Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Phân tích vai trò của cơ quan hành chính nhà nước trong việc xây dựng và thực hiện quy phạm pháp luật hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.64 KB, 14 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong bất kỳ bộ máy nhà nước nào đều có cơ quan hành chính để quản lí
toàn bộ hoạt động hành chính trên phạm vi cả nước một cách thống nhất,
liên tục. Vậy cơ quan hành chính nhà nước có vai trò như thế nào trong việc
thực hiện quy phạm pháp luật hành chính. Để tìm hiểu hơn về vẫn đề này
chúng ta cùng đi phân tích đề tài “ Phân tích vai trò của cơ quan hành
chính nhà nước trong việc xây dựng và thực hiện quy phạm pháp luật
hành chính”.
GIẢI QUYẾT VẪN ĐỀ
I.
CƠ SỞ LÍ LUẬN.
1. Khái niệm và đặc điểm của cơ quan hành chính nhà nước và quy
phạm pháp luật hành chính.
a. Khái niệm và đặc điểm của cơ quan hành chính nhà nước.
Chúng ta biết rằng “cơ quan hành chính nhà nước là bộ phận cấu thành
của bộ máy nhà nước, trực thuộc trực tiếp hoặc gián tiếp cơ quan quyền lực
nhà nước cùng cấp, có phương tiện hoạt động chủ yếu là hoạt động chấp
hành – điều hành, có cơ cấu tổ chức và phạm vi thẩm quyền do pháp luật
quy định”. Định nghĩa trên được xây dựng từ việc xem xét tất cả các đặc
điểm riêng biệt nhất của cơ quan hành chính nhà nước. Đây là những đặc
điểm để phân biệt cơ quan hành chính nhà nước với các cơ quan nhà nước
khác trong bộ máy nhà nước nói chung. Chúng ta thấy rằng khái niệm trên
được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc sau của cơ quan hành chính nhà
nước:
- Các cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan có chức năng quản lí hành
chính nhà nước.
- Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước được thành lập từ trung ương
tới địa phương, đứng đầu là chính phủ.
- Thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước được pháp luật quy
định.
- Các cơ quan hành chính nhà nước đều trực tiếp hoặc gián tiếp trực thuộc


cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.
- Các cơ quan hành chính nhà nước có hệ thống đơn vị cơ sở trực thuộc.
Đây là những đặc điểm của các cơ quan hành chính nhà nước, dựa vào
những đặc điểm này chúng ta cũng sẽ có những nhận định về vai trò của nó
trong hệ thống bộ máy nhà nước nói chung.
b. Khái niệm và đặc điểm của quy phạm pháp luật hành chính.
1


Chúng ta thấy rằng “Quy phạm pháp luật hành chính là một dạng cụ thể
của quy phạm pháp luật, được ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong qua trình quản lí hành chính theo phương pháp mệnh lệnh đơn phương”. Khái niệm trên được xây dựng từ những đặc điểm:
Các quy phạm pháp luật hành chính chủ yếu do các cơ quan hành
chính nhà nước ban hành.
Các quy phạm pháp luật hành chính có số lượng lớn và có hiệu lực
pháp lí khác nhau.
Các quy phạm pháp luật hành chính hợp thành một hệ thống trên cơ
sở các nguyên tắc pháp lí nhất định.
Chúng ta nhận thấy rằng ngay từ đặc điểm của các quy phạm pháp luật
hành chính phần nào cũng đã nêu được vai trò chủ đạo của các cơ quan hành
chính nhà nước trong việc xây dựng các quy phạm pháp luật hành chính này.
2. Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước của Việt Nam theo
pháp luật hiện hành.
Việc phân tích vai trò của cơ quan hành chính nhà nước yêu cầu chúng ta
phải hiểu rõ hệ thống về các cơ quan hành chính nhà nước. Chúng ta biết
rằng việc thành lập các cơ quan hành chính nhà nước phải theo pháp luật
quy định, theo pháp luật hiện hành thì hệ thống cơ quan hành chính nhà
nước bao gồm: Chính phủ và ủy ban nhân dân các cấp.
- Chính phủ:
Theo quy định tại Điều 2 Luật tổ chức chính phủ năm 2001 thì cơ cấu tổ

chức của chính phủ gồm có: các bộ và cơ quan ngang bộ. Theo quy định
hiện hành thì có 18 bộ và 4 cơ quan ngang bộ. Theo quy định tại điều 3 thì
chính phủ gồm có: Thủ tướng chính phủ, các phó thủ tướng chính phủ, bộ
trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ (hiện nay có 5 phó thủ tướng).
- Ủy ban nhân dân các cấp: (có ba cấp)
+ BND Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (hiện nay 58 tỉnh và 5 thành
phố trực thuộc trung ương - gọi chung là cấp tỉnh).
+ UBND Huyện, thành phố thuộc tỉnh, quận và thị xã (hiện nay 48 thành
phố thuộc tỉnh,47 quận, 46 thị xã và 556 huyện - gọi chung là cấp huyện).
+ UBND Xã, phường, thị trấn (hiện nay 1366 phường, 625 thị trấn, 9121 xã
- gọi chung là cấp xã).
- Các căn cứ này dựa trên quy định của pháp luật:
+ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được
sửa đổi bổ sung.
+ Luật tổ chức chính phủ năm 2001.
+ Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2004.
+ Nghị quyết số: 01/2007/QH12 về cấu tổ chức của chính phủ và số phó thủ
tướng chính phủ nhiệm kỳ khóa XII.
2


+ Nghị quyết số: 02/2007/QH12 Phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng chính
phủ về việc bổ nhiệm các phó Thủ tướng chính phủ, các bộ trưởng và thành
viên khác của chính phủ nhiệm kỳ khóa XII.
Trên đây là hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước Việt Nam theo
pháp luật hiện hành, và hệ thống các quy định của pháp luật về cơ cấu của
cơ quan hành chính nhà nước. Đây là cơ sở để phân tích và đánh giá về vai
trò của các cơ quan này trong việc xây dựng và thực hiện các quy phạm
pháp luật.
3. Vai trò của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc xây dựng

và thực hiện các quy phạm pháp luật.
a. Vai trò trong việc xây dựng các quy phạm pháp luật hành chính.
Chúng ta thấy rằng “xây dựng” có thể hiểu là tạo dựng nên, làm nên hay
làm hoàn chỉnh hơn vấn đề. Vậy theo cách hiểu này thì xây dựng các quy
phạm pháp luật hành chính đó chính là hoạt động làm nên, tạo nên hay làm
hoàn chỉnh hơn các quy phạm pháp luật hành chính hay chính xác hơn đó
chính là các văn bản quy phạm pháp luật hành chính của các cơ quan hành
chính nhà nước. Trên thực tế nói chung các vai trò xây dựng các quy phạm
pháp luật đó gồm có:
- Các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền sẽ có vai trò chỉ đạo,
xây dựng các dự án luật, dự án pháp lệnh, và trình các dự án luật, dự án
pháp lệnh trước Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền sẽ có vai trò ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền để thi hành Hiến
pháp, luật, nghị quyết, pháp lệnh của các cơ quan quyền lực nhà nước,
quyết định của Chủ tịch nước và các văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan hành chính nhà nước cấp trên và thực hiện chức năng nhiệm vụ của
mình.
- Các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền sẽ có vai trò rà soát, hệ
thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời kiến nghị sửa đổi,
bổ sung, thay thế, hủy bỏ, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành các văn bản
quy phạm pháp luật trái với quy định.
Có thể nói rằng đây là những vai trò nói chung của các cơ quan hành
chính nhà nước, còn tùy thuộc vào chức năng, thẩm quyền mà mỗi cơ quan
hành chính nhà nước lại có những vai trò khác nhau trong việc xây dựng các
quy phạm pháp luật hành chính, mà trong phần phân tích dươi đây chúng ta
sẽ cùng làm rõ.
b. Vai trò trong việc thực hiện các quy phạm pháp luật hành chính.
Chúng ta thấy rằng “thực hiện” có thể hiểu là làm cho trở thành sự thật
bằng những việc làm và hành động cụ thể. Vậy chúng ta thấy rằng thông qua

đây có thể hiểu được thực hiện các quy phạm pháp luật hành chính đó chính
3


là hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước nhằm làm cho các quy
phạm pháp luật hành chính đó đi vào thực tế quản lí hành chính nhà nước
trên cơ sở nhiệm vụ và thẩm quyền của mình. Vậy có thể thấy rằng vai trò
của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc thực hiện quy phạm pháp
luật hành chính thể hiện như sau:
- Các cơ quan hành chính nhà nước căn cứ vào thẩm quyền, chức năng
nhiệm vụ của mình để thực thi các quy phạm pháp luật hành chính, đưa
các quy phạm pháp luật này đi vào thực tế, triển khai thực thi trên khắp
cả nước thông qua hệ thống cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương
tới địa phương.
- Các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền quyết định các biện
pháp chỉ đạo, kiểm tra và đôn đốc việc thi hành Hiến pháp, pháp luật, các
văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan cấp trên trong các cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công
dân; tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và
pháp luật; báo cáo với các cơ quan quyền lực nhà nước về việc triển khai
và thực thi các văn bản quy phạm pháp luật.
- Tổ chức và lãnh đạo các công tác thanh tra các cấp, các ngàng thuộc
thẩm quyền, tổ chức và chỉ đạo giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
- Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật của
cơ quan cấp dưới trái với các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan
cấp trên.
- Các cơ quan hành chính nhà nước còn căn cứ các quy định của pháp luật
về thẩm quyền của mình để bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các thành
viên của cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới.
Trên đây là các vai trò của cơ quan hành chính nhà nước trong việc thực

thi các quy phạm pháp luật hành chính. Đây là những căn cứ để chúng ta có
thể phân tích cụ thể hơn các vai trò của cơ quan hành chính nhà nước trong
việc thực hiện các quy phạm pháp luật hành chính.
II.
PHÂN TÍCH.
1. Phân tích vai trò của cơ quan hành chính nhà nước trong việc
xây dựng quy phạm pháp luật hành chính.
Chúng ta thấy rằng trên thực tế thì những vai trò này của các cơ quan
hành chính nhà nước diễn ra hàng ngày, hàng giờ trên toàn thể đất nước
thông qua hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, trên căn cứ là các quy
định của pháp luật. Vậy những vai trò xây dựng các quy phạm pháp luật của
cơ quan hành chính nhà nước cụ thể như thế nào thì chúng ta cùng đi vào
phân tích như sau:

4


Thứ nhất: Các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền sẽ có
vai trò chỉ đạo, xây dựng các dự án luật, dự án pháp lệnh, và trình các dự
án luật, dự án pháp lệnh trước Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Chúng ta thấy rằng đóng vai trò trong việc xây dựng các văn bản quy phạm
pháp luật là luật và pháp lệnh thì pháp luật quy định. (căn cứ theo Điều 18
luật tổ chức chính phủ năm 2001) Chính phủ trình các dự án luật trước Quốc
hội, dự án pháp lệnh trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và chương trình của
Chính phủ về xây dựng luật, pháp lệnh với Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Căn
cứ theo quy định tại khoản b điểm 1 điều 20 Luật tổ chức chính phủ thì Thủ
tướng chính phủ có vai trò chỉ đạo việc xây dựng các dự án luật trình Quốc
hội, các dự án pháp lệnh trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội, và theo quy định
tại khoản 2 điều 23 Luật tổ chức chính phủ thì bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan
ngang bộ có vai trò chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác

theo sự phân công của Chính phủ. Và dựa trên các quy định trên về thẩm
quyền của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc xây dựng luật và
pháp lệnh, thì tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 là
môt căn cứ pháp lí quy định chi tiết và cụ thể các vai trò trên của cơ quan
hành chính nhà nước. Tại khoản 2 điều 30 Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2008 quy định“Trường hợp dự án luật, pháp lệnh, dự thảo
nghị quyết do Chính phủ trình thì Chính phủ giao cho một bộ hoặc cơ quan
ngang bộ chủ trì soạn thảo; cơ quan được giao chủ trì soạn thảo có trách
nhiệm thành lập Ban soạn thảo”. Chúng ta thấy rằng các bước thực hiện quá
trình xây dựng mọi văn bản quy phạm pháp luật thì Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật là một căn cứ pháp lí căn bản. Chúng ta thấy rằng việc
tham gia xây dựng luật và pháp lệnh của chính phủ thể hiện vai trò của các
cơ quan hành chính nhà nước trong việc xây dựng các quy phạm pháp luật
hành chính, những vấn đề có liên quan đến thẩm quyền quản lí của các cơ
quan hành chính nhà nước thể hiện sự đóng góp của các cơ quan hành chính
nhà nước, để khi ra đời thì các văn bản quy phạm pháp luật này thật sự được
chính các cơ quan này áp dụng một cách có hiệu quả và khao học.
Thứ hai: Các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền sẽ có vai
trò ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền để thi hành
Hiến pháp, luật, nghị quyết, pháp lệnh của các cơ quan quyền lực nhà nước,
quyết định của Chủ tịch nước và các văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan hành chính nhà nước cấp trên và thực hiện chức năng nhiệm vụ của
mình. Chúng ta thấy rằng thực tế thì các văn bản quy phạm pháp luật hành
chính có số lượng lớn là chính từ việc các cơ quan hành chính nhà nước
trong lúc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình đã ban hành để cụ thể hóa
các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan quyền lực nhà nước, các quyết

5



định của Chủ tich nước và văn bản dưới luật của cơ quan hành chính nhà
nước cấp trên. Theo quy định tại điều 2 của Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2008 thì các cơ quan hành chính nhà nước có quyền
ban hành các loại văn bản quy phạm pháp luật sau:
- Nghị định của chính phủ.
- Quyết định của Thủ tướng chính phủ.
- Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
- Thông tư liên tịch giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
- Quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước.
- Văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân. (theo quy định Luật
ban hành văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân và ủy ban
nhân dân năm 2004 thì ủy ban nhân dân ban hành dưới hình thức quyết
định, chỉ thị).
Chúng ta thấy rằng dựa vào các quy định của pháp luật thì việc ban
hành các loại văn bản quy phạm pháp luật trên, chính là hoạt động xây dựng
trực tiếp các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà
nước nhằm thực hiện chức năng của mình trong hoạt động quản lí hành
chính nhà nước. Qua đây có thể khẳng định rằng việc xây dựng các quy
phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước là việc làm thường
xuyên của các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới địa phương.
Theo số lượng thống kê chúng ta có thể thấy rằng tính đến ngày 29/11/2010
thì chính phủ đã ban hành 111 nghị định, 2161 quyết định của Thủ tướng
chính phủ, chúng ta có thể thấy rằng số lượng văn bản quy phạm pháp luật
do các cơ quan hành chính nhà nước ban hành là rất lớn.
Thứ ba: Các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền sẽ có vai trò
rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời kiến nghị
sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành các văn
bản quy phạm pháp luật trái với quy định. Việc rà soát, hệ thống hóa các văn
bản quy phạm pháp luật có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong hoạt động quản
lí hành chính nhà nước. Việc rà soát này nhằm phát hiện những văn bản quy

phạm pháp luật có dấu hiệu sai phạm và trái với các văn bản của cơ quan
nhà nước cấp trên.
Theo quy định của pháp luật thì hoạt động rà soát, hệ thống hóa các
văn bản quy phạm pháp luật được đặt ra cho các cơ quan hành chính nhà
nước trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Điều 93 Luật ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định: “Cơ quan nhà nước
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thường xuyên
rà soát, định kỳ hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật; nếu phát
6


hiện có quy định trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù
hợp với tình hình phát triển của đất nước thì tự mình hoặc kiến nghị với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ
hoặc đình chỉ việc thi hành”. Về thẩm quyền thực hiện quản lý nhà nước về
công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; giúp Thủ tướng Chính phủ
trong việc kiểm tra, xử lý văn bản có dấu hiệu trái pháp luật của bộ, cơ quan
ngang bộ thì Bộ Tư pháp đóng vai trò này theo quy định tại khoản 3 điều 90
Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.
Trên tất cả các phân tích trên về vai trò của các cơ quan hành chính
nhà nước trong việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật hành chính
chúng ta thấy rằng. Hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hành
chính của cơ quan hành chính nhà nước là một hoạt động thường xuyên và
liên tục trong quá trình quản lí hành chính nhà nước. Để thực hiện chức năng
nhiệm vụ của mình thì các chủ thể quản lí hành chính nhà nước phải ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật, để cụ thể hóa hơn các văn bản quy
phạm pháp luật của cơ quan quyền lực nhà nước và cơ quan hành chính nhà
nước cấp trên. Và cũng thấy rằng cơ quan hành chính nhà nước cũng đóng
một vai trò quan trọng trong việc xây dựng luật và pháp lệnh là những văn
bản quy phạm pháp luật chứa đựng các quy phạm pháp luật hành chính,

chính những hoat động này giúp các cơ quan hành chính nhà nước trình bày
các quan điểm, góp phần xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, từ đó
các văn bản quy phạm pháp luật hành chính này lại được chính các chủ thể
này tiến hành áp dụng vào thực tế để quản lí nhà nước trong lĩnh vực hành
pháp, qua đó thì hiệu quả hoạt động sẽ cao hơn.
2. Phân tích vai trò của cơ quan hành chính nhà nước trong việc
xây thực thi quy phạm pháp luật hành chính.
Có thể nói rằng hoạt động thực thi các quy phạm pháp luật trên thực tế
là một nhiệm vụ cơ bản nhất của cơ quan hành chính nhà nước, vì chúng ta
biết rằng các cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận của bộ máy nhà
nước và quản lí nhà nước trong lĩnh vực hành pháp. Các cơ quan hành chính
nhà nước cụ thể hóa các quy phạm pháp luật hành chính của cơ quan nhà
nước cấp trên ban hành. Có thể nhìn nhận vai trò thực thi quy phạm pháp
luật hành chính của cơ quan hành chính nhà nước thông qua việc phân tích
các vai trò sau:
Thứ nhất: Các cơ quan hành chính nhà nước căn cứ vào thẩm quyền,
chức năng nhiệm vụ của mình để thực thi các quy phạm pháp luật hành
chính, đưa các quy phạm pháp luật này đi vào thực tế, triển khai thực thi trên
khắp cả nước thông qua hệ thống cơ quan hành chính nhà nước từ trung
ương tới địa phương. Có thể nhận thấy rằng hoạt động của các cơ quan hành
7


chính nhà nước dựa trên các quy định của pháp luật cụ thể từ trung ương tới
địa phương lại có những chức năng nhiệm vụ khác nhau. Và cũng chính từ
việc quy định của pháp luật mà các cơ quan hành chính nhà nước đã căn cứ
vào đó thực hiện các nhiệm vụ của mình thông qua cụ thể các quy phạm
pháp luật đó. Ví dụ: Chính phủ ban hành nghị định 146/ 2007, nghị định
34/2010 về việc xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đấy
chính là hoạt động cụ thể hóa quy định: pháp lệnh xử phạt hành chính của

Ủy ban thường vụ Quốc hội năm 2002, nhằm đưa các quy phạm pháp luật
hành chính này đi vào thực tiễn quản lí nhà nước trên tất cả đất nước. Nếu
không có các nghị định trên của chính phủ thì việc thực hiện trên thực tiễn sẽ
rất khó vì pháp lệnh chỉ quy định những vấn đề chung nhất và nhiệm vụ của
chính phủ là phải thực thi nó trên căn cứ pháp lệnh đó bằng các hoạt động
quản lí của mình. Trên đây chỉ là một ví dụ để có thể làm sáng tỏ nhận định
trên, còn trên thực tế chúng ta thấy rằng đó là một hoạt động thường xuyên
và liên tục của các cơ quan hành chính nhà nước để thực thi nhiệm vụ của
mình. Hay có rất nhiều các ví dụ như: Việc cụ thể hóa các nghị quyết của hội
đồng nhân dân ở Ủy ban nhân dân các tỉnh, huyện, xã.
Thứ hai: Các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền quyết định
các biện pháp chỉ đạo, kiểm tra và đôn đốc việc thi hành Hiến pháp, pháp
luật, các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan cấp trên trong các cơ quan
nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công
dân; tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp
luật; báo cáo với các cơ quan quyền lực nhà nước về việc triển khai và thực
thi các văn bản quy phạm pháp luật. Theo quy định tại khoản 2 Điều 18 luật
tổ chức chính phủ “Quyết định các biện pháp chỉ đạo và kiểm tra việc thi
hành Hiến pháp, pháp luật, các quyết định của Chính phủ trong các cơ quan
nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công
dân; tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp
luật; báo cáo với Quốc hội về công tác phòng ngừa và chống vi phạm pháp
luật và tội phạm”. Để các văn bản quy phạm pháp luật thực sự được thực thi
thì các cơ quan hành chính nhà nước cấp trên còn có nhiệm vụ đốc thúc,
kiểm tra chỉ đạo việc thực hiện của cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới.
Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương cũng phải kiểm tra và đôn
đốc các cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới nhất là cấp xã (đây là cấp
gần dân nhất và theo lời căn dặn của Bác Hồ thì người cán bộ phải gần dân,
chăm lo cho nhân dân, là nô bộc nhân dân). Việc kiểm tra của các cơ quan
hành chính nhà nước cấp trên có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thúc đẩy

quá trình hoạt động của toàn bộ hệ thống các cơ quan hành chính cấp dưới.
Đó có thể là các văn bản chỉ đạo hoặc đó cũng có thể là những chuyến đi
thăm và khảo sát tình hình thực hiện thực tế. Chúng ta thấy rằng thì các
8


thành viên của các cơ quan hành chính nhà nước cấp trên thường xuyên đi
làm việc xuống cơ quan hành chính nhà nước ở cấp cơ sở trực thuộc. Theo
quy định tại khoản 1 điều 94 Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân
dân năm 2004 thì ủy ban nhân dân cấp tỉnh “Tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra
việc thi hành Hiến pháp, luật, các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan
nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp; tổ chức
thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật ở địa phương”. Có thể
thấy rằng pháp luật hành chính đã quy định rất cụ thể các hoạt động của các
cơ quan hành chính nhà nước để có thể thực thi có hiệu quả nhất các quy
phạm pháp luật hành chính.
Thư ba: Tổ chức và lãnh đạo các công tác thanh tra các cấp, các ngàng
thuộc thẩm quyền, tổ chức và chỉ đạo giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân
dân. Đây cũng là một vai trò qua trọng của các cơ quan hành chính nhà nước
trong việc thực thi các quy phạm pháp luật hành chính. Qua hoạt động thanh
tra thì các cơ quan hành chính nhà nước có thể nắm bắt được tình hình thực
thi các quy phạm pháp luật hành chính ở các cấp dưới, qua đó có những biện
pháp kịp thời để khắc phục nếu phát hiện. Việc giải quyết khiều nại tố cáo
của nhân dân cũng chính là hoạt động thực thi quy phạm pháp luật hành
chính, bằng quyền lực nhà nước trao cho các chủ thể quản lí hành chính nhà
nước sẽ thực thi các quy phạm pháp luật này nhằm giải quyết mọi khúc mắc,
tranh chấp của người dân thuộc thẩm quyền giải quyết của mình. Theo quy
định tại khoản 3 điều 94 Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân
năm 2004 thì ủy ban nhân dân cấp tỉnh “Tổ chức, chỉ đạo công tác thanh tra
nhà nước, tổ chức tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của

công dân theo quy định của pháp luật”, và tại khoản 5 điều 106 lại quy định
ủy ban nhân dân cấp huyện “Tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện công tác kiểm
tra, thanh tra nhà nước; tổ chức tiếp dân, giải quyết kịp thời khiếu nại, tố
cáo và kiến nghị của công dân; hướng dẫn, chỉ đạo công tác hoà giải ở xã,
thị trấn” và khoản 2 điều 107 ủy ban nhân dân cấp xã “Tổ chức tiếp dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân theo thẩm quyền”.
Chúng ta thấy rằng việc thực thi các quy phạm pháp luật cũng được thể hiện
rõ nét qua vai trò kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan
hành chính nhà nước.

9


Thứ tư: Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp
luật của cơ quan cấp dưới trái với các văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan cấp trên. Việc đình chỉ thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật trái
pháp luật cũng chính là việc đảm bảo thực hiện các quy phạm pháp luật của
cơ quan nhà nước cấp trên. Có thể lấy ví dụ như việc thành phố Hà Nội ra
quyết định một người chỉ được đăng kí một chiếc xe máy, đây là một văn
bản quy phạm pháp luật mà chính UBND thành phố Hà Nội đã phải ra quyết
định số 221/QĐ-UB về bãi bỏ việc thí điểm ngừng đăng ký xe máy tại 7
quận nội thành. Đây là văn bản quy phạm pháp luật trái với quy định của
Hiến pháp, việc bãi bỏ quyết định này cũng chính là việc bảo đảm thực hiện
Hiến Pháp.
Thứ năm: Các cơ quan hành chính nhà nước còn căn cứ các quy định
của pháp luật về thẩm quyền của mình để bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
các thành viên của cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới. Việc bổ nhiệm,
miễn nhiệm cách chức cũng thể hiện việc thực thi các quy phạm pháp luật
hành chính, đây chính là hoạt động kiện toàn cơ cấu của các cơ quan hành
chính nhà nước để có thể thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, bằng các

quy định mà pháp luật cho phép các chủ thể quản lí hành chính nhà nước sẽ
kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước
để có thể thực hiện các quy phạm pháp luật hành chính. Ví dụ: Việc cách
chức thứ trưởng của Thủ tướng chính phủ khi phát hiện có sai phạm lớn, và
bổ nhiệm người khác sẽ làm cho cơ quan này hoàn chỉnh hơn để thực hiện
các chức năng của mình.
Chúng ta thấy rằng qua việc phân tích các vai trò trên của cơ quan hành
chính nhà nước trong việc thực thi các quy phạm pháp luật hành chính, thì
có thể nhìn nhận, và đánh giá về hoạt động thực thi các quy phạm pháp luật
của cơ quan hành chính nhà nước là rất đa dạng và phổ biến. Đây là một
trong những hoạt động chủ yếu của các cơ quan hành chính nhà nước, sau
khi cụ thể hóa các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp
trên, thì các cơ quan hành chính nhà nước sẽ triển khai và thực thi nó trên
thực tế, thông qua hệ thống cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới
địa phương.
10


3. Đánh giá về vai trò của cơ quan hành chính nhà nước trong việc
xây dựng và thực hiện quy phạm pháp luật hành chính hiện nay.
Có thể nói rằng trên thực tế hiện nay thì vấn đề xây dựng các văn bản
quy phạm pháp luật và thực hiện còn rất nhiều điều bất cập và hạn chế.
Những bất cập và hạn chế này phần nào đó sẽ kéo lùi hiệu quả hoạt động của
các cơ quan hành chính nhà nước.
- Văn bản quy phạm pháp luật thường sao chép lại các quy định của cấp
trên nên nhìn chung tính khả thi sau khi ban hành không cao, đến lúc thực
hiện thì còn chung chung và chưa thực sự thực thi có hiệu quả.
- Việc xây dựng Quyết định, Chỉ thị của UBND chưa đảm bảo đúng
trình tự, thủ tục luật định. Số lượng văn bản đăng ký ban hành theo các
Chương trình này đạt tỷ lệ không cao, còn mang tính hình thức;

- Dự thảo văn bản gửi thẩm định không đúng quy định làm ảnh hưởng
đến thời gian thẩm định và bị động cho cơ quan thực hiện chức năng thẩm
định. Đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định ở địa phương còn nhiều hạn
chế về trình độ, năng lực. Nội dung thẩm định phần lớn về thể thức, kỹ thuật
trình bày văn bản, chưa đi sâu phân tích nội dung của văn bản;
- Công tác rà soát và hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật ở các
cấp hàng năm chưa được quan tâm đúng mức. Việc gửi văn bản phục vụ cho
công tác kiểm tra chưa kịp thời và chưa đầy đủ theo quy định của pháp luật;
- Mặc dù nội dung thẩm định chủ yếu phát hiện các lỗi về hình thức, kỹ
thuật trình bày nhưng hầu hết các văn bản ban hành vẫn chưa đảm bảo về
mặt trình tự, thủ tục và thể thức, kỹ thuật trình bày theo quy định của pháp
luật;
- Nhiều địa phương còn né tránh việc kiểm tra văn bản nên đã không
ban hành văn bản quy phạm pháp luật mà thay vào đó là ban hành nhiều văn
bản cá biệt có chứa quy phạm pháp luật.
- Nhiều cơ quan hành chính nhà nước còn chưa thật sự nghiêm túc nhìn
nhận, đánh giá lại kết quả khi thực thi các văn bản quy phạm pháp luật hành
chính mà còn thờ ơ. Việc đánh giá rút kinh nghiệm là hoạt động vô cùng
quan trọng của các cơ quan hành chính nhà nước.

11


- Vấn đề thực thi còn gặp nhiều khó khăn vì trình độ cán bộ xã còn thấp
ở nhiều khu vực miền núi, xa xôi, việc kiểm tra đốc thúc gặp nhiều khó
khăn. Còn nhiều các đơn thư khiếu nại tố cáo giải quyết chưa triệt để, để
người dân kiện vượt cấp gây sức ép công việc cho các cơ quan hành chính
cấp trên.
Phải thật sự nhìn nhận và đánh giá lại cách xây dựng và thực hiện các
quy phạm pháp luật ở các địa phương, đây là một trong những bộ phận của

hệ thống có quan hành chính nhà nước mà còn nhiều các bất cập và hạn chế.
Để thực sự xây dựng được một hệ thống cơ quan hành chính nhà nước có
năng lực, làm việc hiệu quả.
KẾT THÚC VẪN ĐỀ
Các cơ quan hành chính nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc
xây dựng và thực các quy phạm pháp luật hành chính do đặc thù của quản lí
hành chính nhà nước, là việc cụ thể hóa các văn bản quy phạm pháp luật của
cơ quan quyền lực nhà nước, quyết định của Chủ tich nước và các văn bản
quy phạm của các cơ quan hành chính nhà nước cấp trên, nên đây là vai trò
rất quan trọng và chủ đạo của các cơ quan hành chính nhà nước. Và qua đây
cũng thấy được trong vai trò xây dựng và thực hiện các quy phạm pháp luật
hành chính thì các cơ quan hành chính nhà nước còn rất nhiều bất cập và hạn
chế cần khắc phục ngay, để có thể xây dựng được một hệ thống cơ quan
hành chính nhà nước thật sự có năng lực, thật sự có hiệu quả, giúp đất nước
phát triển và đem lại lợi ích chính đáng cho nhân dân đúng như bản chất “
nhà nước của dân, do dân và vi dân”.

12


MỤC LỤC
A. MỤC LỤC
B. ĐẶT VẪN ĐỀ
C. GIẢI QUYẾT VẪN ĐỀ
I.

CƠ SỞ LÍ LUẬN.
1. Khái niệm và đặc điểm của cơ quan hành chính nhà nước và
quy phạm pháp luật hành chính.
2. Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước của Việt Nam theo

pháp luật hiện hành.
3. Vai trò của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc xây
dựng và thực hiện các quy phạm pháp luật

II.

PHÂN TÍCH.
1. Phân tích vai trò của cơ quan hành chính nhà nước trong việc xây
dựng quy phạm pháp luật hành chính.
2. Phân tích vai trò của cơ quan hành chính nhà nước trong việc xây
thực thi quy phạm pháp luật hành chính.
3. Đánh giá về vai trò của cơ quan hành chính nhà nước trong việc
xây dựng và thực hiện quy phạm pháp luật hành chính hiện nay.

D. KẾT THÚC VẪN ĐỀ
E. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI – GIÁO TRÌNH LUẬT HÀNH
CHÍNH - NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN.
2. LUẬT HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM 1992 (ĐÃ SỬA ĐỔI BỔ SUNG).
3. LUẬT TỔ CHỨC CHÍNH PHỦ NĂM 2001.
4. LUẬT TỔ CHỨC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN, ỦY BAN NHÂN
DÂN NĂM 2004.
5. LUẬT BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT NĂM
2008.

6. LUẬT BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN ỦY BAN NHÂN DÂN NĂM 2004.
7. NGHỊ QUYẾT SỐ 01/2007/QH12 VỀ CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA
CHÍNH PHỦ VÀ SỐ PHÓ THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ NHIỆM
KỲ KHÓA XII.
8. NGHỊ QUYẾT SỐ 02/2007/QH12 PHÊ CHUẨN ĐỀ NGHỊ CỦA
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC BỔ NHIỆM CÁC PHÓ
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ, CÁC BỘ TRƯỞNG VÀ THÀNH
VIÊN KHÁC CỦA CHÍNH PHỦ NHIỆM KỲ XII.

14



×