Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

bàihocj kỳ dân sự 2 đề tài đánh giá quy định của pháp luật dân sự 2005 về hợp đồng dân sự vô hiệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.37 KB, 24 trang )

MỞ BÀI
Hợp đồng dân sự luôn là loại giao dịch dân sự mang tính phổ biến và thông dụng
nhất trong việc làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Nó được
coi là công cụ pháp lí quan trọng để thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng và
sản xuất, kinh doanh. Chính vì vậy chế định về hợp đồng luôn là chế định cơ bản nhất
trong pháp luật dân sự của các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Chế
định về hợp đồng dân sự theo BLDS 2005 được đánh giá là khá hoàn thiện và tiến bộ.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, nhiều quy định của luật còn chưa cụ thể
dẫn tới nhiều vướng mắc trong thực tiễn áp dụng dẫn tới hợp đồng bị tuyên là vô hiệu. Để
làm rõ hơn vấn đề này trong bài tập lớp em xin đi sâu vào vấn đề: “đánh giá quy định
của pháp luật dân sự 2005 về hợp đồng dân sự vô hiệu”.

0


THÂN BÀI
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
VÔ HIỆU
1. Khái niệm chung và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự
1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự
Ở nước ta khái niệm về hợp đồng dân sự được xem xét trên hai phương diện: về
mặt khách quan thì hợp đồng dân sự được xem là tổng hợp các quy phạm pháp luật của
Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội trong quá trình dịch chuyển các
lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau. Về mặt chủ quan thì hợp đồng dân sự được
xem là kết quả của sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên nhằm mục đích xác lập,
thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự. Tại điều 388 BLDS quy định: “hợp
đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền
và nghĩa vụ dân sự”
1.2. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự
Hợp đồng dân sự là một hình thức của giao dịch dân sự làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Theo đó, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng cũng


chính là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự được quy định tại Điều 122 BLDS
2005. Cụ thể:
thứ nhất, người tham gia giao dịch phải có năng lực hành vi dân sự, đây là một
trong những điều kiện tiên quyết đối với chủ thể tham gia giao dịch dân sự. Bởi lẽ giao
dịch dân sự nói chung và hợp đồng dân sự nói riêng về bản chất là sự thống nhất ý chí và
bày tỏ ý chí chủ thể tham gia giao dịch. Do đó, chỉ những người có năng lực hành vi dân
sự mới có ý chỉ và khả năng bằng hành vi của mình xác lập thực hiện quyền và nghĩa vụ
dân sự
Thứ hai, mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Khi tham gia vào các giao dịch dân sự nói chung
và các quan hệ hợp đồng dân sự nói riêng, các chủ thể có thể đạt được những mục đích
khác nhau. Các mục đích này là những lợi ích vật chất hoặc tinh thần mà các chủ thể
tham gia vào giao dịch nhằm đạt được. Động cơ mục đích cũng như nội dung của giao
dịch dân sự do các chủ thể xác định, tuy nhiên trên tinh thần đáp ứng những lợi ích của
chủ thể nhưng không làm ảnh hưởng đến lợi ích chung thì pháp luật quy định mục đích
1


và nội dung của hợp đồng dân sự không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo
đức xã hội.
Người tham gia giao dịch phải hoàn toàn tự nguyện. Cơ sở hình thành các giao
dịch dân sự là ý chỉ của các chủ thể tham gia. Ý chí là nguyện vọng, mong muốn chủ
quan bên trong của chủ thể và phải được thực hiện ra bên ngoài dưới một hình thức nhất
định. Khi tham gia vào hợp đồng dân sự các bên phải hoàn toàn tự nguyện, có nghĩa là
mong muốn nguyên vọng bên trong của chủ thể phải được thể hiển ra bên ngoài đúng
như ý chí đích thực của các chủ thể, họ không bị tác động của bất cứ yếu tố khách quan
hay chủ quan nào khác dẫn tới việc chủ thể đó không nhận thức hoặc không kiểm soát
được ý chỉ của mình.
Thứ tư, hợp đồng dân sự phải tuân thủ hình thức do pháp luật quy định. Hình
thức của hợp đồng được coi là phương tiện vật chất thể hiện nội dung của hợp đồng, là

phương tiện biểu đạt ý chí ra bên ngoài ý chỉ sự thỏa thuận của các chủ thể. Hợp đồng có
thể giao kết bằng nhiều hình thức khác nhau như: lời nói, hành vi hoặc văn bản. Theo
quan điểm của BLDS Việt Nam thì các bên được phép chủ động lựa chọn hình thức hợp
đồng phù hợp, việc tuân thủ quy định về hình thức chỉ là điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng trong trường hợp pháp luật có quy định cụ thể.
2. Khái niệm chung về hợp đồng dân sự vô hiệu
2.1khái niệm và đặc điểm của hợp đồng dân sự vô hiệu
Pháp luật dân sự hiện nay chưa xây dựng được khái niệm khái quát về hợp đồng
dân sự vô hiệu. Khoa học pháp lí cũng như pháp luật thực định của Việt Nam mới chỉ đưa
ra các tiêu chí xác định vô hiệu của hợp đồng và từ đó đưa ra cách xử lí. Tuy nhiên, dựa
trên cơ sở điều 127 BLDS năm 2005 : “giao dịch dân sự không có một trong các điều
kiện được quy định tại điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu”; ta có thể hiểu: hợp đồng
dân sự vô hiệu là hợp đồng vi phạm một trong các điều kiện có hiệu lực theo quy định
của pháp luật
Hợp đồng dân sự vô hiệu có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, hợp đồng vô hiệu là kêt quả của sự vi phạm về mặt ý chí đích thực của chủ thể
hoặc xâm phạm lợi ích công cộng, lợi ích của các bên chủ thể khác hay đôi khi là xâm
phạm đến lợi ích của chính bản thân chủ thể.
Thứ hai, hợp đồng dân sự vô hiệu là thể hiện ý chí của Nhà nước (nhằm bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, của cơ quan, chủ thể khác…) đối với việc công nhận sự thỏa thuận của các
bên chủ thể do vậy các nhà nước khác nhau quy định hợp đồng dân sự vô hiệu có thể
khác nhau.
2


Thứ ba, khi hợp đồng dân sự vô hiệu các bên có thể phải gánh chịu những hậu quả pháp
lí nhất định: hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên kể từ
thời điểm giao kết; các bên hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận. Đây chính là một tổn
thất đối với các bên khi các bên đã không đạt được mục đích mong muốn ban đầu của
việc giao kết hợp đồng nhằm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự, thỏa mãn các nhu

cầu chính đáng của mình.
2.2.

Phân loại hợp đồng dân sự vô hiệu

Phân loại hợp đồng dân sự vô hiệu là việc phân chia hợp đồng dân sự thành những
loại khác nhau theo các tiêu chí và nhằm những mục đích nhất định. Thông qua việc phân
loại hợp đồng dân sự vô hiệu cho ta nhìn nhận một cách toàn diện về hợp đồng vô hiệu
dưới những khía cạnh và phương diện khác nhau để từ đó đưa ra cách thức xử lí thích
hợp. Mỗi phương pháp phân loại dựa trên những tiêu chí khác nhau tùy thuộc vào mục
đích của việc phân loại. Sau đây là một số cách thức phân loại hợp đồng dân sự phổ biến.
Căn cứ vào tính chất vô hiệu của hợp đồng dân sự chia thành:
-Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối là những hợp đồng có nội dung xâm hại đến lợi ích công
cộng và hợp đồng vô hiệu ngay kể từ thời điểm giao kết. Các dạng thường gặp của hợp
đồng vô hiệu tuyệt đối là các hợp đồng mà nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái
đạo đức xã hội, hợp đồng giả tạo; hợp đồng vi phạm điều kiện bắt buộc về hình thức theo
quy định của pháp luật.
-Hợp đồng vô hiệu tương đối là những hợp đồng mà nội dung chỉ xâm hại đến lợi ích cá
nhân hoặc có sự khiếm khuyết của ý chí và sự thống nhất ý chí, Hợp đồng có thể vô hiệu
nếu có yêu cầu của bên được pháp luật bảo vệ và được tòa án tuyên bố vô hiệu. Những
nguyên nhân dẫn đến hợp đồng vô hiệu tương đối thường là hợp đồng được giao kết do
nhầm lẫn, đe dọa hay lừa dối.
Căn cứ phạm vi vô hiệu, hợp đồng vô hiệu được chia thành:
-Hợp đồng vô hiệu toàn bộ: khi các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bị vi phạm làm
cho toàn bộ hợp đồng không có hiệu lực, mọi điều khoản của hợp đồng không có giá trị
pháp lý.
-hợp đồng dân sự vô hiệu một phần: khi chỉ có một hoặc một số thỏa thuận của hợp đồng
là vô hiệu mà điều đó không ảnh hưởng đến hiệu lực của toàn bộ hợp đồng. Nói cách
khác hợp đồng vô hiệu một phần là hợp đồng mà ở đó chỉ có một phần của hợp đồng bị
vô hiệu, các phần khác vẫn có hiệu lực.

3


Căn cứ vào điều kiện có hiệu lực của hợp đồng vi phạm thì có thể chia hợp đồng
vô hiệu thành:
- Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội
- Hợp đồng vô hiệu do giả tạo
- Hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện
- Hợp động vô hiệu do bị nhầm lần
- Hợp đồng dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa
- Hợp đồng vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành
vi của mình
- Hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
II.
HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU THEO QUY ĐỊNH CỦA BLDS 2005
1.
Căn cứ xác định hợp đồng dân sự vô hiệu
Theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành, hợp đồng dân sự được
xác định là vô hiệu khi vi phạm một trong các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Trên
cơ sở quy định tại điều 122 BLDS năm 2005 có thể đưa ra hai căn cứ cơ bản sau để xác
định một hợp đồng dân sự vô hiệu:
- Hợp đồng vi phạm ý chí của chủ thể
- Hợp đồng vi phạm các điều kiện do ý chí của nhà nước
1.1. Hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều kiện ý chí về chủ thể
Như chúng ta đã biết, bản chất pháp lí của hợp đồng chính là sự thể hiện ý chí và
thống nhất ý chí trên cơ sở thỏa thuận, hoàn toàn tự nguyện của các bên chủ thể. Các điều
khoản thỏa thuận trong hợp đồng phải phù hợp với ý chí chủ quan, mong muốn của các
chủ thể; đồng thời phải có sự thống nhất ý chí đích thực và sự thể hiện ý chí đó ra bên
ngoài một cách hoàn toàn tự nguyện. Theo đó các hợp đồng được giao kết chỉ có thể bị

tuyên là vô hiệu khi thỏa mãn 2 điều kiện sau:
+ có yêu cầu tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu của người có quyền yêu cầu
+ có quyết định của tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu
Quy định này là hoàn toàn hợp lí, thể hiện sự tiến bộ của pháp luật dân sự Việt
Nam. Nhà nước không can thiệp sâu vào quyết định hợp đồng vô hiệu hay không mà
giành quyền ưu tiên này cho chính các chủ thể trong quan hệ hợp đồng. Nếu người này
không yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì hợp đồng vẫn được coi là có giá trị
pháp lí. Một đặc điểm nữa đó là, thời hiệu yêu cầu tuyên bố vô hiệu đối với các hợp đồnh
trong trường hợp vi phạm ý chí của củ thể là hai năm, kể từ ngày giao kết. Pháp luật chỉ
dành cho các chủ thể thực hiện quyền yêu cầu tuyên bố vô hiệu hợp đồng để bảo vệ
4


quyền và lợi ích chính đáng của mình trong một thời hạn nhất định. hợp đồng vi phạm ý
chí về mặt chủ thể có thể bị tuyên vô hiệu trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn, điều 131 BLDS quy định: “khi một
bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập
giao dịch thì bên nhầm lần có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó,
nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao
dịch vô hiệu. Trong trường hợp một bên do lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội
dung của giao dịch thì được giải quyết theo quy định tại điều 132 của Bộ luật này”. Nếu
bên bị nhầm lẫn1 chứng minh được sự nhầm lẫn của mình thì hợp đồng do các bên giao
kết có thể bị tuyên vô hiệu. Trong nhiều trường hợp sự nhầm lẫn xảy ra do lỗi của bên đối
tác, khi một bên có lỗi làm cho bên bên kia nhầm lẫn về nội dung của hợp đồng mà giao
kết hợp đồng thì bên kia nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của hợp
đồng đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án
tuyên bố hợp đồng vô hiệu.Ví dụ: A bán cho B một cái máy giặt hàng ngoại nhập, vì nghĩ
là B biết cách sử dụng do không thấy B hỏi gì thêm nên A không hướng dẫn về cách sử
dụng nguồn điện. Khi B về nhà cắm vào nguồn điện 220v thì thấy có mùi cháy khét và bị
tắt điện, B đem đến trả lại cho A thì A bảo trong hướng dẫn có ghi rõ là dùng với nguồn

điện 110v nên A không chấp nhận cho trả lại hàng và hôm sau B khởi kiện ra tòa. Trong
trường hợp này trên thực tế, B nghĩ là máy hút bụi cũng sử dụng được nguồn điện bình
thường trong nhà và sách hướng dẫn bằng tiếng Nhật nên không biết, nếu biết phải sử
dụng bằng nguồn điện 110v thì B sẽ không mua. Còn A thì nghĩ là B biết nên cũng không
hướng dẫn B cách sử dụng. Như vậy, A có lỗi cố ý trong việc không hướng dẫn cho B về
cách sử dụng. Như vậy A có lỗi trong việc không hướng dẫn cho B cách sử dụng máy giặt
khiến cho B về nhà dùng thì bị cháy máy, hợp đồng được thiết lập giữa A và B bị vô hiệu
do sự nhầm lẫn của B.
Tuy nhiên, lỗi của bên gây ra sự nhầm lẫn phải là lỗi vô ý, nếu sự nhầm lẫn do lỗi
cố ý của các bên đối tác thì hợp đồng đã giao kết không phải vô hiệu do nhầm lần mà lại
thuộc trường hợp vô hiệu do lừa giối. Xung quanh vấn đề lỗi của các bên trong trường
hợp hợp đồng giao kết do nhầm lẫn thì hợp đồng chỉ bị tuyên là vô hiệu nếu sự nhầm lần
xảy ra do lỗi vô ý của bên đối tác. Điều 31 BLDS quy định: “khi bên có lỗi làm cho bên
kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự thì bên bị nhầm lần có quyền yêu cầu bên
kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn
có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu……….bên cạnh đó khi giải quyết
vấn đề này còn có thể áp dụng nguyên tắc chung về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
1 Nhầm lẫn là việc các bên hình dung sai về nội dung của hợp đồng mà tham gia giao kết hợp đồng gây thiệt hại cho
mình hoặc cho bên kia. Sự nhầm lẫn xuất phát từ nhận thức của các bên hoặc phán đoán sai lầm về đối tượng sự
việc, sự nhầm lẫn phải được thể hiện rõ ràng mà căn cứ vào nội dung của hợp đồng phải xác định được.

5


để giải quyết người tham gia giao dịch phải hoàn toàn tự nguyện( điểm c, khoản 1 Điều
122 BLDS 2005) .Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu là 2 năm
( điều 136 BLDS 2005) kể từ ngày xác lập hợp đồng.Tuy nhiên nếu hết thời hiệu này mà
bên bị nhầm lẫn không yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì vấn đề tranh chấp
về hiệu lực của hợp đồng không còn tồn tại nữa và hợp đồng giao kết vẫn phát sinh hiệu
lực kể từ thời điểm giao kết.

Thứ hai, hợp đồng dân sự vô hiệu do bị lừa giối. Cũng như nhầm lần lừa giối là
một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống hằng ngày. Lừa giối được coi là yếu
tố dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng khi một bên cố ý làm cho bên kia phải giao kết hợp
đồng không theo ý muốn thực. theo quy định của BLDS 2005 tại điều 132 thì khi một
bên tham gia hợp đồng dân sự do bị lừa giối 2 thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp
đồng dân sự đó là vô hiệu. Như vậy, hành vi lừa giối có thể do một bên chủ thể tham gia
giao kết hợp đồng thực hiện mà cũng có thể do người thứ ba gây ra nhằm làm cho bên kia
hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của hợp đồng nên đã giao
kết hợp đồng. Tuy nhiên trong trường hợp người thứ ba gây ra cần phải hiểu là người thứ
ba đó phải có mối quan hệ với một bên chủ thể tham gia giao kết hợp đồng và bên chủ
thể đó biết rõ về hành vi lừa giối bên đối tác hiểu sai lệch của người thứ ba. Khi đó, hợp
đồng đã được các bên giao kết mới bị coi là vô hiệu. Ngoài ra hợp đồng chỉ vô hiệu khi
lừa giối thuộc một trong các trường hợp sau:
- Lừa giối về chủ thể của hợp đồng khi yếu tố chủ thể đóng vai trò quyết định
- Lừa giối về tính chất của hợp đồng
- Lừa giối về nội dung của hợp đồng
Để đảm bảo quyền lợi của bên chủ thể bị lừa giối, pháp luật cũng quy định, chỉ có
bên chủ thể bị lừa giối mới có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng dân sự đã được
giao kết bị vô hiệu do lừa giối. Tuy nhiên, thời hiệu khỏi kiện trong trường hợp này là hai
năm, sau hai năm thì hiệu lực của hợp đồng sẽ không còn bị tranh chấp, hợp đồng đã giao
kết sẽ tiếp tục phát huy hiệu lực pháp lí.
Thứ ba, hợp đồng dân sự vô hiệu do bị đe dọa. Đe dọa3 trong hợp đồng có thể
được thể hiện dưới hai hình thức: đe dọa về thể chất như bắt buộc một người phải kí kết
hợp đồng hoặc làm cho người khác bị say rồi kí kết hợp đồng với mình, đe dọa về tinh
thần như đe dọa sẽ làm lộ một bí mật nào đó của người khác làm cho họ phải giao kết
hợp đồng với mình. Khoa học pháp lí cũng như luật thực định Việt Nam đều thừa nhận đe
dọa trong giao kết hợp đồng là một yếu tố có thể dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng (điều
2 Lừa giối ở đây được hiểu là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể,
tính chất của đối tượng hoặc nội dung của hợp đồng nên đã giao kết hợp đồng.
3 Đe dọa trong giao kết hợp đồng là hành vi làm cho một người khiếp sợ, khiến cho người này phải giao kết hợp đồng ngoài ý

muốn của họ.

6


132- BLDS 2005). Tuy nhiên đe dọa chỉ trở thành yếu tố có thể dẫn tới sự vô hiệu của
hợp đồng khi thỏa mãn hai điều kiện. Thứ nhất, phải có hành vi cố ý của một bên làm cho
bên kia sợ hãi mà giao kết hợp đồng. Thứ hai, bên bị đe dọa phải giao kết hợp đồng nhằm
tránh gây thiệt hại về mọi mặt cho chính họ hoặc cho những người thân thích của họ. nếu
hành vi không đáp ứng điều kiện trên thì không được coi là đe dọa trong giao kết hợp
đồng, không dẫn tới sự vô hiệu của hợp đồng. Điều 132 BLDS quy định: “khi một bên
tham gia giao dịch dân sự do bị đe dọa thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch
đó là vô hiệu”
Cũng theo quy định của BLDS, đe dọa trong giao kết hợp đồng được hiểu là hành
vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch
nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của cha,
mẹ, vợ, chồng, con của mình. Như vậy đe dọa ở đây không chỉ là đe dọa về tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của bên đối tác (người mà họ định giao kết
hợp đồng) mà còn là sự đe dọa đối với những người có quan hệ huyết thống đối với bên
đối tác cũng có thể dẫn tới sự vô hiệu của hợp đồng dân sự.
Ngoài ra pháp luật cũng quy định trong trường hợp này, phải có sự yêu cầu của bên
bị đe dọa thì Tòa án mới tuyên hợp đồng đã được giao kết giữa các bên vô hiệu. Và thời
hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu trong trường hợp này là hai năm.
Thứ tư, hợp đồng dân sự vô hiệu do người xác lập tại thời điểm không nhận
thức và làm chủ được hành vi của mình
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng hành động của chính chủ thể để
tạo ra các quyền, thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ (điều 17 BLDS). Nó là thuộc tính
của cá nhân, tạo thành tư cách chủ thể độc lập của cá nhận trong quan hệ dân sự. Bên
cạnh đó, pháp luật cũng quy định cá nhân nếu có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì có
quyền tham gia vào mọi quan hệ dân sự với tư cách là chủ thể độc lập và tự chịu trách

nhiệm về những hành vi do họ thực hiện trừ trường hợp bị tuyên bố mất năng lực hành vi
dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự
1.2.

Hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm ý chí của nhà nước

Khi giao kết hợp đồng các bên được tự do thỏa thuận về nội dung hợp đồng, tự do
xác định vi phạm quyền và nghĩa vụ của các bên. Tuy nhiên sự tự do hợp đồng không
phải là tuyệt đối mà là trong khuôn khổ pháp luật quy định, trong mối quan hệ biện chứng
với đảm bảo lợi ích, trật tự công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác.
Như chúng ta đã biết pháp luật thời kì nào cũng luôn mang tính giai cấp và nó là sự thể
hiện ý chí của Nhà nước một cách rõ ràng nhất. Trong những trường hợp cần thiết, nhân
7


danh tổ chức quyền lực công, Nhà nước có thể can thiệp vào việc kí kết hợp đồng và do
đó giới hạn quyền tự do giao kết hợp đồng.
Hợp đồng vi phạm ý chí của nhà nước không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến các chủ
thể mà trên hết nó ảnh hưởng đến lợi ích chung của cộng đồng nên phần lớn các hợp
đồng do vi phạm ý chí của nhà nước bị coi là vô hiệu tuyệt đối – vô hiệu ngay từ thời
điểm giao kết mà không phụ thuộc vào chủ thể yêu cầu, vào quyết định của Tòa án. Cũng
chính bởi quan điểm coi hợp đồng vi phạm ý chí của Nhà nước là đương nhiên vô hiệu
mà vì thế BLDS năm 2005 đã không hạn chế thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên vô hiệu đối
với phần lớn hợp đồng này. Tuy nhiên ngoài các đặc điểm nói chung trên, mỗi hợp đồng
vi phạm ý chí Nhà nước cụ thể lại có những đặc điểm rất riêng biệt.
Thứ nhất, hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện về năng lực chủ thể
Như chúng ta đã biết, một trong những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự
theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 122 BLDS đó là “ người tham gia giao dịch phải
có năng lực hành vi dân sự”, điều 127 BLDS cũng xác định “ giao dịch dân sự không có
một trong các điều kiện quy định tại điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu”. Do vậy, khi

chủ thể tham gia giao kết hợp đồng không đáp ứng điều kiện có năng lực hành vi dân sự
thì hợp đồng có thể bị vô hiệu. BLDS đã cụ thể hóa quan điểm này thông qua quy định tại
điều 130: “khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu
của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu thì nếu theo quy
định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện”.
Hợp đồng được giao kết vi phạm điều kiện về năng lực của chủ thể được xếp vào
nhóm hợp đồng vi phạm ý chí của Nhà nước, vì xét về bản chất, việc đưa ra các tiêu chí
để xác định năng lực hành vi dân sự của chủ thể là do ý chí của Nhà nước, được các nhà
làm luật cụ thể hóa thành các quy định pháp luật cụ thể. Nên khi hợp đồng giao kết vi
phạm quy định pháp luật về điều kiện năng lực chủ thể thì sẽ bị vô hiệu. Tuy nhiên,
không giống với sự vô hiệu của phần lớn các hợp đồng vi phạm ý chí của Nhà nước. Sự
vô hiệu của hợp đồng vi phạm điều kiện về năng lực chủ thể chỉ được coi là tương đối, và
bị giới hạn về thời hạn tuyên bố yêu cầu tuyên vô hiệu – 2 năm kể từ ngày giao dịch được
xác lập ( khoản 1 điều 136). Theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành, hợp đồng
được xác lập, thực hiện bởi người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự
hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có thể bị tuyên vô hiệu nếu thỏa mãn các
điều kiện sau:
- pháp luật quy định hợp đồng đó phải do người đại diện xác lập, thực hiện
- phải có yêu cầu Tòa án tuyên vô hiệu của người đại diện
8


- có quyết định tuyên vô hiệu của Tòa án
Thứ hai, hợp đồng vô hiệu do giải tạo. Điều 129 BLDS năm 200 quy định: “khi
các bên xác lập giao dịch dân sự vô hiệu một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch
khác thì giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này. Trong trường hợp xác
lập giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô
hiệu”
Có nhiều ý kiến cho rằng nên xếp hợp đồng giả tạo vào trường hợp vi phạm sự tự

nguyện, vi phạm ý chí của chủ thể. Với lí do hợp đồng giải tạo không phải là sự thể hiện
ý chí đích thực của các bên chủ thể mà thực chất đây là kết quả cụ thể hóa của hành vi
giao dối mà các bên thực hiện nhằm hướng đến mục đích che giấu một hợp đồng khác
hoặc để trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba. Các bên xác lập hợp đồng không nhằm phát
sinh hậu quả pháp lí, mà sự thiết lập hợp đồng chỉ tạo ra một hình thức – vỏ bọc che đậy
cho mục đích thực hiện của các bên. Tuy nhiên trên cơ sở quy định tại điều 4 BLDS 2005
“trong quan hệ dân sự, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được áp đặt, cấm
đoán, cưỡng ép, đe dọa, ngăn cản bên nào” có thể toát lên một tinh thần cơ bản của các
nhà làm luật Việt Nam coi sự tự nguyện là sự tự do lựa chọn. Hợp đồng giải tạo không
chống lại tự do lựa chọn của các bên, việc giao kết hợp đồng hoàn toàn là do mong muốn
của họ ( mặc dù đây là những mong muốn bất hợp pháp). Nhưng nó lại nhằm tạo ra một
hậu quả pháp lí giả giối, không đúng sự thực về mối quan hệ giữa các bên. Tức là, nó
chống lại ý chí của nhà nước – của các nhà làm luật trong việc kiểm soát giao dịch pháp
lý nhằm bảo vệ trật tự công cộng xuất phát từ các nguyên tắc thiện chí, trung thực cũng
như đòi hỏi nguyên nhân chính đáng của nghĩa vụ hợp đồng. Do vậy, hợp đồng giả tạo
phải được xếp vào nhóm vi phạm ý chí của Nhà nước, điều này hoàn toàn hợp lí, bởi xem
xét các quy định của BLDS năm 2005 ta có thể nhận thấy, khi hợp đồng được giao kết do
giả tạo nó sẽ bị mặc nhiên vô hiệu mà không phụ thuộc vào ý chí chủ thể yêu cầu và
quyết định của Tòa án. Đồng thời, nó cũng không bị giới hạn về thời hiệu yêu cầu Tòa án
tuyên bố vô hiệu
Hợp đồng vô hiệu do giả tạo có thể xảy ra hai khả năng:
-Các bên xác lập, giao kết hợp đồng giả tạo nhằm che giấu một hợp đồng khác.
Đây là một hành vi gian dối được thực hiện thông qua việc xác lập, giao kết hai hợp
đồng: hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị che giấu ( thường được các bên xác lập cùng lúc).
Trường hợp này, theo quy định của BLDS 2005 chỉ hợp đồng giả tạo bị vô hiệu còn hợp
đồng chính thực (hợp đồng bị che giấu) thì vẫn có hiệu lực.
-Các bên xác lập hợp đồng giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba,
nghĩa là trước khi giao kết hợp đồng giả tạo, một trong hai bên đã tồn tại quan hệ nghĩa
9



vụ với người thứ ba và việc giao kết hợp đồng giả tạo này là nhằm trốn tránh, không phải
thực hiện nghĩa vụ. Việc các bên chủ thể giao kết hợp đồng giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa
vụ không chỉ vi phạm ý chí tự nguyện ( không có sự thể hiện ý chí đích thực) mà còn xâp
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba, làm ảnh hưởng đến trật tự công
cộng.
Thứ ba, hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái
đạo đức xã hội về đối tượng, mục đích, nội dung
Điều 12 BLDS năm 2005 quy định: “giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi
phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu”. Khi các bên chủ thể tham
gia giao kết hợp đồng có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm 54 của pháp luật hoặc trái
đạo đức xã hội thì hợp đồng đó sẽ bị coi là vô hiệu tuyệt đối; và thời hiệu yêu cầu Tóa án
tuyên bố hợp đồng vô hiệu là không hạn chế.ở đây không chỉ có những điều cấm của
pháp luật dân sự mà còn được hiểu là điều cấm quy địnhtrong tất cả các van bản pháp
luật khác như Luật doanh nghiệp, các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã kí kết hoặc tham
gia…ví dụ: xác lập hợp đồng vay với lãi suất cắt cổ, hợp đồng có đối tượng bị cấm giao
dịch: vũ khí, chất độc, chất phóng xạ, ma túy, mại dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ em, thực
vật, động vật hoang dã thuộc danh mục cấm…
Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời
sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Không trái đạo đức xã hội tức là
nội dung và mục đích của hợp đồng không được trái với những quy tắc ứng xử chung
giữa người với người đã được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng, ví dụ: việc lợi dụng
hoàn cảnh khó khăn, sự hiểu biết thiếu non kém của một bên chủ thể để giao kết hợp
đồng có lợi cho mình một cách quá đáng…
Với bản chất là các chuẩn mực xử sự chung của mỗi cộng đồng nên trong mỗi thời
kì xã hội khác nhau thì quan niệm về chuẩn mực đạo đức xã hội lại có sự thay đổi. Có
những hành vi xử sự ở thời kì này không bị coi là vi phạm đạo đức xã hội nhưng ở những
thời kì khác lại vi phạm đạo đức xã hội, ví dụ: hành vi mua người trong xã hội phong
kiến là một hành vi rất bình thường tuy nhiên trong xã hội ngày nay hành vi đó không
những bị lên án mà còn bị coi là vi phạm pháp luật. đôi khi việc xác định sự trái đạo đức

xã hội còn phụ thuộc vào cả truyền thống văn hóa của mỗi quốc gia.
Thứ năm, hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm hình thức luật định
Hình thức hợp đồng là sự thể hiện nội dung của hợp đồng và những thủ tục mà
pháp luật quy định, bắt buộc các bên giao kết hợp đồng phải tuân thủ khi kí kết một số
4 Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.

10


loại hợp đồng nhất định. Cũng như pháp luật các nước, pháp luật dân sự Việt Nam thừa
nhận nguyên tắc tự do hình thức trong giao kết hợp đồng có thể được giao kết bằng các
hình thức khác nhau5 như: lời nói, văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Nếu trường hợp
pháp luật quy định cụ thể loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất
định thì các bên phải tuân thủ. Điều 134 BLDS năm 2005 quy định: “Trong các trường
hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch
mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án, cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của
giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch đó vô
hiệu”
Theo khoản 2 điều 122 BLDS năm 2005 thì: “hình thức giao dịch dân sự là điều
kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định”. Đồng thời,
khoản 2 điều 401 cũng xác định: “hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi
phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Qua đó có thể thấy rằng
về nguyên tắc, hình thức không phải điều kiện bắt buộc để cho hợp đồng có hiệu lực pháp
lí, tức là hợp đồng chỉ bị tuyên vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức luật định sẽ vô
hiệu.
Ngoài ra, xuất phát từ việc đối tượng của hợp đồng là một trong những yếu tố cấu
thành hợp đồng, BLDS năm 2005 còn xác định hợp đồng dân sự là vô hiệu khi đối tượng
của hợp đồng không thể thực hiện được.
Hợp đồng chỉ có thể vô hiệu với lí do đối tượng không thể thực hiện được nếu đáp

ứng đủ hai điều kiện: ngay từ khi kí kết với lí do khách quan. Vậy, ngay từ khi kí kết phải
được hiểu như thế nào? đó có phải đơn thuần chỉ là thời điểm các bên kí kết vào hợp
đồng bằng văn bản không hay phải hiểu cách khái quát đó chính là thời điểm giao kết hợp
đồng. Cho đến nay vẫn chưa có một hướng dẫn cụ thể, nhưng theo quan điểm của chúng
tôi có lẽ nên hiểu “ ngay từ khi kí kết” là từ thời điểm giao kết hợp đồng sẽ hợp lí hơn.
Một vấn đề nữa cần quan tâm khi xác định do có đối tượng không thể thực hiện được
phải là” lí do khách quan”. Lí do khách quan ở đây có thể được hiểu là những tác động
bên ngoài , hoàn toàn không phụ thuộc vào ý chỉ chủ quan của các bên chủ thể như: thiên
tai, mưa bão, lũ lụt hoặc sự kiện bất khả kháng; cháy, hỏa hoạn, bị cắt điện sản xuất… ví
dụ: A cam kết sẽ sản xuất để bán cho B một loại thuốc có thể chữa được bênh tim mạch,
B tin tưởng rằng A có thể bán cho mình loại thuốc đó và A cũng biết rằng mình sẽ không
thể giao cho B loại thuốc đó nhưng lại không thông báo cho B biết . Trong trường hợp
này hợp đồng bị coi là vô hiệu và A phải bồi thường cho B.
5 Khoản 1 điều 401 BLDS quy định hình thức của hợp đồng dân sự: “hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng
văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất
định”

11


III.ĐÁNH GIÁ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU
1.Một số ưu điểm trong quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu theo BLDS
Thứ nhất, so với Bộ luật dân sự 1995 thì BLDS đã có nhiều tiến bộ đặc biệt trong
chế định về hợp đồng dân sự nói riêng và hợp đồng dân sự vố hiệu nói chung. Tại điều 1
Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991 của Việt Nam thì hợp đồng dân sự được hiểu là sự
thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các
bên trong mua bán, thuê, vay, mượn, tặng cho tài sản; làm hoặc không làm một việc, dịch
vụ hoặc các thỏa thuận khác mà trong đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt, tiêu dùng. Theo đó, Pháp lênh hợp đồng dân sự năm 1991 đã sử dụng phương pháp

liệt kê để định nghĩa về hợp đồng dân sự , quy định này không bao quát đầy đủ các hợp
đồng dân sự xảy ra trong thực tế. Tuy nhiên tại điều 388 BLDS quy định: “ hợp đồng dân
sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa
vụ dân sự” đây được xem là một trong những quy định đầy đủ, cụ thể và bao quát hết để
hiểu đúng về khái niệm hợp đồng dân sự. Bên cạnh đó, tại điều 132 Bộ luật dân sự 1995
quy định: “Đe doạ trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên làm cho bên kia sợ
hãi mà phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của những người thân thích” còn ở điều 132
BLDS đã có sự mở rộng hơn về chủ thể bị đe dọa cụ thể điều này quy định: “đe dọa
trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải
thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân
phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình”
Thứ hai, chế định về hợp đồng dân sự vô hiệu đã góp phần bảo vệ quyền, lợi ích
của các chủ thể trong quá trình tham gia giao dịch dân sự giúp các chủ thể nhận thức
được cụ thể hơn những điều pháp luật cấm, cũng như cơ hội bảo vệ mình trong những
trường hợp cần phúc thẩm các vụ việc đồng thời cũng là hình thức răn đe, giáo dục đối
với các chủ thể có hành vi vi phạm quy định của pháp luật.
2. Một số bất cập và hạn chế trong quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu theo
BLDS
2.1Một số vấn đề trong thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng dân sự vô hiệu
Thực tiễn cho thấy rằng hằng năm Tòa án phải giải quyết một lượng khá lớn các
tranh chấp dân sự liên quan đến hợp đồng, trong đó tranh chấp về hợp đồng dân sự vô
hiệu chiếm tỉ lệ không nhỏ. Sự nỗ lực trong công tác xét xử của Tòa án đã góp phần rất
lớn trong việc bảo vệ quyền dân sự cho các chủ thể khi bị xâm phạm. Tuy nhiên việc áp
12


dụng luật trong công tác giải quyết các tranh chấp về hợp đồng dân sự vô hiệu vẫn còn
tồn tại không ít những bất cập do nhiều nguyên nhân:
-Đời sống xã hội vốn rất phong phú, đa dạng và phức tạp nên khi ban hành Bộ luật

dân sự, các nhà làm luật không thể dự liệu hết các tình huống có thể xảy ra. Do vậy, nhiều
khi vụ việc xảy ra trong thực tiễn song các thẩm phán xét xử lại gặp không ít khó khăn vì
thiếu hoặc không có quy phạm điều chỉnh phù hợp.
-Do trình độ, nghiệp vụ đội ngũ thẩm phán chưa đồng đều dẫn đến cách hiểu và áp
dụng pháp luật về hợp đồng dân sự vô hiệu có nhiều bất cập, không có sự thống nhất
trong đường lối xét xử, dẫn đến tình trạng mỗi Tòa mỗi nơi lại có cách xét xử khác nhau
nên gây tâm lí hoang mang cho người dân
2.2. Trong căn cứ áp dụng hợp đồng dân sự vô hiệu
Thứ nhất, xung quanh việc áp dụng quy định của hợp đồng dân sự vô hiệu do
vi phạm điều kiện về chủ thể cho thấy: điểm a, khoản 1 điều 131 BLDS năm 2005 quy
định “ người tham gia giao dịch dân sự có năng lực hành vi dân sự”. khái niệm người ở
đây được hiểu chung cho cả cá nhân lẫn pháp nhân và chủ thể khác. Thế nhưng khi quy
định các trường hợp hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều kiện về chủ thể của giao
dịch thì BLDS chỉ đề cập đến các trường hợp chủ thể là cá nhân chứ không hề đề cập gì
đến các trường hợp pháp nhân. Vậy liệu các hợp đồng dân sự do pháp nhân xác lập mà
không phù hợp với mục đích và phạm vi hoạt động được phép của mình thì có bị coi là
vô hiệu hay không? Và nếu có nó sẽ vô hiệu tuyệt đối hay tương đối? Theo khoản 1 điều
86 BLDS 2005 quy định về năng lực pháp luật dân sự của cá nhân đã xác định “năng lực
pháp luật dân sự của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự phù hợp với mục đích
hoạt động của mình”. Như vậy, giống như năng lực hành vi dân sự của cá nhân, năng lực
pháp luật dân sự của cá nhân hoàn toàn được xác định theo ý chí của Nhà nước được các
nhà làm luật thể hiện thông qua các quy định cụ thể. Khi pháp nhân xác lập hợp đồng
không phù hợp với mục đích hoạt động là đã vi phạm điều kiện về năng lực pháp luật dân
sự, vi phạm ý chí của Nhà nước nên xác định trường hợp này là vô hiệu tuyệt đối thì sẽ
hợp lí hơn.
Một vấn đề nữa đặt ra là theo quy định tại điều 130 BLDS năm 2005 thì khi giao
dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện
của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu theo quy định của pháp luật giao
dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện”. tuy nhiên, điều 20 BLDS

2005 khi quy định về năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên chỉ được xác
định một cách rất chung chung rằng phần lớn các giao dịch do người chưa thành niên xác
13


lập, thực hiện “phải có sự đồng ý của người đại diện” chứ không hẳn quy định rõ ràng
“những giao dịch này phải có người xác lập, thực hiện”. thuật ngữ mang tính khái quát “
phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật” lại được các nhà làm luật tiếp tục
sử dụng tại khoản 2 điều 23 BLDS 2005 khi quy định về các hợp đồng do người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự giao kết liên quan đến tài sản. Vì vậy, nếu hiểu một cách hiểu
chân phương theo điều 130 “theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại
diện của họ xác lập, thực hiện” thì tronng những trường hợp này người chưa thành niên
hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện hợp đồng mà không có
sự đồng ý của người đại diện; sau đó, người đại diện theo pháp luật có yêu cầu Tòa án
tuyên vô hiệu, thì liệu hợp đồng đó có bị tuyên vô hiệu hay không?
Như chúng ta đã biết, việc xác lập hợp đồng trong các trường hợp này phải được
đặt dưới sự kiểm soát “phải có sự đồng ý” của người đại diện. Sự đồng ý của người đại
diện ở đây thực chất chỉ là sự cho phép hay không cho phép, chứ không phải là sự thể
hiện ý chí của người đại diện thay cho ý chí đích thực của chủ thể xác lập hợp đồng. Do
vậy, ý chí thể hiện trong hợp đồng vẫn là ý chí đích thực của chủ thể (người tử đủ 6 tuổi
đến dưới 18 tuổi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự) và bản chất pháp lý của
hợp đồng vẫn đạt được. Vì vậy, khi phát hiện hợp đồng do các chủ thể này xác lập, thực
hiện mà không có sự đồng ý của mình, người đại diện yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng đó
vô hiệu rằng đã hợp lí chưa? Bởi điều 130 cũng đã xác định rõ “ nếu pháp luật giao dịch
này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện” thì hợp đồng mới có thể bị tuyên
bố vô hiệu.
Và như trên đã phân tích, thì “phải có sự đồng ý của người đại diện” khác hẳn so
với “ phải do người đại diện xác lập, thực hiện”. Hơn nữa trong trường hợp này việc giao
kết vẫn thể hiện được bản chất pháp lí của hợp đồng.
Thứ hai, xác định hợp đồng vô hiệu do mục đích, nội dung vi phạm điều cấm

của pháp luật, trái đạo đức xã hội. Hiện nay cách hiểu như thế nào về “điều cấm của
pháp luật” vẫn còn nhiều tranh cãi, quan điểm không thống nhất. Đơn cử có một thực tế
như sau: Năm 2008, vợ chồng ông A – chủ một doanh nghiệp kí hợp đồng dịch vụ thuê
Công ty TNHH B làm đại diện ủy quyền để thay mặt mình trong một thương vụ chuyển
nhượng đất đai có giá trị lên tới 50 tỉ đồng. Vợ chồng ông A đồng ý trả cho Công ty
TNHH B khoản chi phí dịch vụ là 300 triệu đồng. Tuy nhiên sau đó vợ chồng ông A bất
ngờ cắt hợp đồng và kiện đòi lại số tiền trên với lí do Công ty TNHH B không có chức
năng để thực hiện dịch vụ nói trên. Tại phiên tòa sơ thẩm, TAND quận Phú Nhuận xác
định: hợp đồng giữa vợ chồng ông A và công ty TNHH B “là hợp đồng dân sự về dịch vụ
phù hợp về hình thức lẫn nội dung được quy định tại BLDS”; và do vậy Tòa đã bác đơn
yêu cầu cuả vợ chồng ông A.
14


Thế nhưng, án phúc thẩm lại lập luận rằng theo giấy chứng nhận đăng kí kinh
doanh Công ty TNHH B được phép kinh doanh các nghành nghề như tư vấn đầu tư, tư
vấn kinh tế, dịch vụ thương mại, kinh doanh nhà, xây dựng nhà và nhiều nghành nghề
khác nhau nhưng không có nghành nghề nào như hợp đồng dịch vụ thương mại theo luật
Thương mại cũng không có nội dung nào quy định như hợp đồng các bên đã kí kết. Trong
khi, khoản 1 điều 9 Luật doanh nghiệp quy định: “doanh nghiệp phải thực hiện hoạt
động kinh doanh theo đúng nghành nghề đã ghi trong giấy chứng nhận đăng kí kinh
doanh”nên hợp đồng giữa công ty B và ông bà A vô hiệu do vi phạm quy định và công ty
TNHH B phải hoàn trả lại 300 triệu đồng cho ông bà A 6. Xung quanh vụ việc trên có hai
quan điểm:
Thứ nhất, cũng là quan điểm của Tòa án cấp phúc thẩm xét xử vụ án trên cho rằng
khoản 1 điều 9 Luật Doanh nghiệp được coi là “điều cấm của pháp luật”. Do vậy, việc
công ty TNHH B không thực hiện hoạt động kinh doanh theo đúng nghành nghề đã ghi
trong giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh là vi phạm “điều cấm của pháp luật”, nên hợp
đồng đại diện ủy quyền giữa công ty B và ông bà A bị tuyên vô hiệu
Thứ hai, không coi khoản 1 điều 9 Luật doanh nghiệp là “điều cấm của pháp luật”

và hợp đồng đại diện theo ủy quyền giữa công ty TNHH B và ông bà A vẫn có hiệu lực.
Ở đây, hành vi kinh doanh không đúng nghành nghề đã đăng ký không phải vi phạm “
điều cấm của pháp luật” mà cấm nếu có trong trường hợp này phải là điều 11 LDN quy
định về các hành vi bị cấm.
Theo quan điểm của tôi thì hoàn toàn đồng ý với quan điểm thứ hai. Hiện nay kinh
doanh là một quyền của công dân, việc quy định doanh nghiệp phải đăng kí kinh doanh
thực chất chỉ mang tính khai báo, thuận lợi cho công tác quản lý mà không mang tính
chất thừa nhận một doanh nghiệp đủ điều kiện kinh doanh hay không. Chỉ đối với những
nghành nghề kinh doanh có điều kiện thì việc đăng ký và giấy phép kèm theo mới mang
tính thừa nhận. Khi đó, nếu doanh nghiệp giao kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng kinh
doanh thì không đúng nghành nghề có thể bị tuyên là vô hiệu. Trong vụ án trên, dịch vụ
đại diện ủy quyền lại không phải là nghành nghề kinh doanh có điều kiện, do vậy, trường
hợp này không thể tuyên vô hiệu được.
Thứ ba xung quanh việc áp dụng quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu do
nhầm lẫn trên thực tế cũng ghi nhận không ít bất cập
Trước hết, BLDS năm 2005 chưa có quy định cụ thể về khái niệm “nhầm lẫn” dẫn
đến việc tuyên hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn của nhiều Tòa án trên thực tế gặp không ít
khó khăn, nhiều khi là sự xác định một cách tùy tiện gây ảnh hưởng không nhỏ đến
6 />
15


quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể. Các nhà làm luật không quy định cụ thể về khái
niệm nhầm lẫn nên các Thẩm phán khó xét xử cũng khó có thể xác định một cách chính
xác sự nhầm lẫn cũng như biểu hiện của nó trong thực tế vụ án. Việc không quy định rõ
có sự nhầm lẫn hay không và nếu có thì biểu hiện nhầm lẫn ở đây như thế nào là rất quan
trọng để có thể giải quyết tuyên hợp đồng vô hiệu. Bởi nếu xác định tùy tiện hoàn toàn có
thể dẫn đến sự lạm quyền trong việc tuyên vô hiệu, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
chính đáng của chủ thể.
Tiếp theo về nguyên nhân gây ra nhầm lẫn, điều 131 BLDS năm 2005 chỉ đề cập

đến sự nhầm lẫn từ một phía, sự nhầm lẫn đơn phương “khi một bên có lỗi vô ý làm cho
bên kia nhầm lẫn” mà không ghi nhận sự nhầm lẫn song phương, đến từ cả hai bên chủ
thể bởi trên thực tế sự việc hoàn toàn có thể xảy ra. Ví dụ: Sau khi thống nhất nhờ một
chuyên gia (còn ít kinh nghiệm) quen biết với cả hai bên xác định niên đại, A đã bán cho
B một chiếc bình cổ đời nhà Thanh với trị giá 1000USD. Nhưng khi C một chuyên gia đồ
cổ nhiều năm đến chơi, B mới biết là chiếc bình cổ này có từ đời nhà Minh chứ không
phải từ đời nhà Thanh và có giá trị đến 5000 USD. Biết được điều này, A đã yêu cầu Tòa
án đòi tuyên vô hiệu hợp đồng mua bán giữa A và B. Tuy nhiên, A và B đều không hề có
lỗi trong việc gây ra nhầm lẫn. Hợp đồng giữa A và B được giao kết do sự nhầm lẫn song
phương từ cả hai phía. Vì vậy, yêu cầu của A bị Tòa án bác và B là người được hưởng lợi
từ sự nhầm lẫn của chính mình và của A 7. Rõ ràng, trong trường hợp này phán quyết của
Tòa án không chỉ mâu thuẫn với nguyên tắc tự do ý chí mà còn không phù hợp với
nguyên tắc công bằng trong cuộc sống. Như chúng ta đã biết, bản chất pháp lí của hợp
đồng là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí giữa các bên chủ thể nhằm phát sinh hậu quả pháp
lý nhất định. Nếu không có sự thống nhất ý chí và sự thể hiện ý chí đó của các bên thì
không thể hình thành quan hệ hợp đồng. Trong trường hợp giao kết hợp đồng mà cả hai
bên chủ thể đều có sự nhầm lẫn về nội dung và hình thức của hợp đồng thì rõ ràng là đã
không có sự trùng hợp, sự thống nhất ý chí và sự thể hiện ý chí của các bên. Do vậy,
không thể coi sự nhầm lẫn song phương là yếu tố có thể dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng
Không chỉ dự liệu trong nguyên nhân gây ra nhầm lẫn, theo BLDS sự nhầm lẫn
được xem là yếu tố dẫn đến vô hiệu của hợp đồng cũng như chỉ giới hạn ở sự nhầm lẫn
về “nội dung của hợp đồng”. Một vấn đề nữa đặt ra là khi có sự nhầm lẫn về chủ thể của
hợp đồng thì phải giải quyết như thế nào? Trên thực tế vụ việc có sự nhầm lẫn về chủ thể
hoàn toàn có thể xảy ra. Ví dụ: phó chánh án tòa án nhân dân tối cao Từ Văn Nhữ nêu lên
một thực tế là theo quy định công nhân quốc phòng không được chuyển nhượng nhà
được phân nhưng trên thực tế việc chuyển nhượng vẫn diễn ra phổ biến. Vậy, vấn đề đặt
7 Nguyễn Ngọc Khánh ( 2008), “các khiếm khuyết của sự thống nhất ý chí trong quan hệ hợp đồng”, tạp chí Nhà
nước và pháp luật, tr 40-46.

16



ra là hợp đồng chuyển nhượng đó có bị tuyên là vô hiệu do nhầm lẫn không? 8Một vấn đề
nữa được đặt ra là theo quy định tại điều 131 BLDS năm 2005 thì hợp đồng được giao
kết do bị nhầm lẫn có thể bị tuyên là vô hiệu nếu bên bị nhầm lẫn đã có yêu cầu bên kia
thay đổi nội dung của hợp đồng nhưng bên kia không chấp nhận. Không chấp nhận là
trường hợp có khả năng thay đổi nhưng người yêu cầu không muốn thay đổi, tức là
BLDS khi quy định về khả năng tuyên vô hiệu của hợp đồng được giao kết do bị nhầm
lẫn mới chỉ ghi nhận đối với những trường hợp mà nội dung nhầm lẫn “có thể thay đổi
được”, còn đối với trường hợp nhầm lẫn về nội dung không thể thay đổi được thì lại chưa
được các nhà làm luật dự liệu
Thứ tư, trong căn cứ ác định hợp đồng vô hiệu do bị lừa giối, đe dọa.
Theo quy định tại điều 132 BLDS 1995 thì sự lừa giối được coi là yếu tố dẫn đến
hợp đồng vô hiệu chỉ được giới hạn trong phạm vi lừa giối về “chủ thể, tính chất của đối
tượng, nội dung của hợp đồng”. Vậy, trong trường hợp có sự lừa giối về mục đích, động
cơ thì sao? Liệu hợp đồng đó có bị tuyên vô hiệu không. Ví dụ: một người bán hàng nói
dối với mọi người rằng phần lớn số tiền anh ta bán được sẽ dùng để ủng hộ quỹ từ thiện,
nhờ đó mà có rất nhiểu người mua và anh ta bán được rất nhiều hàng với giá cao. Rõ ràng
trong trường hợp này, động cơ lừa giối có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đóng vai trò quan
trọng trong việc giao kết hợp đồng. Nếu khách hàng biết động cơ đích thực của người bán
hàng chỉ nhằm trục lợi cá nhân thì nhiều khả năng họ không giao kết hợp đồng9
Tại điều 132 BLDS 2005 đã có sự mở rộng về phạm vi những chủ thể của sự đe dọa và
theo đó, ngoài bên bị đe dọa ra thì chỉ còn giới hạn ở “cha, mẹ, vợ, chồng, con của họ”.
Với quy định này, BLDS 2005 đã loại trừ quan hệ trực tiếp tới tài sản và nhân thân của
những người thân thích khác của bên bị đe dọa như: ông bà nội, ông bà ngoại, anh chị em
ruột…cũng có thể là yêu cầu tuyên hợp đồng vô hiệu. Liệu có hợp lí và công bằng không
khi mà, sự đe dọa đối với các chủ thể này có thể nói đã và vẫn đang tiếp diễn trên thực tế
và nhiều khi gây ảnh hưởng, tác động không nhỏ đến sự giao kết hợp đồng của người bị
đe dọa? Hoặc trong trường hợp người bị đe dọa dù không có quan hệ thân thích gì với
người giao kết hợp đồng, nhưng vì họ đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng

sức khỏe. Trong trường hợp đó người giao kết từ chối không giao kết hợp đồng thì liệu có
bị coi là xem thường tính mạng của người khác và phải chịu trách nhiệm hình sự theo
điều 102 BLHS năm 1999 hay không, hơn nữa điều này cũng không phù hợp với truyền
thông đạo lý (cứu giúp người khó khăn, hoạn nạn) tốt đẹp của dân tộc ta. Vậy thì, trong
những trường hợp nêu trên, nếu người giao kết phải xác lập hợp đồng trái với ý muốn của
họ có được coi là hợp đồng vô hiệu do bị đe dọa không?
8 />9 Lê Thị Bích Thọ (2001), “lừa giối- yếu tố vô hiệu của hợp đồng kinh tế”, tạp chí Khoa học pháp lý

17


Thứ năm, trong căn cứ xác định hợp đồng vô hiệu do vi phạm quy định về
hình thức.
Điều 143 BLDS quy định: “trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao
dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo
yêu cầu của một hoặc các bên, tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định
buộc các bên thực hiện các quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn, nếu
thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch đó vô hiệu” đây là vấn đề đang này sinh rất
nhiều bất cập và bị lợi dụng. Bởi nếu một bên không thiện chí hoặc không trung thực có
thể yêu cầu tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu bởi lí do hợp đồng chưa tuân thủ về mặt hình
thức nhằm thu lợi bất chính. Nếu như vậy phải chăng quy định này đã ủng hộ “sự bội
ước”, gây ảnh hưởng xấu đến việc thúc đây giao lưu dân sự, vì trên thực tế khi xảy ra
tranh chấp, các bên thường không có thiện chí để sửa chữa những sai sót nữa nhất là một
bên lại được lợi từ việc tuyên hợp đồng vô hiệu. Điển hình nhất là trong trường hợp hai
bên kí hợp đồng mua nhà, nhà đã giao, tiền đã nhân nhưng chưa kịp làm thủ tuc công
chứng, đăng kí thì giá nhà tăng cao, bên bán có ý định đòi lại nhà nên yêu cầu Tòa án
tuyên bố là vô hiệu hợp đồng với lí do vi phạm điều kiện về hình thức. Như vậy, quyền
lợi của bên không có lỗi không được đảm bảo còn người không trung thực lại được
hưởng lợi
Xem xét các quy định tại các điều 122, điều 124 và điều 401 năm 2005 ta có thể

nhận thấy: có lúc, nhà làm luật khẳng định một cách chắc chắn “ trong trường hợp pháp
luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, phải có công chứng
hoặc chứng thực, phải đăng kí hoặc phải xin phép, thì phải tuân theo các quy định đó)(
khoản 2 điều 124); nhưng ở khoản 2 điều 401 lại quy định: “hợp đồng vi phạm về hình
thức không bị vô hiệu trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Điều này gây không ít
khó khăn cho người đọc, dẫn đến sự nhập nhằng, khó hiểu trong việc xác định hợp đồng
vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức
2.3.

Trong việc giải quyết xử lí hợp đồng dân sự vô hiệu

Thứ nhất, nhiều Tòa án khi xét xử các tranh chấp về hợp đồngvô hiệu vẫn thường
xảy ra quyết định hủy hợp đồng thay vì quyết định tuyên hợp đồng vô hiệu, điều này là
không chính xác. Bởi với cách viết án hủy hợp đồng như vậy, đôi khi chúng ta khôn phân
biệt rõ chế tài “tuyên vô hiệu” với chế tài “hủy hợp đồng”. Ở đây thuật ngữ mà BLDS sử
dụng khi hợp đồng vô hiệu là “tuyên bố hợp đồng vô hiệu” chứ không quy định là Tòa án
“hủy hợp đồng vô hiệu”. Để tôn trọng đúng tinh thần của BLDS cũng như để không nhầm
lẫn với chế tài khi có vi phạm trong quá trình thực hiện hợp đồng, thuật ngữ chính xác
phải là tuyên bố “hợp đồng vô hiệu chứ không phải hủy hợp đồng”
18


Thứ hai, về xử lí hậu quả của hợp đồng vô hiệu, các bên khôi phục tình trạng ban
đầu. Theo điều 137 BLDS “khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình
trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”. Nhìn chung khái niệm “khôi phục
lại tình trạng ban đầu” và “ hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” là giống nhau, nhưng
thật ra hoàn trả cho nhau những gì đã nhận chỉ là một hoàn cảnh của việc khôi phục lại
tình trạng ban đầu. Trong trường hợp trước khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu, một bên đã
khai thác, xây dựng bổ sung trên tài sản đã tranh chấp. Trong trường hợp này khôi phục
lại tình trạng ban đầu như thế nào? Trong trường hợp này khôi phục lại tình trạng ban đầu

là như thế nào? Nếu áp dụng quy tắc “khôi phục lại tình trạng bam đầu”, thì bên xây
dựng bổ sung sẽ phải tháo bỏ tài sản mới bổ sung này. Tuy nhiên, điều này trên thực tế là
không hợp lý, gây thiệt hại đến các bên, và đây không phải là giải pháp được các Tòa án
áp dụng trong thực tế mà thường là tòa án cho bên đã xây dựng bổ sung, tính toán những
chi phí hợp lí để tạo ra khối tài sản bổ sung đó và yêu cầu bên kia thanh toán khoản tiền
tương đương. Giải pháp của Tòa án dường như trái với nguyên tắc “khôi phục lại tình
trạng ban đầu” nhưng thiết nghĩ giải pháp này không ít tính thuyết phục. Bởi những tài
sản bổ sung gắn liền với tài sản phải hoàn trả và làm tăng giá trị của tài sản này do đó
không nên buộc tháo bỏ khi có thể. Hay như trường hợp đối tượng của hợp đồng là công
việc (dịch vụ) đã được thực hiện trước đó thì việc hoàn trả dường như không thể, khi đó
liệu rằng việc áp dụng quy định “ các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” có còn
chính xác nữa không?
3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện thêm quy định của pháp luật về hợp đồng
dân sự vô hiệu theo quy định của BLDS
Thứ nhất, cần bổ sung quy định của hợp đồng dân sự vô hiệu trong trường hợp pháp
nhân xác lập có sự vi phạm điều kiện về chủ thể, mỗi pháp nhân có mục đích và phạm vi
hoạt động của riêng mình. Tuy nhiên nếu BLDS năm 2005 đã quy định một số trường
hợp vô hiệu cụ thể do vi phạm điều kiện ý chí về chủ thể thì cũng nên bổ sung quy định
trong trường hợp pháp nhân vi phạm điều kiện chủ thể. Hơn nữa thực tiễn hiện nay cho
thấy, pháp luật dân sự các nước đều có quy định khá cụ thể về trường hợp pháp luật được
xác lập bởi pháp nhân có vi phạm điều kiện về chủ thể. Ví dụ điều 116 BLDS Thái Lan
quy định: “một hành vi pháp lý không tuân theo những yêu cầu về khả năng của thể
nhân, pháp nhân thì có thể bị coi là vô hiệu”. Điều 173 BLDS Liên Bang Nga quy định:
“giao dịch dân sự do pháp nhân xác lập không phù hợp với mục đích hoạt động ghi trong
lí lịch của pháp nhân……….”
Thứ hai, BLDS cần sớm có quy định, hướng dẫn cụ thể đối với các trường hợp đồng
được xác lập, giao kết bởi người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi và người bị hạn chế
19



năng lực hành vi dân sự để tránh những cách hiểu khác nhau, nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho việc áp dụng các quy định pháp luật.
Thứ ba, xung quanh quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn cần sửa đổi
quy định theo hướng mở rộng nguyên nhân gây ra nhầm lẫn có thể dẫn đến hợp đồng bị
tuyên vô hiệu, bổ sung quy định về nhầm lẫn song phương, tiếp nữa cần bổ sung việc quy
định có khả năng tuyên bố hợp đồng vô hiệu khi nhầm lẫn về chủ thể.
Thứ tư, nên bỏ quy định tại điều 401 BLDS để tạo tính thống nhất trong các quy định về
hình thức của hợp đồng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các quy định của pháp
luật trong việc xác định hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức.
Thứ năm, cần bổ sung quy định sửa đổi về nghĩa vụ hoàn trả khi hợp đồng bị tuyên vô
hiệu. Bởi nếu xác định một cách rõ ràng thì cách viết rất chung chung như quy định hiện
nay “nếu không hoàn trả bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền” dẫn đến một thực tế là
khi giải quyết các vấn đề này, các bên thường biểu hiện nhầm giữa “việc hoàn trả bằng
tiền khi hợp đồng vô hiệu” với “việc điều kiện khoản thanh toán hợp đồng như đã thỏa
thuận”, vì thực tiễn xét xử hợp đồng vô hiệu cho thấy hầu như không có sự áp dụng các
quy định của chế định này mà thông thường Tòa án quyết định bên kia phải thanh toán
cho bên giao tài sản và thực hiện một dịch vụ theo số tiền ghi trên hợp đồng.

KẾT LUẬN
Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu nói chung và hợp đồng dân sự vô hiệu nói
riêng trong BLDS 2005 đã thể hiện sự tiến bộ, ưu việt và hiệu quả hơn hẳn so với BLDS
năm 1995; góp phần không nhỏ vào việc ổn định, thúc đẩy giao lưu dân sự, tạo hành lang
pháp lý án toàn cho các chủ thể khi tham gia giao dịch dân sự.

20


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS: bộ luật dân sự 2005
LDN: Luật doanh nghiệp


21


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giaó trình luật dân sự Việt Nam 1, 2 , nhà xuất công an nhân dân, 2009
2. Bộ luật dân sự năm 2005, nhà xuất bản tư pháp, 2009
3. Lê Huy Hùng DS31A, một số vấn đề lí luận và thực tiễn về hợp đồng dân sự
vô hiệu theo pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành, khoa luận tốt nghiệp,
2010
4. giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự vô hiệu, Hà
Thị Thanh Hương, khóa luận 2012
5. Hợp đồng dân sự vô hiệu do nhầm lẫn, Vũ Thị Minh Hiếu ds33a, khóa luận
tốt nghiệp, 2012
6. Hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều kiện ý chí chủ thể, luận văn 2012,
Bùi Thị Thu Huyền
7. Nguyễn Ngọc Khánh ( 2008), “các khiếm khuyết của sự thống nhất ý chí
trong quan hệ hợp đồng”, tạp chí Nhà nước và pháp luật, tr 40-46.
8. Lê Thị Bích Thọ (2001), “lừa giối- yếu tố vô hiệu của hợp đồng kinh tế”, tạp
chí Khoa học pháp lý
9. />6/Default.asp
10. />
MỤC LỤC
MỞ BÀI............................................................................................................................. 0
THÂN BÀI........................................................................................................................1
22


I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ
HIỆU..............................................................................................................................1

1. Khái niệm chung và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự.............................1
1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự..................................................................................1
1.2

. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự.....................................................1

2. Khái niệm chung về hợp đồng dân sự vô hiệu......................................................2
2.1

khái niệm và đặc điểm của hợp đồng dân sự vô hiệu........................................2

2.2.

Phân loại hợp đồng dân sự vô hiệu...................................................................3

II.

HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU THEO QUY ĐỊNH CỦA BLDS 2005............4

1. Căn cứ xác định hợp đồng dân sự vô hiệu............................................................4
1.1.

Hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều kiện ý chí về chủ thể.......................4

1.2.

Hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm ý chí của nhà nước.................................7

III.ĐÁNH GIÁ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ HỢP
ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU..........................................................................................12

1.Một số ưu điểm trong quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu theo BLDS...............12
2. Một số bất cập và hạn chế trong quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu theo BLDS
................................................................................................................................... 12
2.1Một số vấn đề trong thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng dân sự vô hiệu.....12
2.2. Trong căn cứ áp dụng hợp đồng dân sự vô hiệu.................................................13
2.3.

Trong việc giải quyết xử lí hợp đồng dân sự vô hiệu.......................................18

3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện thêm quy định của pháp luật về hợp đồng dân
sự vô hiệu theo quy định của BLDS..........................................................................19
KẾT LUẬN...................................................................................................................... 20
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT...........................................................................................21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................22

23



×