Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

bài tập lớn hành chính phân tích vai trò của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc xây dựng và thực hiện quy phạm pháp luật hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.62 KB, 13 trang )

BÀI TẬP HỌC KÌ – MÔN LUẬT HÀNH CHÍNH
ĐỀ BÀI:
ĐỀ SỐ 6: Phân tích vai trò của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc
xây dựng và thực hiện quy phạm pháp luật hành chính.

1


Mục lục
Trang:
A. Mở bài……………………………………………………………………….....3
B. Nội dung……………………………………………………………………..…3
I. Cơ sở lý luận……………………………………………………………….……3
1, Khái niệm và đặc điểm cơ quan hành chính nhà nước……………………...….3
2, Khái niệm và đặc điểm của quy phạm pháp luật hành chính…………….…..4
3, Hệ thống các cơ quan hành chính của nhà nước của Việt Nam theo pháp luật
hiện hành………………………………………………………………………...…4
II. Phân tích vai trò của cơ quan hành chính nhà nước………………………...…5
1, Trong việc xây dựng quy phạm pháp luật hành chính………………………...5
2, Trong việc thực thi quy phạm pháp luật hành chính……………………………8
3, Đánh giá về vai trò của cơ quan hành chính nhà nước trong việc xây dựng và
thực hiện quy phạm pháp luật hành chính hiện nay………………………………11
C. Kết luận………………………………………………………………….……12

2


A. Mở bài
Cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận hợp thành của bộ máy nhà
nước, có vai trò vô cùng to lớn trong việc quản lí hành chính Nhà nước, được thành
lập để thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nước. Nhờ có hệ thống các cơ


quan hành chính nhà nước này mà các hoạt động quản lý hành chính nhà nước đang
được thực hiện, diễn ra hàng giờ, hàng ngày trên toàn đất nước. Em xin chọn đề bài
“Phân tích vai trò của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc xây dựng và thực
hiện quy phạm pháp luật hành chính” làm chủ đề bài tập học kì của mình.
B. Nội dung
I. Cơ sở lý luận
1, Khái niệm và đặc điểm cơ quan hành chính nhà nước
 Cơ quan hành chính nhà nước là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, trực thuộc
trực tiếp hoặc gián tiếp cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp, có phương tiện hoạt
động chủ yếu là hoạt động chấp hành – điều hành, có cơ cấu tổ chức và phạm vi
thẩm quyền do pháp luật quy định.
 Đặc điểm cơ quan hành chính:
+ Cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan có chức năng quản lí hành chính nhà
nước. Nhân danh nhà nước tham gia vào quan hệ pháp luật.
+ Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước được thành lập từ trung ương đến cơ
sở, đứng đầu là Chính phủ, tạo thành một chính thể thống nhất, được tổ chức theo hệ
thống thứ bậc.
+Thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước được pháp luật quy định trên cơ
sở lãnh thổ, ngành hoặc lĩnh vực chuyên môn mang tính tổng hợp.

3


+ Các cơ quan hành chính nhà nước đều trực tiếp hay gián tiếp trực thuộc cơ quan
hành chính nhà nước cung cấp, chịu sự giám sát và báo cáo công tác trước cơ quan
quyền lực nhà nước.
+ Các cơ quan hành chính nhà nước có hệ thống đơn vị cơ sở trực thuộc. Các đơn vị
cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất và tinh
thần cho xã hội. Hầu hết các cơ quan có chức năng quản lí hành chính đều có các
đơn vị cơ sở trực thuộc.

2, Khái niệm và đặc điểm của quy phạm pháp luật hành chính
 Quy phạm pháp luật hành chính là một dạng cụ thể của quy phạm pháp luật, được
ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lí hành
chính theo phương pháp mệnh lệnh – đơn phương.
 Đặc điểm của quy phạm pháp luật hành chính:
+ Các quy phạm pháp luật hành chính chủ yếu do các cơ quan hành chính nhà nước
ban hành.
+ Các quy phạm pháp luật hành chính có số lượng lớn và có hiệu lực pháp lí khác
nhau.
+ Các quy phạm pháp luật hành chính hợp thành một hệ thống trên cơ sở các nguyên
tắc pháp lí nhất định.
3, Hệ thống các cơ quan hành chính của nhà nước của Việt Nam theo pháp luật hiện
hành
Bao gồm: Chính phủ, và ủy ban nhân dân các cấp
- Chính phủ: Theo quy định tại Điều 2 Luật tổ chức Chính phủ năm 2001 thì cơ cấu
tổ chức của Chính phủ bao gồm: các bộ và cơ quan ngang bộ. Theo quy định hiện
4


hành thì có 18 bộ và 4 cơ quan ngang bộ. Theo quy định tại Điều 3 thì Chính phủ
gồm có: Thủ tướng chính phủ, bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ (hiện nay
có 5 phó thủ tướng)
- Ủy ban nhân dân các cấp: có 3 cấp
+ UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (hiện nay có 58 tỉnh, 5 thành phố
trực thuộc trung ương – cấp tỉnh).
+ UBND huyện, thành phố thuộc tỉnh, quận và thị xã (hiện nay có 48 thành phố
thuộc tỉnh, 47 quận, 46 thị xã và 556 huyện – cấp huyện).
+ UBND xã, phường, thị trấn (hiện nay có 1366 phường, 625 thị trấn, 9121 xã – cấp
xã).
II. Phân tích vai trò của cơ quan hành chính nhà nước

1, Trong việc xây dựng quy phạm pháp luật hành chính
Xây dựng các quy phạm pháp luật hành chính đó chính là hoạt động làm nền, tạo
nên hay làm hoàn chỉnh hơn các quy phạm pháp luật hành chính, các văn bản quy
phạm pháp luật hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước.
Thứ nhất: Các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền sẽ có vai trò chỉ đạo,
xây dựng các dự án luật, dự án pháp lệnh trước Quốc hội và Ủy ban thường vụ
Quốc hội. Chúng ta thấy rằng đóng vai trò trong việc xây dựng các văn bản quy
phạm pháp luật và pháp lệnh thì pháp luật quy định. (Căn cứ vào điều 18 luật tổ
chức chính phủ năm 2001) Chính phủ trình các dự án luật trước Quốc hội, dự án
pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội. Căn cứ theo quy định tại khản b Điểm
1 điều 20 luật tổ chức chính phủ thì Thủ tướng chính phủ có vai trò chỉ đạo việc xây
dựng các dự án luật trình Quốc hội, các dự án pháp lệnh trình Ủy ban thường vụ
5


Quốc hội, và theo quy định tại khoản 2 điều 23 Luật tổ chức chính phủ thì bộ
trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ có vai trò chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh và
các dự án khác theo sự phân công của Chính phủ. Và dựa trên các quy định trên về
thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc xây dựng luật và pháp
lệnh, thì tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 là một căn cứ
pháp lí quy định chi tiết và cụ thể các vai trò trên của cơ quan hành chính nhà nước.
Tại khoản 2 điều 30 luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định
“trường hợp dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do Chính phủ trình thì Chính
phủ giao cho một bộ hoặc cơ quan ngang bộ chủ trì soạn thảo có trách nhiệm thành
lập ban soạn thảo”. Chúng ta thấy rằng các bước thực hiện quá trình xây dựng mọi
văn bản quy phạm pháp luật thì luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật là một là
một căn cứ pháp lí căn bản. Chúng ta thấy rằng việc tham gia xây dựng luật và pháp
lệnh của chính phủ thể hiện vai trò của các cơ quan hành chính nhà nước thể hiện sự
đóng góp của các cơ quan hành chính nhà nước, để khi ra đời thì các văn bản quy
phạm pháp luật này thật sự được chính các cơ quan này áp dụng một cách có hiệu

quả và khoa học.
Thứ hai: Các cơ quan hành chính có thẩm quyền sẽ có vai trò ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền để thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết, pháp
lệnh của các cơ quan nhà nước, quyết định của chủ tịch nước và các văn bản quy
phạm pháp luật của cơ quan nhà nước hành chính cấp trên và thực hiện chức năng
nhiệm vụ của mình. Trên thực tế thì các văn bản quy phạm pháp luật hành chính có
số lượng lớn là chính từ việc các cơ quan hành chính nhà nước trong lúc thực hiện
nhiệm vụ, chức năng của mình đã ban hành để cụ thể hóa các văn bản quy phạm
pháp luật của cơ quan quyền lực nhà nước, các quyết định của Chủ tịch nước và văn
bản dưới luật của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Theo quy định tại điều 2

6


luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 thì các cơ quan hành chính nhà
nước có thẩm quyền ban hành các loại văn bản quy phạm pháp luật sau:
- Nghị định của Chính phủ
- Quyết định của thủ tướng chính phủ
- Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
- Thông tư liên tịch giữa các bộ truỏng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
- Quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước
- Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân.
Dựa vào các quy định của pháp luật thì việc ban hành các loại văn bản quy phạm
pháp luật trên, chính là hoạt động xây dựng trực tiếp các văn bản quy phạm pháp
luật của cơ quan hành chính nhà nước nhằm thực hiện chức năng của mình trong
hoạt động quản lí hành chính nhà nước. Qua đó có thể khẳng định rằng việc xây
dựng các quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước là việc làm
thường xuyên của các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới địa phương.
Thứ ba: Các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền sẽ có vai trò rà soát, hệ
thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời kiến nghị, sửa đổi, bổ sung,

thay thế, hủy bỏ, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành các văn bản quy phạm pháp luật
trái pháp luật. Việc làm này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong hoạt động quản lí
hành chính nhà nước; nhằm phát hiện những văn bản quy phạm pháp luật có dấu
hiệu sai phạm và trái với các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Theo quy định
của pháp luật thì hoạt động rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật
được đặt ra cho các cơ quan hành chính nhà nước trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền
hạn của mình. Điều 93 luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy
7


định: “cơ quan nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
nhiệm thường xuyên rà soát, định kì hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật;
nếu phát hiện có quy định trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn
phù hợp với tình hình phát triển của đất nước thì tự mình hoặc kiến nghị với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình
chỉ việc thi hành”. Về thẩm quyền thực hiện quản lí nhà nước về công tác kiểm tra
văn bản quy phạm pháp luật; giúp chính phủ trong việc kiểm tra, xử lí văn bản có
dấu hiệu trái pháp luật củ bộ, cơ quan ngang bộ thì bộ tư pháp đóng vai trò này theo
quy định tại khoản 3 điều 90 luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật năm
2008. Qua tất cả các phân tích trên về vai trò của các cơ quan hành chính nhà nước
trong việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật hành chính chúng ta thấy rằng:
hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước
là một hoạt động thường xuyên và liên tục trong quá trình quản lí hành chính nhà
nước. Để thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình thì các chủ thể quản lí hành chính
nhà nước phải ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, để cụ thể hóa hơn các văn
bản quy phạm pháp luật của cơ quan quyền lực nhà nước và cơ quan hành chính nhà
nước cấp trên.
2, Trong việc thực thi quy phạm pháp luật hành chính
Thứ nhất: các cơ quan hành chính nhà nước căn cứ vào thẩm quyền, chức năng,
nhiệm vụ của mình để thực thi các quy phạm pháp luật hành chính, đưa các quy

phạm pháp luật này đi vào thực tế, triển khai thực thi trên khắp cả nước thông qua
hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. Có thể nhận thấy rằng
hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước dựa trên các quy định của pháp luật
cụ thể từ trung ương tới địa phương lại có những nhiệm vụ, chức năng khác nhau.
Và cũng chính từ việc quy định của pháp luật mà các cơ quan hành chính nhà nước

8


đã căn cứ vào đó thực hiện các nhiệm vụ của mình thông qua cụ thể các quy phạm
pháp luật đó.
Thứ hai: Các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền quyết định biện pháp chỉ
đạo, kiểm tra và đôn đốc việc thi hành Hiến pháp, pháp luật, các văn bản quy phạm
pháp luật của cơ quan cấp trên trong các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân; tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên
truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật; báo cáo với các cơ quan quyền lực nhà
nước về việc triển khai và thực thi các văn bản quy phạm pháp luật. Theo khoản 2
Điều 18 luật tổ chức chính phủ “Quyết định các biện pháp chỉ đạo và kiểm tra việc
thi hành Hiến pháp, pháp luật, các quyết định của chính phủ trong các cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân; tổ
chức lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật; báo cáo với
Quốc hội về công tác phòng ngừa và chống vi phạm pháp luật và tội phạm”. Để các
văn bản quy phạm pháp luật thực sự được thực thi thì các cơ quan hành chính nhà
nước cấp trên còn có nhiệm vụ đốc thúc, kiểm tra chỉ đạo việc thực hiện của cơ quan
hành chính nhà nước cấp dưới. Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
cũng phải kiểm tra và đôn đốc các cơ quan hành chính nhà nước ở cấp dưới nhất là
cấp xã. Việc kiểm tra của các cơ quan hành chính nhà nước cấp trên có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình hoạt động của toàn bộ hệ thống các cơ quan
hành chính cấp dưới. Đó có thể là các văn bản chỉ đạo hoặc là những chuyến đi
thăm và khảo sát thực tế. Theo quy định tại khoản 1 Điều 94 luật tổ chức hội đồng

nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2004 thì ủy ban nhân dân cấp tỉnh “Tổ chức, chỉ
đạo và kiểm tra việc thi hành hiến pháp, luật, các văn bản quy phạm pháp luật của
cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của hội đồng nhân dân cùng cấp; tổ chức
thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật ở địa phương”.

9


Thứ ba: Tổ chức và lãnh đạo các công tác thanh tra các cấp, các ngành thuộc thẩm
quyền, tổ chức và chỉ đạo giải quyết khiếu nại tố cáo của nhân dân. Đây cũng là một
vai trò quan trọng của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc thực thi các quy
phạm pháp luật hành chính. Qua hoạt động thanh tra thì các cơ quan hành chính nhà
nước có thể nắm bắt được tình hình thực thi các quy phạm pháp luật hành chính ở
cấp dưới, qua đó có những biện pháp kịp thời khắc phục nếu phát hiện. Việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân cũng chính là hoạt động thực thi quy phạm
pháp luật hành chính, bằng quyền lực nhà nước trao cho các chủ thể quản lí hành
chính nhà nước sẽ thực thi các quy phạm pháp luật này nhằm giải quyết mọi khúc
mắc, tranh chấp của người dân thuộc thẩm quyền giải quyết của mình. Khoản 3 điều
94 luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2004 thì ủy ban nhân
dân cấp tỉnh “tổ chức, chỉ đạo công tác thanh tra nhà nước, tổ chức tiếp dân, giải
quyết khiếu nại tố cáo và kiến nghị của công dân theo quy định của pháp luật” và
tại khoản 5 điều 106 lại quy định ủy ban nhân dân cấp huyện “tổ chức, chỉ đạo việc
thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra nhà nước; tổ chức tiếp dân, giải quyết kịp
thời khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân; hướng dẫn, chỉ đạo công tác hòa
giải ở xã và thị trấn” và khoản 2 điều 107 ủy ban nhân dân cấp xã “tổ chức tiếp
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân theo thẩm quyền”.
Chúng ta thấy rằng việc thực thi các quy phạm pháp luật cũng được thể hiện qua vai
trò kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước.
Thứ tư: đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan cấp dưới trái với các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan cấp trên. Việc

đình chỉ thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật cũng chính là việc
đảm bảo thực hiện các quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên.
Thứ năm: các cơ quan hành chính nhà nước còn căn cứ các quy định của pháp luật
về thẩm quyền của mình để bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các thành viên của cơ
10


quan hành chính nhà nước cấp dưới. Việc miễn nhiệm, bổ nhiệm, cách chức cũng
thể hiện việc thực thi các quy phạm pháp luật hành chính, bằng các quy định mà
pháp luật cho phép các chủ thể quản lí hành chính nhà nước sẽ kiện toàn đội ngũ cán
bộ, công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước để có thể thực hiện các quy
phạm pháp luật hành chính. Chúng ta thấy rằng qua việc phân tích các vai trò trên
của cơ quan hành chính nhà nước trong việc thực thi các quy phạm pháp luật hành
chính, thì có thể nhìn nhận, và đánh giá về hoạt động thực thi các quy phạm pháp
luật của cơ quan hành chính nhà nước là rất đa dạng và phổ biến. Đây là một trong
những hoạt động chủ yếu của các cơ quan hành chính nhà nước, sau khi cụ thể hóa
các quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên, thì các cơ quan hành chính
nhà nước sẽ triển khai và thực thi nó trên thực tế, thông qua hệ thống cơ quan hành
chính nhà nước từ trung ương đến địa phương.
3, Đánh giá về vai trò của cơ quan hành chính nhà nước trong việc xây dựng và
thực hiện quy phạm pháp luật hành chính hiện nay
Trên thực tế hiện nay thì vấn đề xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật và
thực hiện còn rất nhiều điều bất cập và hạn chế. Những bất cập và hạn chế này phần
nào đó sẽ kéo lùi hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước.
- Văn bản quy phạm pháp luật thường sao chép lại các quy định của cấp trên nên
nhìn chung tính khả thi sau khi ban hành không cao, đến lúc thực hiện thì còn chung
chung và chưa thực sự thực thi có hiệu quả.
- Việc xây dựng Nghị quyết, chỉ thị của UBND chưa đảm bảo đúng trình tự, thủ tục
luật định. Số lượng văn bản đăng kí ban hành theo các chương trình này không cao,
còn mang tính hình thức.

- Dự thảo văn bản gửi thẩm định không đúng quy định. Đội ngũ cán bộ làm công tác
thẩm định ở địa phương còn nhiều hạn chế về trình độ, năng lực. Nội dung thẩm
11


định phần lớn về thể thức, kĩ thuật trình bày văn bản, chưa đi sâu phân tích nội dung
của văn bản.
- Công tác rà soát và hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật ở các cấp hàng
năm chưa được quan tâm đúng mức.
- Mặc dù nội dung thẩm định chủ yếu phát hiện các lỗi về hình thức, kĩ thuật trình
bày nhưng hầu hết các văn bản ban hành vẫn chưa đảm bảo về mặt trình tự, thủ tục
và thể thức, kĩ thuật trình bày theo quy định của pháp luật.
- Nhiều cơ quan hành chính nhà nước còn chưa thật sự nhìn nhận, đánh giá nghiêm
túc lại kết quả thực thi các văn bản quy phạm pháp luật hành chính mà còn thờ ơ.
- Vấn đề thực thi còn gặp nhiều khó khăn vì trình độ cán bộ xã còn thấp ở nhiều khu
vực miền núi xa xôi, việc kiểm tra đốc thúc còn gặp nhiều khó khăn. Còn nhiều các
đơn thư khiếu nại tố cáo giải quyết chưa triệt để, để người dân kiện vượt cấp gây sức
ép cho công việc cơ quan hành chính cấp trên.
C. Kết luận
Qua các phân tích đánh giá trên, ta có thể thấy: cơ quan hành chính nhà nước
có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và thực hiện các quy phạm pháp luật
hành chính do đặc thù của quản lí hành chính nhà nước. Và qua đây cũng thấy được
trong vai trò xây dựng và thực hiện các quy phạm pháp luật hành chính thì các cơ
quan hành chính nhà nước còn rất nhiều bất cập và hạn chế cần khắc phục ngay, để
có thể xây dựng được một hệ thống cơ quan hành chính nhà nước thật sự có năng
lực, thật sự có hiệu quả, giúp đất nước phát triển và đem lại lợi ích chính đáng cho
nhân dân đúng như bản chất “nhà nước của dân, do dân, vì dân”.

12



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb. công an nhân dân
- Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb.
Đại học quốc gia
- Luật hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 (đã sửa đổi bổ
sung)
- Luật tổ chức chính phủ 2001
- Luật tổ chức hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân năm 2004
- Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008
- Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân. ủy ban nhân
dân năm 2004.

13



×