Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước (8điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.48 KB, 8 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Pháp chế là một phạm trù rộng lớn không chỉ chứa đựng nội dung
pháp luật mà còn chứa đựng những nội dung chính trị, xã hội – con người.
Vì vậy, việc bảo đảm cho pháp chế được củng cố, tăng cường và hoàn thiện
là yêu cầu khách quan của quá trình xây dựng nhà nước của dân, do dân và
vì dân và cũng là yêu cầu của quá trình hoàn thiện con người và các quyền
của họ trong xã hội, đặc biệt trong quá trình quản lý hành chính nhà nước.
Có nhiều biện pháp pháp lý bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà
nước như hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước, hoạt động
kiểm tra của cơ quan hành chính nhà nước, hoạt động xét xử của tòa án nhân
dân, hoạt động thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân… Song bài viết tập
trung nghiên cứu “ Vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà
nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước”.

NỘI DUNG
I. Khài niệm chung
-

Bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước là bằng

những cơ chế và hoạt động pháp lý làm cho pháp luật được thực hiện có hiệu
quả trong thực tế và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước phải thực sự
phải thực sự vì dân, khơi dậy trí tuệ và tinh thần, ý chí tự lực tự cường của
nhân dân, đem lại những tiện ích và thủ tục thực sự dễ hiểu, dễ làm và việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân theo một trật tự nhất định.
-

Giám sát là theo dõi, xem xét, kiểm tra và nhận định về một việc

làm nào đó đúng hay sai đối với điều đã quy định. Giám sát luôn gắn với
một chủ thể nhất định và gắn với đối tượng cụ thể ( giám sát ai, giám sát cái


gì). Giám sát thể hiện mối quan hệ với chủ thể tiến hành hoạt động giám sát
1


và đối tượng chịu sự giám sát. Giám sát được tiến hành trên cơ sở các quy
dịnh cụ thể. Chính vì vậy, giám sát là hoạt động có mục đích của một hay
nhiều của thể nhất định, là nội dung của hoạt động quản lý nhà nước và cũng
là một hình thức kiềm chế, đối trọng trong việc thực thi quyền lực nhà nước
hiện nay.


Khái niệm giám sát dùng để chỉ quyền của nhân dân lao động thông

qua hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước, theo điều 2 – Luật hoạt
động giám sát của Quốc hội quy định: “ Giám sát là việc của Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội và đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá,
hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban
thường vụ Quốc hội”.
II. Hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước
1. Hoạt động giám sát của Quốc hội
Hoạt động giám sát của Quốc hội vừa là chức năng, vừa là nhiệm vụ
và quyền hạn của Quốc hội. Quyền đó đã được khẳng định tại khoản 2 –
Điều 84 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và khoản 2 Điều 2
Luật tổ chức Quốc hội 2001: “ Quốc hội …thực hiện quyền giám sát tối cao
đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”.
- Hoạt động giám sát của Quốc hội được thực hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau, có thể định kỳ tại các kì họp của Quốc hội nhưng cũng có
thể được thực hiện thường xuyên thông qua Ủy ban thường vụ Quốc hội, các
Ủy ban của Quốc hội, các Hội đồng của Quốc hội cũng như đại biểu Quốc

hội. Chủ thể thực hiện quyền giám sát của Quốc hội theo quy định của pháp
luật hiện hành bao gồm: Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng
dân tộc, các ủy ban của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Theo đó, đối tượng
giám sát tối cao chỉ có thể là các cơ quan và cá nhân do Quốc hội thành lập,
2


bầu hoặc phế chuẩn như Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính
phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao…những người
đứng đầu của cơ quan này và các thành viên của chính phủ. Tùy từng chủ
thể thực hiện quyền giám sát của Quốc hội mà có đối tượng, hình thức, nội
dung giám sát cụ thể ( Điều 4 – Luật hoạt động giám sát của Quốc hội)
- Hoạt động giám sát của Quốc hội đối với các cơ quan quan lí hành
chính nhà nước được thực hiện thông qua nhiều hình thức khác nhau như:
nghe, xem xét và đánh giá công khai các báo cáo của Chủ tịch nước, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, Chính phủ và các Bộ về hoạt động của mình, thông qua
việc chất vấn của đại biểu Quốc hội đối với Thủ tướng Chính phủ, các bộ
trưởng, các thành viên của Chính phủ; nghe Chánh án tòa án nhân dân tối
cao, Viên trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao báo cáo đồng thời cũng chất
vấn đối với Chánh án tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao về các vấn đề liên quan.1
- Hoạt động giám sát của Quốc hội còn được thực hiện thông qua hoạt
động của các tổ đại biểu và các đại biểu Quốc hội ở các địa phương và cơ sở,
đặc biệt thông qua việc tiếp xúc cử tri, nghe đề nghị cũng như những yêu
cầu và khiếu nại của cử tri về việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan quan lí
hành chính nhà nước và các cán bộ có thẩm quyền ở những cơ quan ấy.
- Thông qua việc thực hiện quyền giám sát, Quốc hội xây dựng những
biện pháp và giải pháp hữu hiệu để giải quyết những vấn đề được phát hiện
từ việc thực hiện quyền giám sát của mình.
Ví dụ: việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do

Quốc hội bầu và phê chuẩn (khoản 7 Điều 84 Hiến pháp 1992).
2. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân

1

Điều 7 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội ngày 17-6-2003

3


Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương thực hiện quyền giám sát đối với ủy ban nhân dân, các cơ quan
chuyên môn của Ủy ban nhân dân cũng như các đơn vị trực thuộc. Hoạt
động giám sát của hội đồng nhân dân địa phương là chức năng chủ yếu của
cơ quan quyền lực ở địa phương được thực hiện trước hết ở các kì họp của
hội đồng nhân dân.
- Hoạt động giám sát của HĐND là phương thức chủ yếu của cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương hoạt động này trước hết thông qua các kì
họp của HĐND, ở các kì họp này HĐND nghe báo cáo của UBDN và các cơ
quan chuyên môn, các đơn vị trực thuộc UBDN, thông qua đó có những chỉ
đạo kịp thời về các vấn đề cần giải quyết.
- Tuy nhiên hoạt động giám sát đối với các cơ quan quản lí hành chính
ở của HĐND không chỉ bó hẹp ở những phiên họp mà con thông qua các
hoạt động của Thường trực HĐND, các đại biểu HĐND.
- HĐND giám sát việc các cơ quan quản lí hành chính ở địa phương
chấp hành Hiến pháp và pháp luật cũng như các nghị quyết của HĐND.
- Bên cạnh đó một hoạt động không thể thiếu góp phần cho hoạt động
giám sát của HĐND đó là giải quyết các khiếu nại tố cáo của công dân (cử
chi) có giải quyết tốt công tác này thi HĐND mới đi sâu, đi sát với quần
chúng nhân dân hiểu mong muốn của dân, để có những điều chỉnh kịp thời

đối với hoạt động chỉ đạo của HĐND.
III. Vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với
việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước.
Thứ nhất, cơ quan quyền lực nhà nước giám sát hoạt động của cơ quan
hành chính nhà nước cùng cấp. Thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội và
Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện quyền lực nhà nước một cách thường
xuyên và trực tiếp chỉ đạo cũng như kiểm tra mọi mặt công tác của các cơ
4


quan hành chính nhà nước cùng cấp. Cũng thông qua hoạt động giám sát,
những cơ quan quyền lực nhà nước có thể phát hiện những yếu kém, những
khuyết điểm trong công tác tổ chức và hoạt động cũng như khó khăn, vướng
mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ mà pháp luật quy định đối với các
cơ quan hành chính nhà nước. Trên cơ sở đó cơ quan quyền lực nhà nước
kịp thời đề ra những thời gian cụ thể và biện pháp thích hợp khắc phục
những khó khăn và tồn tại ấy.
Thứ hai, thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội và Hội đồng nhân
dân các cấp có dịp kiểm nghiệm tính hợp lý và hợp pháp của các văn bản
pháp luật do chính mình ban hành. Nếu phát hiện thấy khuyết điểm về hình
thức hay nội dung thì các cơ quan quyền lực nhà nước nói trên phải đưa ra
những biện pháp, giải pháp khắc phục. Thông qua đó, những cơ quan này
đưa ra những yêu cầu và những biện pháp cải tiến chế độ, quy trình lập
pháp, lập quy nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước. Với thực tiễn là qua hoạt
động giám sát của mình, Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung một số điều trong
hiến pháp 1992 vào năm 2001 như : Điều 30, 35, 36,37… cho phù hợp với
nền giáo dục hiện nay.
Thứ ba, thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội và Hội đồng nhân
dân các cấp phát hiện ra những vi phạm pháp luật xâm phạm tới trật tư và
lợi ích của nhà nước, xã hội và công dân của cán bộ nhà nước, từ đó mà kịp

thời xử lý hoặc yêu cầu các cấp, các ngành xử lý nghiêm minh những vi
phạm đó để củng cố pháp chế.
Thứ tư, hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân còn
góp phần hoàn thiện đường lối, thể chế của Đảng, nâng cao vị thế của Đảng
trong hệ thống chính trị. Hoạt động giám sát trên thực tế giúp phát hiện
những Đảng viên thoái hóa, biến chất, không đủ tư cách để giáo dục dân

5


chúng; từ đó xử lý nghiêm minh những cá nhân này làm dân tin tưởng vào
Đảng và Nhà nước.
Tóm lại, vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước
đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính là cực kì quan trọng
nó tác động trực tiếp đến năng lực hoạt động của các cơ quan này sao cho
luôn nằm trong khuôn khổ của pháp luật. Khi các hình thức giám sát đạt
hiệu quả tốt nó góp phần vào thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu của công cuộc
đổi mới, tăng cường hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, phát huy dân
chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
IV. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của cơ quan
quyền lực nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lí hành
chính nhà nước.
Việc tăng cường hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước
là một biện pháp đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước, tức là
đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, mọi người đều bình
đẳng trước pháp luật. Vì vậy, đối với cơ quan quyền lực nhà nước phải có
biện pháp hoạt động thích hợp, có hiệu quả để nhanh chóng phát hiện, làm
sáng tỏ các vụ việc tiêu cực, vi phạm pháp luật và áp dụng các biện pháp xử lí
nghiêm minh, chính xác, đúng quy định của pháp luật, có như vậy thì hoạt
động quản lí hành chính nhà nước mới phát huy được hiệu quả của nó là một

biện pháp đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước, là cơ sở đảm
bảo cho hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước được nhịp nhàng, đồng
bộ, phát huy hiệu lực của nhà nước và đảm bảo công bằng xã hội:
- Phải hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát của cơ quan quyền
lực nhà nước trong quản lí hành chính nhà nước, tạo cơ sở đầy đủ để cơ quan

6


quyền lực nhà nước hoàn thành tốt hoạt động giám sát của mình trong quản lí
nhà nước nói chung và quản lí hành chính nhà nước nói riêng.
- Cơ quan quyền lực nhà nước phải tăng cường hoạt động giám sát
trong quản lí hành chính nhà nước hơn nữa phải làm cho pháp luật được thực
hiện có hiệu quả trong thực tế cuộc sống muốn vậy hoạt động giám giám sát
của cơ quan quyền lực nhà nước trong quản lí hành chính nhà nước phải phù
hợp với mục đích nội dung và yêu cầu của quy phạm pháp luật, phải nằm
trong khuôn khổ và phạm vi thẩm quyền cũng như chức năng mà pháp luật đã
quy định và hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước phải thực sự
vì dân, khơi dậy trí tuệ và tinh thần, ý trí tự lực, tự cường của nhân dân, đem
lại những tiện ích và thủ tục thực sự dễ hiểu, dễ làm và việc thực hiện quyền
và nghĩa vụ của công dân theo một trật tự nhất định…không ngừng tạo điều
kiện thuận lợi cả về vật chất và cơ chế để người lao động không phân biệt địa
vị xã hội, có thể thực hiện tốt các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đặc biệt
là các quyền tự do mà hiến pháp và pháp luật đã quy định.

KẾT LUẬN
Quản lí hành chính có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự ổn định của
một quốc gia vì vậy việc tổ chức, giám sát họa động của các cơ quan quản lí
hành chính là điều tất yếu. nó dòi hỏi phải có một cơ chế rõ ràng và đồng bộ
để hoạt động của các cơ quan nay ngày càng đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó

cũng đòi hỏi tính chấp hành pháp luật của các cơ quan nay trong hoạt động
của mình, tránh tình trạng vi phạm pháp chế tropng hoạt động. để đạt điều
đó đòi hỏi việc thanh tra giám sát của các cơ quan có chức năng thương
xuyên hơn, chặt chẽ hơn, phấn đấu mục tiêu xây dụng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa.
7


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật hành chính Việt Nam – Trường đại học luật Hà Nội –
2012 – Nhà XB Công an nhân dân.
2. Luật hiến pháp Việt Nam – NXB lao động – xã hội
3. Luật tổ chức Quốc hội năm 2001
4. Luật về hoạt động giám sát của quốc hội 2003
5. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003
6. Vũ Lan Phương – Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, Một số gải
pháp nhằm đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước, Bộ tư
pháp trường Đại học luật Hà Nội, Hà Nội 2010
7. Nguyễn Thị Ngọc - Hoạt động giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hộithực trạng và giải quyết, Bộ tư pháp trường Đại học luật Hà Nội, Hà Nội
2011
8. Mai Thị Mai – Vai trò của hội đồng dân tộc và các Ủy ban thường trực
của Quốc hội đối với việc thực hiện chức năng giám sát của Quốc hội
trong giai đoạn hiện nay, Bộ tư pháp trường Đại học luật Hà Nội, Hà Nội
2010
9. />
8




×