mà không nhắc tới thỏa
thuận trọng tài riêng biệt. Như vậy trong trường hợp này nên hiểu khi thỏa thuận
Đỗ Xuân Phượng – Nhóm 1 – Lớp N01.TL1

Page 14


Bài tập học kì

Môn: Luật thương mại.


trọng tài là một thỏa thuận riêng biệt thì nó sẽ không có đặc điểm này hay vì là một
thỏa thuận riêng biệt nằm ngoài hợp đồng nên nó đương nhiên độc lập với hợp
đồng? Mặt khác, trong Điều 11 PLTTTM chỉ đề cập đến các trường hợp hợp đồng
bị thay đổi, gia hạn, hủy bỏ, vô hiệu. Vậy trong trường hợp hợp đồng không thể
thực hiện được thì giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài sẽ như thế nào? Thiết
nghĩ để hạn chế tối đa rủi ro có thể xảy ra trong quá trình áp dụng luật nên quy
định vấn đề này một cách cụ thể hơn. Và Điều 19 LTTTM năm 2010 đã khắc phục,
giải quyết thỏa đáng lần lượt những câu hỏi đặt ra ở trên.
KẾT LUẬN.
Chế định thỏa thuận trọng tài là nội dung quan trọng trong hệ thống các quy
định về trọng tài thương mại. Mặc dù LTTTTM năm 2010 ra đời thay thế PLTTTM
năm 2003 đã giải quyết được rất nhiều vấn đề pháp lý được đặt ra trước đó tuy
nhiên trên cơ sở lí luận chung về thỏa thuận trọng tài có thể nói ràng pháp luật Việt
Nam hiện hành vẫn còn nhiều hạn chế và khiếm khuyết về nội dung này, từ định
nghĩa thỏa thuận trọng tài đến hình thức thỏa thuận trọng tài, các nội dung có liên
quan đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Vậy nên, bên cạnh việc ban hành
LTTTM năm 2010, Nghị định 63/2011 thiết nghĩ nhà nước cần phải ban hành thêm
các văn bản pháp lý dưới luật hướng dẫn chi tiết hơn về vấn đề thỏa thuận trọng
tài./

Đỗ Xuân Phượng – Nhóm 1 – Lớp N01.TL1

Page 15


Bài tập học kì

Môn: Luật thương mại.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại Việt Nam Tập II,
2.
3.
4.
5.
6.

Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2006.
Luật trọng tài thương mại năm 2010.
Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003.
Bộ luật dân sự năm 2005.
Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài quốc tế năm 1985.
Trần Thanh Huyền, Một số vấn đề pháp lý cơ bản về thỏa thuận trọng tài
theo Luật trọng tài thương mại năm 2010, Khóa luận tốt nghiệp, Trường đại

học Luật Hà Nội, 2012.
7. Mỵ Thị Phương, Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài, Khóa luận tốt nghiệp,
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2012.
8. Các wepsite:
- />- />
MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ.....................................................................................................................................1

Đỗ Xuân Phượng – Nhóm 1 – Lớp N01.TL1

Page 16



Bài tập học kì

Môn: Luật thương mại.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.....................................................................................................................1
I.

Khái quát về thỏa thuận trọng tài........................................................................................1
1. Khái niệm thỏa thuận trọng tài..........................................................................................1
2. Đặc điểm thỏa thuận trọng tài............................................................................................1

II. Những quy định của pháp luật hiện hành về thỏa thuận trọng tài.................................2
III. Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thỏa thuận trọng tài
thương mại......................................................................................................................................3
1. Quy định về khái niệm thỏa thuận trọng tài...................................................................3
2. Quy định về hình thức của thỏa thuận trọng tài............................................................4
3. Quy định về quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của người tiêu
dùng.............................................................................................................................................7
4. Quy định về thỏa thuận trọng tài vô hiệu........................................................................8
a. Tranh chấp không thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài.....................................8
b. Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật................................................................................................................................................9
c. Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định
của Bộ luật dân sự....................................................................................................................10
d. Hình thức của trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 của luật này..........11
e. Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa thuận
trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó vô hiệu........................................12
f.

Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật..................................................12


5. Quy định về mối quan hệ giữa thỏa thuận trọng tài và hợp đồng.............................14
KẾT LUẬN.......................................................................................................................................15

Đỗ Xuân Phượng – Nhóm 1 – Lớp N01.TL1

Page 17



×