Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tạm giữ trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.17 KB, 18 trang )

Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập lớn TTHS

LỜI MỞ ĐẦU
Tạm giữ, là một biện pháp ngăn chặn được sử dụng trong tố tụng hình sự.
Đây được coi là biện pháp ngăn chặn tốt nhất và nghiêm khắc nhất trong số các
biện pháp ngăn chặn khác được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003.
Chúng ta đã thấy nếu việc áp dụng nghiêm chỉnh đúng, chính xác Bộ Luật quy
định về biện pháp tạm giữ, sẽ góp phần lớn rất quan trọng cho việc thực hiện
được chính xác các trình tự tố tụng hình sự. Phát hiện và tìm ra được bằng chứng,
chứng cứ phạm pháp để xử lý kịp thời và công minh đối với kẻ có tội, không làm
oan người vô tội, đồng thời đây cũng là biện pháp ngăn chặn kịp thời hữu hiệu
nhất đối với những người chuẩn bị phạm tội hoặc những người phạm tội thì sẽ
không tiếp tục phạm tội hoặc phạm tội mới.
Xuất phát từ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là nhà nước của dân, do
dân và vì dân, mọi quyền lực thuộc về nhân dân nên quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân luôn được luật pháp trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam 2003 quy
định rõ ràng, để bảo vệ quyền lợi cuả mọi công dân được công bằng. Để bảo vệ
lợi ích của mọi công dân, trong Luật tố tụng hình sự cũng nêu rõ một số biện
pháp cần thiết để hạn chế các quyền và lợi ích của công dân nhằm tạo điều kiện
thúc đẩy thực hiện tốt các nghĩa vụ các quyền cho nhà nước cho cộng đồng.
Luật tố tụng hình sự cũng nêu rõ một số biện pháp ngăn chặn để phục vụ
cho việc điều tra truy tố, xét xử bảo đảm tính trung thực công minh đúng người ,
đúng tội, không gây oan ức cho người vô tội và không bỏ xót kẻ phạm tội. Việc
sử dụng các biện pháp ngăn chặn trong quá trình tố tụng hình sự là điều cần thiết,
trong những biện pháp ngăn chặn đó. Vì vậy, em xin chọn đề tài:“Tạm giữ trong
Luật tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng biện pháp này”.

NỘI DUNG


1. Khái quát về biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong LTTHS

Page 1


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập lớn TTHS

Trong hệ thống những biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự nói chung và
các biện pháp ngăn chặn nói riêng. Tạm giữ là một trong những biện pháp ngăn
chặn quan trọng được quy định tại Điều 86 và Điều 87 chương VI, BLTTHS Việt
Nam 2003. So với các chế định khác, tạm giữ không chỉ là công cụ, phương tiện
để các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng nhằm ngăn chặn tội phạm hoặc các
hành vi gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự;
mà chúng còn là những biện pháp hữu hiệu góp phần bảo đảm việc thực hiện các
quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo đảm cho công dân không bị tạm giữ một
cách tùy tiện, trái pháp luật. Với ý nghĩa và tầm quan trọng của biện pháp tạm
giữ, chúng ta cần có một cách nhìn toàn diện về biện pháp ngăn chặn này.
1.1.

Khái niệm biện pháp tạm giữ

Tạm giữ là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khắc
nhất trong TTHS do CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt
động điều tra để áp dụng nhằm ngăn chặn hành vi tiếp tục phạm tội, bỏ chốn,
thông cung hoặc cản trở điều tra, tạo điều kiện cho cơ quan điều tra có đủ thì giờ
thu thập tài liệu, chứng cứ, bước đầu xác định hành vi phạm tội và lý lịch nhân
thân của người phạm tội. Do đó, Theo quy định tại điều 86 BLTTHS năm 2003:
“Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan và những

người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp,
phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo
lệnh truy nã” . Theo Điều 86 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, tạm giữ là biện
pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan và người có thẩm quyền áp dụng đối
với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú,
đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo lệnh truy nã . Hay nói một cách khác, tạm giữ

là việc cơ quan có thẩm quyền quyết định tước tự do trong thời hạn ngắn đối với
người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc trường hợp phạm tội quả tang,
người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã
nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn người bị bắt trốn việc điều tra, xác minh, và
để quyết định việc khởi tố bị can, tạm giam hoặc trả tự do cho người bị bắt1.
PGS.TS. VÕ KHÁNH VINH, Bình luận khoa học bộ luật tố tụng hình sự, Nhà xuất bản công an nhân
dân, 2004, trang 199-200
1

Page 2


Trường Đại học Luật Hà Nội

1.2.

Bài tập lớn TTHS

Căn cứ áp dụng, và mục đích của biện pháp tạm giữ

Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn thực chất là sự tác động trực tiếp đến
các quyền cơ bản của công dân. Vì vậy, không thể có sự tùy nghi khi quyết định
áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp tạm giữ nói riêng, muốn

áp dụng biện pháp ngăn chặn phải dựa vào pháp luật, lấy pháp luật làm hệ quy
chiếu. Điều 79 BLTTHS 2003 quy định căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn nói
chung và biện pháp tạm giữ nói riêng bao gồm: “ Để kịp thời ngăn chặn tội phạm
hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố,
xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần đảm bảo việc thi hành án, Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người
có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật này có thể áp dụng một trong những biện
pháp ngăn chặn sau đây: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm”.

Mục đích của chế định này nhằm ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi trốn
tránh pháp luật, cản trở hoạt động điều tra cuả người phạm tội, tạo điều kiện cho
CQĐT thu thập chứng cứ tài liệu, bước đầu xác định tính chất hành vi của người
bị tạm giữ. Tạm giữ đối với người bị bắt theo lệnh truy nã để có thời gian cho cơ
quan đã ra quyết định truy nã đến nhận người bị bắt. Người bị tạm giữ là người
đã có quyết định tạm giữ nhưng chưa bị khởi tố và là một trong những người
tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 48 BLTTHS, đồng thời có những quyền
và nghĩa vụ quy định cụ thể tại điều này. Người bị tạm giữ bị tạm giữ để CQĐT
làm sáng tỏ những đặc điểm nhân thân hoặc hành vi của họ bị nghi là tội phạm.
Nếu hết thời hạn tạm giữ mà không có căn cứ để khởi tố bị can, thì người bị tạm
giữ phải được trả tự do.
1.3.

Đối tượng áp dụng

Khoản 1 Điều 86 BLTTHS 2003 quy định “ tạm giữ có thể áp dụng đối với
những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, người
phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã”. Như
vậy, việc tạm giữ có thể áp dụng với những người bị bắt trong trường hợp khẩn
cấp hoặc phạm tội quả tang quy định tại các Điều 81, 82 của BLTTHS và bắt

Page 3


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập lớn TTHS

người đang bị truy nã cũng như đối với phạm tội tự thú hoặc đầu thú. Qua những
quy định trên, ta nhận thấy biện pháp tạm giữ là một biện pháp ngăn chặn độc lập
và không phải là biện pháp ngăn chặn bắt buộc phải áp dụng sau khi bắt người.
Hay nói cách khác, sau khi bị bắt trong các trường hợp nêu trên, người bị bắt có
thể bị tạm giữ hoặc không bị tạm giữ. Tinh thần này đã được quy định tại khoản 1
Điều 83 và khoản 3 Điều 87 BLTTHS 2003. Các trường hợp người bị bắt không
bị tạm giữ:
-

Trong một số trường hợp bắt người phạm tội quả tang, nếu xét thấy sự việc

phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bắt có nơi cư trú rõ ràng và không có
hành động, biểu hiện sẽ cản trở việc điều tra
-

Các cơ quan có thẩm quyền xác định được ngay việc bắt khẩn cấp hoặc bắt quả

tang đối với họ là không có căn cứ.
-

Ngay sau khi bắt người khẩn cấp hoặc bắt người phạm tội quả tang, ngay sau

khi có người ra tự thú, đầu thú các cơ quan có thẩm quyền đã xác định được đầy đủ

căn cứ để có thể khởi tố đối với người bị bắt, người tự thú, đầu thú nên đã ra các quyết
định khởi tố cần thiết và cũng đã xác định được ngay căn cứ để có thể tạm giam đối với
họ nên đã ra lệnh tạm giam với bị can mà không cần tạm giữ.
-

Ngay sau khi bắt khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, ngay sau khi có người ra tự

thú, đầu thú đã xác định đầy đủ căn cứ để khởi tố vụ án và khởi tố bị can nên cơ quan
có thẩm quyền không ra quyết định tạm giữ, rồi sau khi đã ra quyết định khởi tố cần
thiết nhưng xét thấy không cần thiết phải tạm giam bị can nên cơ quan điều có thẩm
quyền để cho bị được tại ngoại mà không cần thiết phải tạm giam bị can.

Ngoài ra, nếu sau khi bắt khẩn cấp hoặc bắt quả tang, cơ quan có thẩm
quyền đã gửi lệnh bắt cho VKS để VKS kiểm sát việc bắt và VKS đã không phê
chuẩn việc đó thì cũng không được đưa ra quyết định tạm giữ đối với người bị
bắt.
Người bị bắt trong những trường hợp khẩn cấp khác thường bị tạm giữ, vì
trong hầu hết các trường hợp khi quyết định bắt khẩn cấp, CQĐT đã xác định cần
phải ngăn chặn việc người đó trốn hoặc cản trở điều tra trong các trường hợp đó
cần thiết phải tạm giữ họ. Đối với người bị bắt theo lệnh truy nã, ngay sau khi lấy
Page 4


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập lớn TTHS

lời khai, CQĐT nhận người bị bắt phải thông báo cho cơ quan đã ra lệnh truy nã
để cơ quan này tiến hành đến nhận người bị bắt. Việc tạm giữ chỉ đặt ra với người
này khi xét thấy cơ quan đã ra lệnh truy nã không thể đến ngay để nhận người bị

bắt2. Về trường hợp này, theo Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCABQP ngày 07/9/2005 về quan hệ phối hợp giữa các cơ quan điều tra và viện kiểm
sát trong việc thực hiện một số quy định của bộ luật tố tụng hình sự 2003 có
những hướng dẫn điều chỉnh như sau: “ Trường hợp xét thấy cơ quan ra quyết định
truy nã không thể đến nhận ngay người bị bắt thì cơ quan điều tra nhận người bị bắt ra
quyết định tạm giữ và gửi ngay quyết định tạm giữ cho Viện kiểm sát cung cấp. Nếu cơ
quan đã ra quyết định truy nã vẫn chưa đến nhận người bị bắt thì chậm nhất trước khi
hết thời hạn tạm giữ 12 giờ, có quan điều tra nhận người bị bắt phải chuyển hồ sơ kèm
theo Công Văn đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp gia hạn tạm giữ đối với người bị bắt.
Thời hạn gia hạn tạm giữ và việc xét phê chuẩn tạm giữ được thực hiện theo quy định
tại khoản 2 Điều 87 của BLTTHS” 3. Tất nhiên trong trường hợp này thì mục đích

của biện pháp tạm giữ là nhằm tạo điều kiện về thời gian để cơ quan nơi đã ra
lệnh truy nã đến nhận lại người bị bắt theo lệnh hoặc theo yêu cầu truy nã của họ.
1.4.

Về thẩm quyền ra quyết định tạm giữ

Theo quy định của pháp luật tại Khoản 2 Điều 86 BLTTHS quy định:
“Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 của
Bộ luật này, Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm
giữ”.Trong khi đó, theo khoản 2 Điều 81 quy định về thẩm quyền ra lệnh bắt
người trong trường hợp khẩn cấp thì có 4 nhóm người sau đây:
a, Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp ( cơ quan điều tra trong
công an nhân dân, cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân, cơ quan điều tra của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao… )
b, Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương ;
người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới.

Giáo trình Luật Tố tụng hình sự, Nhà xuất bản công an nhân dân, Hà Nội, 2006, tr 221
Hướng dẫn 4.2, Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 về quan hệ

phối hợp giữa các cơ quan điều tra và viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của bộ luật tố
tụng hình sự 2003,trang 53-54
2
3

Page 5


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập lớn TTHS

c, Người chỉ huy tàu bay, sân bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay,
bến cảng.
D, Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển

Theo quy định BLTTHS 2003 thì CQĐT cấp huyện trở lên có quyền ra
quyết định tạm giữ. Chính quyền và công an cấp xã, phường, thị trấn không có
quyền ra quyết định tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự. Thực hiện quyết định
này, khi nhận người bị bắt trong từng trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị
truy nã thì UBND phường, xã, thị trấn phải tiến hành lập biên bản phạm tội quả
tang, biên bản bắt người đang bị truy nã và giải quyết ngay tới cơ quan thẩm
quyền. Như vậy, những người có quyền ra quyết định tạm giữ không hoàn toàn là
những người đại diện của các cơ quan tiến hành tố tụng mà bao gồm cả những
người của các cơ quan Nhà nước khác hoặc trong lực lượng vũ trang.
1.5.

Về thời hạn tạm giữ

Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi CQĐT nhận người bị

bắt (khoản 1 Điều 87 BLTTHS). Tuy nhiên, trong trường hợp cần thiết, người ra
quyết định tạm giữ có thể ra hạn tạm giữ nhưng không được quá ba ngày. Trong
trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ
hai nhưng cũng không được quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ phải
được VKS cùng cấp phê chuẩn. Như vậy thời hạn tối đa của một lần tạm giữ là 9
ngày (thời hạn cho phép không quá 3 ngày, gia hạn lần thứ nhất không quá 3
ngày, lần thứ hai cũng không quá 3 ngày).Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn
cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người đã bị tạm giữ. Việc tạm giữ
đối với người chưa thành niên phạm tội không có quy định khác về thời hạn tạm
giữ4.
Theo các quy định nêu trên, thời điểm tính thời hạn tạm giữ không phải
thời điểm bắt người. Mặt khác, để hạn chế việc giữ người trái pháp luật thời điểm
tính thời hạn tạm giữ cũng không được tính kể từ khi ra lệnh tạm giữ mà tính từ
khi CQĐT nhận người bị bắt. Thời điểm CQĐT nhận người bị bắt trong trường
hợp khẩn cấp tính từ khi người bị bắt được và giải tới Trụ sở CQĐT. Trường hợp
4

Theo tinh thần của Điều 87 BLTTHS2003
Page 6


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập lớn TTHS

bắt người phạm tội quả tang hoặc người bị truy nã thì thời điểm tính từ khi công
dân hoặc tổ chức giao người bị bắt CQĐT. Cách tính thời hạn trong TTHS đã quy
định khi tính thời hạn theo ngày, tháng thì thời hạn sẽ hết vào lúc 24 giờ, do vậy
trong cách tính thời hạn tạm giữ, thời điểm ra lệnh tạm giữ chỉ có ý nghĩa để tính
ngày bị tạm giữ chứ không có ý nghĩa tính giờ bị tạm giữ. Việc BLTTHS quy

định hai lần có thể gia hạn tạm giữ nhằm bảo đảm tính có căn cứ và cần thiết của
việc tạm giữ, hạn chế hiện tượng tạm giữ tràn lan, góp phần bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, do vậy đòi hỏi người áp dụng pháp luật
phải nhận thức rõ vấn đề này để bảo đảm áp dụng pháp luật được tốt. Khoản 4
Điều 87 quy định thời hạn tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày
tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam. Quy định này có mục đích nhân đạo,
do vậy cho phép nếu sau đó người bị tạm giữ bị khởi tố bị can và họ tạm giam thì
thời hạn họ đã bị tạm giữ được trừ vào thời hạn tam giam theo tỷ lệ 1:1. Tuy
nhiên sau này, theo quy định tại điều 33 BLHS năm 1999 nếu như người phạm tội
bị Tòa án kết án tù có thời hạn thì pháp luật Việt Nam vẫn cho phép trừ thời hạn
tạm giữ, tạm giam vào thời hạn họ phải chấp hành hình phạt tù.
1.6.

Về thủ tục tạm giữ

Để có thể tiến hành tạm giữ đối với người bị tạm giữ. Bộ luật tố tụng hình
sự 2003 quy định việc tạm giữ phải có lệnh viết của người có thẩm quyền. Lệnh
tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm giữ, thời hạn tạm giữ ngày hết hạn tạm giữ và giao
cho người bị tạm giữ một bản. Nếu việc tạm giữ không có lệnh của người có
thẩm quyền, người bị tạm giữ có quyền yêu cầu trả tự do cho họ. Trong thời hạn
12 giờ, kể từ khi ra lệnh tạm giữ, lệnh tạm giữ phải phải được gửi cho VKS cùng
cấp để kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn. Nếu thấy việc tạm giữ không
đúng pháp luật hoặc không cần thiết phải tạm giữ thì VKS ra quyết định hủy bỏ
lệnh tạm giữ và cơ quan đã ra lệnh tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm
giữ5. VKS ra quyết định hủy bỏ lệnh tạm giữ trong những trường hợp sau đây:

5

Tinh thần khoản 3 Điều 86 BLTTHS 2003
Page 7



Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập lớn TTHS

- Người bị tạm giữ không phải là người bị bắt quả tang trong trường hợp khẩn
cấp, trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã và không phải là người phạm
tội tự thú, đầu thú
- Người bị tạm giữ chỉ có những vi phạm nhỏ, tính chất nguy hiểm cho xã hội
không đáng kể, chưa đến mức phải truy cứu trách nhỉệm hình sự:
- Người bị tạm giữ trong trường hợp phạm tội quả tang nhưng sự việc phạm tội
nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị tạm giữ có nơi cư trú rõ ràng và không có biểu
hiện sẽ trốn hoặc cản trở công việc điều tra.

1.7. Tạm giữ đại biểu quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân
Việc tạm giữ còn có thể áp dụng đối với Đại biểu Quốc Hội và Đại biểu
Hội đồng nhân dân các cấp nhưng phải được sự đồng ý của các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền. Thủ tục tạm giữ những đối tượng đặc biệt này được quy
định tại điều 99 Hiến pháp 1992 và một số đạo luật khác như Luật tổ chức hội
đông nhân dân và ủy ban nhân dân. Việc tạm giữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp phạm tội, ngoài việc đảm bảo thủ tục quy định tại
BLTTHS còn phải chấp hành một số thủ tục đặc biệt sau đây:
-

Nếu vì phạm tội quả tang mà đại biểu Quốc hội bị tạm giữ thì phải lập tức

báo cáo Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét và quyết định.
-


Trong thời gian Hội đồng nhân dân đang họp, nếu không được sự đồng ý của

chủ tọa kỳ họp thì không được bắt giữ Đại biểu hội đồng nhân dân…

2. Thực tiễn thi hành pháp luật về biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong tố
tụng hình sự
2.1.

Nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong quá trình thực tiễn thi
hành pháp luật về tạm giữ

Biện pháp ngăn chặn tạm giữ được quy định trong BLTTHS 2003 đã đạt
được một số kết quả tích cực như: tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công tác tạm
giữ; đồng thời còn góp phần tích cực vào việc đấu tranh, ngăn chặn tội phạm.
Nhiều tội phạm nguy hiểm, đặc biệt nguy hiểm …đã được ngăn chặn trước và
ngay trong khi xảy ra, bảo vệ kịp thời lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
Page 8


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập lớn TTHS

pháp của công dân. Tuy nhiên, trong thực tế thực thi pháp luật vẫn còn nhiều tồn
tại nhiều hiện tượng vi phạm pháp luật trong công tác tạm giữ còn xảy ra ở nhiều
địa phương như tạm giữ tràn lan, tạm giữ quá hạn, và không đảm bảo được chế
độ tạm giữ đối với người bị tạm giữ. Chính điều này đã gây bất bình trong dư
luận xã hội, dẫn đến những bất cập trong tố tụng mà chúng ta cần phải sửa đổi
trong thời gian tới. Chúng ta có thể khẳng định chắc chắn với nhau rằng có rất
nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này trước hết là do yếu tố chủ quan thuộc

về những người thực thi, chấp hành pháp luật trong hoạt động tạm giữ chưa
nghiêm chỉnh và chưa đúng với nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không nắm rõ hết được những quy định
pháp lý về tạm giữ…ngoài ra còn một số nguyên nhân khách quan khác như Việt
Nam so với các nước khác trên thế giới còn là một nước nghèo nàn, đang phát
triển. Cho nên, điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật, chế độ mà nhà nước giành cho
người bị tạm giư chưa đáp ứng được các yêu cầu so với quy định của pháp luật về
tạ giữ. Một nguyên nhân hết sức quan trọng quyết định chủ yếu đến những vướng
mắc và tồn tại trong quá trình áp dụng biện pháp tạm giữ đó là hệ thống pháp luật
của ta chưa hoàn thiện, công tác xây dựng pháp luật của nhà nước chưa đáp ứng
được so với những thay đổi của xã hội hiện nay.
2.2.

Những bất cập còn tồn tại trong việc quy định về biện pháp tạm giữ
trong BLTTHS 2003

Sau khi BLTTHS 2003 mặc dù đã có nhiều điểm mới, sửa đổi, bổ sung rất
nhiều so với BLTTHS 1988, và đã có sự chặt chẽ hơn. Tuy nhiên theo đánh giá
một cách khái quát nhất qua thực tiễn áp dụng các quy định về biện pháp tạm giữ
vẫn còn nhiều bất cập như: một số quy định của BLTT về biện pháp tạm giữ còn
chưa đầy đủ, hoặc một số điều luật còn quy định chưa thật sự rõ ràng, trong khi
đó lại thiếu các văn bản dưới luật như nghị định, thông tư hưỡng dẫn chi tiết, một
số quy định không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay, đã gây không ít khó khăn
cho những hoạt động áp dụng các quy định trên .
2.2.1. Về đối tượng bị áp dụng đối với biện pháp tạm giữ

Page 9


Trường Đại học Luật Hà Nội


Bài tập lớn TTHS

Như chúng ta đã biết, người phạm tội tự thú, đầu thú không phải là người
phạm tội vì bị bắt mà họ tự nguyện trình diện khai báo hành vi phạm tội. Họ
không phải là người bị bắt. Chính vì vậy, việc khoản 1 Điều 86 quy định “Tạm
giữ có thể áp dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc người bị bắt theo
quyết định truy nã”. Vô hình chung đã coi người phạm tội tự thú, đầu thú là
người bị bắt, điều này là không hợp lý.
2.2.2. Về thẩm quyền ra lệnh tạm giữ

Theo khoản 2, Điều 86 BLTTHS 2003 quy định “những người có quyền
ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2, Điều 81 của bộ luật này. Chỉ huy
trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra lệnh tạm giữ”. Việc điều luật quy định bổ
sung thêm thẩm quyền ra lệnh tạm giữ cho Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển .
Điều này xuất phát từ đặc thù công việc và địa bàn hoạt động vì thế lực lượng
cảnh sát biển trong một số trường hợp được giao thẩm quyền điều tra thì Thủ
trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra lệnh tạm giữ. Tuy nhiên, hiện tại pháp luật
chưa có quy định cụ thể về việc Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có thẩm
quyền quyết định tạm giữ trong những trường hợp nào? Với những đối tượng
nào? Chính vì vậy, về lý luận cũng như trong thực tế áp dụng còn vướng mắc, cần
sự quy định rõ ràng.
2.2.3. Về thời hạn tạm giữ

Theo khoản 1 Điều 87 BLTTHS 2003 quy định “ thời hạn tạm giữ không
được quá ba ngày, kể từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt”. Tuy nhiên,
trong thực tế áp dụng thì việc quy định như trên vẫn còn nhiều vướng mắc: Thứ
nhất, theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS thì thời hạn tạm giữ được tính
từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Mà theo quy định tại khoản 1 Điều 86
BLTTHS thì tạm giữ có thể áp dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú. Tuy

nhiên người phạm tội tự thú đầu thú không phải là người bị bắt. Vậy câu hỏi đặt
ra ở đây là : thời hạn tạm giữ đối với họ được tính từ thời điểm nào? Điều này
chưa được pháp luật quy định. Thứ hai, theo quy định tại khoản 1 Điều 87
BLTTHS thì thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày. Vậy câu hỏi đặt ra là từ
“ngày” trong cụm từ “ba ngày” được hiểu như thế nào? Có bao gồm cả ngày và
Page 10


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập lớn TTHS

đêm là 24 giờ hay chỉ là 12 giờ? Điều luật này chưa có quy định rõ, cần có sự quy
định rõ ràng hơn. Thứ ba, thời điểm tạm giữ được tính từ ngày cơ quan điều tra
nhận người bị bắt. Tuy nhiên, trong trường hợp tàu bay thì có thể kịp thời hạn để
giao hạn để giao người bị tạm giữ cho cơ quan điều tra, nhưng trong một số
trường hợp tàu biển thì khó có thể về kịp thời hạn để giao người bị tạm giữ cho
cơ quan điều tra. Vậy trong trường hợp này thời hạn tạm giữ sẽ được tính như thế
nào? Điều này chưa được luật quy định.
2.2.4. Về gia hạn tạm giữ

Khoản 2 Điều 87 BLTTHS giúp cho hoạt động của người điều tra có hiệu
quả hơn. Tuy nhiên luật cần nêu rõ: Trong trường hợp cần thiết đề ra quyết định
tạm giữ là những trường hợp nào? Mức độ cụ thể ra sao? Do luật chưa có quy
định rõ điều này nên trong thực tiễn áp dụng có thể dẫn tới sự áp dụng không
thống nhất quy đinh này trong việc gia hạn tạm giữ và cần phải giải thích rõ điều
luật.
2.2.5. Việc trả tự do cho người bị tạm giữ

Theo khoản 3 Điều 87 BLTTHS 2003 quy định: “ trong khi tạm giữ, nếu

không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do cho người bị tạm giữ”. Việc luật
quy định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ nếu không có đủ căn cứ khởi tố bị
can là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên luật lại không quy định về thẩm quyền trả tự
do và thủ tục trả tự do cho người bị tạm giữ. Do đó đặt ra câu hỏi là: trong trường
hợp trả tự do cho người bị tạm giam thì ai có thẩm quyền trả tự do cho họ? Và
thủ tục trả tự do như thế nào?
2.3.

Thực trạng tình hình áp dụng biện pháp tạm giữ:

Tình hình vi phạm pháp luật trong việc áp dụng các biện pháp tạm giữ
thường biểu hiện trên những bình diện sau đây:
2.3.1. Vi phạm về đối tượng bị tạm giữ

Tình trạng tạm giữ tràn lan, không đúng các quy định của pháp luật còn
xảy ra ở nhiều nơi, trong nhiều năm; số người bị tạm giữ được trả tự do còn khá
cao vì không đủ căn cứ để khởi tố bị can. Thống kê con số người bị tạm giữ và số
Page 11


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập lớn TTHS

người khởi tố còn là con số chênh lệch khá lớn. Một thực trang khác là nhiều
trường hợp sau khi bắt khẩn cấp không thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng
cấp biết mà Cơ quan điều tra ra lệnh tạm giữ ngay, chỉ khi đến gần ngày gia hạn
tạm giữ mới báo cho Viện kiểm sát để xin phê chuẩn. Đây là hiện tượng đáng chú
ý vì nó không những xâm phạm đến quyền tự do dân chủ của công dân, vi phạm
nghiệm trọng luật tố tụng hình sự mà còn thể hiện thái độ thiếu tôn trọng pháp

luật của người và cơ quan tiến hành tố tụng. Ví dụ: việc bắt người tuỳ tiện, bắt
oan người không có tội, tạm giữ, tạm giam người không có Lệnh đã làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân. Có trường hợp cơ quan cấp dưới giữ người nhưng không báo cáo cơ quan có
thẩm quyền, xử lý vụ việc tùy tiện. Trường hợp của hai chị em cô Hắc Thị Bạch
Tuyết và cô Hắc Thị Bạch Thủy tại tỉnh Bình Thuận mà báo chí đã phản ánh là
một trong những ví dụ vi phạm pháp luật không đáng xảy ra nếu người thi hành
công vụ có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng. Thật khó tin khi chỉ mới nghi ngờ
cô Hắc Thị Bạch Tuyết và em gái là Hắc Thị Bạch Thủy tráo vàng giả mà chủ
tiệm vàng Mỹ Kim đã dẫn giải hai cô tới công an thị trấn Chợ Lầu; và tại đây,
được công an thị trấn cho phép, chủ tiệm vàng đã tự tiện “giữ” chị em cô Tuyết
từ 16 giờ ngày 21/1 đến 2 giờ ngày 22/1/2006, thậm chí còn cởi hết quần áo của
các cô để khám xét 6.
2.3.2. Những vi phạm về thời hạn tạm giữ

mấy năm gần đây, tình trạng tạm giữ quá hạn đã dần được khắc phục. Tuy nhiên
vẫn còn xảy ra khá nhiều trường hợp tạm giữ quá thời hạn luật định. Ở một số địa
phương, trong những trường hợp không khởi tố bị can được, cơ quan điều tra
không ra quyết định trả tự do cho người bị tạm giữ mà lại ra quyết định thay đổi
biện pháp ngăn chặn như đối với bị can, bị cáo. Đây cũng là một hiện tượng vi
phạm nghiêm trọng Điều 87 BLTTHS 2003. Ví dụ: Theo số liệu trại tạm giam
Chí Hòa cung cấp trong buổi giám sát của Ban pháp chế HĐND TP.HCM sáng
19-6-2009 7 - Tại trại tạm giam Chí Hòa hiện đang tạm giữ 15 người, nhưng có
66

Theo http//www2.thanhnien.com.vn/phapluat/2006/3/15/142136.tno
/>7

Page 12



Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập lớn TTHS

tới 7 trường hợp đã hết hạn tạm giữ (chiếm 46,6% - các trường hợp này đều do
Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an TP.HCM thụ lý).
2.3.3. Những vi phạm về chế độ tạm giữ

Mặc dù những điều kiện vật chất còn khó khăn nhưng công tác tạm giữ vẫn
bảo đảm được việc tạm giữ riêng đối với từng loại ngươi phạm tội khác nhau
( người chưa thành niên, người có bệnh truyền nhiệm, phụ nữ, người phạm tội
nghiêm trọng…) và đảm bảo thức ăn theo định mức hàng tháng cho những bị tạm
giữ…Tuy nhiên công tác chấp hành chế độ tạm giữ còn nhiều vấn đề tồn tại cần
sớm khắc phục như: việc phân loại người bị tạm giữ thường khó thực hiện do
việc tạm giữ tràn lan; tình trạng lẫn lộn giữ người bị tạm giữ tố tụng với người bị
tạm giữ hành chính; diện tích chỗ nằm tối thiểu cho người bị tạm giữ chưa được
đảm bảo8…
Như vậy, do nhận thức không đầy đủ về tính chất, vai trò và tầm quan
trọng của hoạt động tạm giữ cũng như các quy định của pháp luật về trình tự, thủ
tục giải quyết vụ án làm cho việc vận dụng thiếu chính xác dễ dẫn đến những
hoạt động tuỳ tiện, trái pháp luật xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân.
3. Phương hướng khắc phục những hạn chế và tồn tại của biện pháp tạm
giữ trên phương diện pháp lý và thực tiễn
Từ những phân tích trên, để bảo đảm thực hiện đúng đắn và đầy đủ quy
định biện pháp ngăn chặn tạm giữ cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, chúng ta cần giải quyết theo phương hướng như sau:
Thứ nhất, hoàn thiện một số quy định của Luật Tố tụng Hình sự, Luật cần
quy định chặt chẽ hơn nữa về một số vấn đề như đề cao trách nhiệm cá nhân của

người ra lệnh bắt, người thi hành lệnh bắt để bắt đúng người phạm tội trnh oan

8

Nguyễn Tiến Đạt, bảo đảm quyền con người trong việc bắt giữ, tạm giữ, tạm giam, Đại học
ANND tp. Hồ Chí Minh.

Page 13


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập lớn TTHS

sai, bên cạnh đó cũng cần tôn trọng và bảo đảm những quyền và lợi ích chính
đáng của người bị bắt. Luật Tố tụng Hình sự năm 2003 cũng cần quy định rõ hơn.
Thứ hai, tổ chức thường xuyên các lớp tập huấn ngắn ngày về từng chuyên
đề tố tụng, chú trong hơn nữa tới công tác tạm giữ nhằm nâng cao trình độ nhận
thức về nghiệp vụ, về pháp luật cho những người có trách nhiệm và quyền hạn
trong việc ra lệnh bắt, tạm giữ. Thực hiện tốt chế độ báo cáo đối với cơ quan có
thẩm quyền và trước nhân dân thông qua cơ quan đại diện của họ tại địa phương
(ở mức độ cho phép nếu không làm ảnh hưởng tới việc giải quyết vụ án); đảm
bảo cơ chế kiểm tra, giám sát của cơ quan có thẩm quyền và của nhân dân.
Thứ ba, đối với Viện kiểm sát chỉ phê chuẩn lệnh bắt khi đã xác định rõ
căn cứ chứng tỏ bị can bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động tố tụng. Viện kiểm
sát phải phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra, nghiên cứu kỹ tài liệu vụ án, gặp
trực tiếp hỏi kỹ càng điều tra viên, những người có liên quan đến vụ án, và cả
người bị bắt về các tình tiết của vụ án để quyết định phê chuẩn hay không phê
chuẩn lệnh bắt. Trong trường hợp bắt người không có căn cứ thì Viện kiểm sát
kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt. Mỗi kiểm sát viên cần phải luôn đề cao

trách nhiệm, ý thức pháp luật, ý thức chính trị trong quá trình thực thi công vụ
của mình. Ngành Kiểm sát cần sớm hướng dẫn cụ thể và có biện phá tích cực
nhằm khắc phục dần tình trạng tạm giữ tràn lan, không đúng đối tượng. Duy trì
việc kiểm tra thường xuyên, tăng cường kiểm tra đột xuất theo ngành dọc; tăng
cường hơn nữa chất lượng công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm
giữ nhằm phát hiện kịp thời những vi phạm để sớm đề ra biện pháp khắc phục.
Thứ tư, đối với cơ quan công an nói chung và các điều tra viên nói riêng,
cần phải thường xuyên học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, ý thức
chính trị, đề cao ý thức tổ chức kỷ luật. nắm chắc các quy định của pháp luật về
bắt, tạm giữ, tạm giam; hiểu rõ tính chất, mục đích của các biện pháp tạm giữ tạm
giam; đảm bảo khi thực hiện bắt người phải có lệnh và có sự phê chuẩn của Viện
kiểm sát, hạn chế tình trạng “tiền trảm hậu tấu” khi bắt người; tôn trọng và bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm
giam; phối hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia quá trình bắt, tạm
Page 14


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập lớn TTHS

giữ, tạm giam khi giải quyết vụ án. Ta phải kiệm toàn hệ thống bảo vệ, tăng
cường chế độ quản lý giám sát người bị tạm giữ; đầu tư thích đáng nhà tạm giữ
các cấp.
Thứ năm, có hình thức tuyên dương, khen thưởng kịp thời đối với những
cá nhân có thành tích trong công việc đồng thời cũng xử lý thích đáng những cán
bộ làm công tác tạm giữ vi phạm pháp luật.

KẾT LUẬN
Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn nhằm hạn chế một số quyền của công dân,

quyền con người của người bị bắt. Mục đích của biện pháp này là để đảm bảo cho
các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong
công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, đảm bảo trật tự pháp luật và
pháp chế. Khi áp dụng biện pháp ngăn chặn này rất dễ tạo ra những ảnh hưởng
tiêu cực đến nhóm quyền lợi: quyền tự do, quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
quyền được thông tin… của người bị bắt. Nắm vững nội dung, thẩm quyền, thủ
tục tạm giữ sẽ bảo đảm cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng áp dụng đúng pháp luật, tránh vi phạm các quy định pháp luật về bảo đảm
quyền con người, quyền công dân khi thực thi công vụ.
Điều này được thể hiện thông qua việc các quy định về biện pháp tạm giữ
ngày càng được quy định cụ thể hơn, chi tiết hơn và dễ áp dụng hơn. Nhiều nghị
định, thông tư cũng đã được các cơ quan chức năng ban hành có chứa những quy
định hướng dẫn chi tiết về việc áp dụng các quy định về biện pháp tạm giam.
Chính những quy định này đã tạo ra cơ sở áp dụng biện pháp tạm giam trên thực
tế.

Page 15


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập lớn TTHS

LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................1
NỘI DUNG..................................................................................................................... 1
1.

Khái quát về biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong LTTHS..................................1
1.1. Khái niệm biện pháp tạm giữ............................................................................2
1.2. Căn cứ áp dụng, và mục đích của biện pháp tạm giữ......................................3

1.3. Đối tượng áp dụng............................................................................................4
1.4. Về thẩm quyền ra quyết định tạm giữ...............................................................5
1.5. Về thời hạn tạm giữ...........................................................................................6
1.6. Về thủ tục tạm giữ.............................................................................................7
1.7. Tạm giữ đại biểu quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân...................................8

2.

Thực tiễn thi hành pháp luật về biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong tố tụng

hình sự............................................................................................................................ 8
2.1. Nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong quá trình thực tiễn thi hành
pháp luật về tạm giữ....................................................................................................9
2.2. Những bất cập còn tồn tại trong việc quy định về biện pháp tạm giữ trong
BLTTHS 2003..............................................................................................................
………………………………………………………………………………………...9
2.2.1. Về đối tượng bị áp dụng đối với biện pháp tạm giữ..............................10
2.2.2. Về thẩm quyền ra lệnh tạm giữ..............................................................10
2.2.3. Về thời hạn tạm giữ.................................................................................10
2.2.4. Về gia hạn tạm giữ...................................................................................11
2.2.5. Việc trả tự do cho người bị tạm giữ........................................................11
2.3. Thực trạng tình hình áp dụng biện pháp tạm giữ:.........................................11
2.3.1. Vi phạm về đối tượng bị tạm giữ............................................................12
2.3.2. Những vi phạm về thời hạn tạm giữ.......................................................12
2.3.3. Những vi phạm về chế độ tạm giữ..........................................................13
3.

Phương hướng khắc phục những hạn chế và tồn tại của biện pháp tạm giữ

trên phương diện pháp lý và thực tiễn.......................................................................13

KẾT LUẬN..................................................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

*


Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập lớn TTHS

1.
2.

Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam 2003.
Luật Hình sự Việt Nam 1999.

3.

Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 về
quan hệ phối hợp giữa các cơ quan điều tra và viện kiểm sát trong việc thực
hiện một số quy định của bộ luật tố tụng hình sự 2003,trang 53-54

4.

Nghị định của Chính phủ số 19/2009/NĐ-CP ngày 19/ 02/ 2009 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Quy chế tạm giữ người theo thủ tục hành chính ban
hành kèm theo Nghị định số 162/2004/NĐ-CP ngày 07/ 9/ 2004 của Chính
phủ

5.


Giáo trình Luật Tố tụng hình sự, Nhà xuất bản công an nhân dân, Hà Nội,
2006, trang 197 - 204

6.

PGS.TS. VÕ KHÁNH VINH, Bình luận khoa học bộ luật tố tụng hình sự,
Nhà xuất bản công an nhân dân, 2004, trang 199-200.

7.

Nguyễn Văn Điệp, Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam,
Luận án thạc sĩ khoa học Luật học, Hà Nội, 1996.

8.

Mai Bộ, tạm giữ- một số biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật tố tụng hình sự
Việt Nam, tạp chí Luật học số 5, 1995.

9.

Phạm Thanh Bình, Luận án thạc sĩ Luật học: tạm giữ, tạm giam trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Hà Nội,
1996,tr30-31.

10.

Nguyễn Tiến Đạt, bảo đảm quyền con người trong việc bắt giữ, tạm giữ, tạm
giam, Đại học ANND tp. Hồ Chí Minh.


11.

Bàn về quyết định trả tự do cho những người bị tạm giữ và người đang chấp
hành hình phạt tù không có căn cứ và trái pháp luật theo khoản 1 điều 28 luật
tổ chức VKSND năm 2002/TC kiểm sát số7/2006

Một số trang web làm tư liệu cho bài tập:
 />option=com_content&view=article&id=375:2&catid=23&Itemid=46
 />

Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài tập lớn TTHS

 />thsvietnam/
 http//www2.thanhnien.com.vn/phapluat/2006/3/15/142136.tn o
 />
MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT

TTHS: Tố Tụng Hình Sự
BLHS: Bộ Luật Hình Sự
BLTTHS: Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự
VKS: Viện Kiển Sát
CQĐT: Cơ quan điều tra
TAND: Tòa án nhân dân



×