Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

CÁC BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG lực TRÌNH bày CHO học SINH GIỎI TRONG dạy học LỊCH sử VIỆT NAM (1919 1930)ở TRƯỜNG THPT CHUYÊN bắc GIANG THỰC NGHIỆM sư PHẠM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.57 KB, 85 trang )

CÁC BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG
LỰC TRÌNH BÀY CHO HỌC SINH
GIỎI TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
VIỆT NAM (1919 - 1930)Ở TRƯỜNG
THPT CHUYÊN BẮC GIANG. THỰC
NGHIỆM SƯ PHẠM


- Một số yêu cầu khi sử dụng các biện pháp phát triển
năng lực trình bày cho học sinh giỏi môn Lịch sử
Việc sử dụng các biện pháp phát triển năng lực trình bày
cho học sinh giỏi mơn Lịch sử là điều cần thiết và phải được áp
dụng trong các tiết học. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp
này phải đem lại hiệu quả, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về kiến
thức, thái độ và kĩ năng.
Thứ nhất, việc lựa chọn các biện pháp phát triển năng lực
trình bày cho học sinh giỏi môn Lịch sử phải hướng vào thực
hiện mục tiêu bài học. Căn cứ vào mục tiêu cụ thể của mỗi bài
học cụ thể (về kiến thức, kĩ năng, thái độ, đóng góp vào phát
triển năng lực), giáo viên sử dụng các biện pháp phát triển năng
lực trình bày cho học sinh một cách hiệu quả nhất.
Thứ hai, phải đảm bảo giúp học sinh nắm vững kiến thức
cơ bản của bài học. Học sinh nắm vững các sự kiện, có biểu
tượng chính xác, nắm vững các khái niệm có trong bài học. Việc
đảm bảo chuẩn kiến thức là cơ sở để thực hiện các mục tiêu
giáo dục khác khi tiến hành bài học lịch sử.
Thứ ba, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo


của học sinh. Giáo viên phải yêu cầu, hướng dẫn và tổ chức
điều khiển học sinh phát triển tư duy độc lập, sáng tạo, biết cách


trình bày các dạng bài tập lịch sử trong quá trình học, biết tự đặt
vấn đề và giải quyết các vấn đề đặt ra. Các em ln ln có ý
thức tìm hiểu để làm sáng tỏ các sự kiện lịch sử và giải thích vì
sao như vậy? Trên cơ sở hiểu biết của bản thân, các em tự rút ra
nhận xét, đánh giá về các sự kiện và vấn đề lịch sử, vận dụng
hiểu biết vào thực tiễn cuộc sống. Học sinh say mê, kiên trì,
hứng thú tự giác học tập, ln có ý chí vươn lên để tự hồn
thiện mình.
Ví dụ ở phần lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930
cần phải đạt được những yêu cầu sau:
Về kiến thức
Các biện pháp này khi sử dụng phải cung cấp đầy đủ các
kiến thức cơ bản cũng như nâng cao cho học sinh trong giai
đoạn lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930. HS phải
trình bày được những đơn vị kiến thức sau:
- Trình bày được những nét chính của tình hình thế giới
sau Chiến tranh thế giới thứ nhất có ảnh hưởng tới Việt Nam.


- Trình bày được nội dung Chương trình khai thác thuộc
địa lần thứ hai của thực dân Pháp ở Đông Dương.
- Tóm tắt được sự biến đổi về mặt kinh tế và xã hội Việt
Nam từ đó phân tích được địa vị kinh tế, thái độ chính trị và khả
năng cách mạng của mỗi giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt
Nam thời thuộc địa; rút ra được mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội
Việt Nam lúc đó.
- Trình bày được điều kiện lịch sử và các hoạt động tiêu
biểu của phong trào yêu nước: Hoạt động của người Việt Nam
yêu nước ở nước ngoài (Trung Quốc và Pháp), những hoạt động
của tư sản và tiểu tư sản, phong trào đấu tranh của cơng nhân.

- Trình bày được những hoạt động và phân tích vai trị của
Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam.
- Trình bày được sự ra đời, hoạt động và vai trò của các tổ
chức cách mạng: Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tân Việt
Cách mạng đảng, Việt Nam Quốc dân đảng.
- Phân tích được nguyên nhân thất bại và ý nghĩa lịch sử
của phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản ở Việt Nam.
- Trình bày và nhận xét được sự phát triển của phong trào


cơng nhân sau Chiến tranh thế giới thứ nhất.
- Lí giải được nguyên nhân và sự xuất hiện của ba tổ chức
cộng sản năm 1929.
- Trình bày được hồn cảnh lịch sử và nội dung Hội nghị
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Phân tích được ý nghĩa sự
ra đời của Đảng.
- Trình bày và nhận xét được nội dung Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng.
- Đánh giá được vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với cách
mạng Việt Nam từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đến đầu
năm 1930.
- Phân biệt được các khái niệm: lý luận cách mạng giải
phóng dân tộc; cách mạng tư sản dân quyền, cách mạng thổ địa
(trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Luận cương lĩnh
chính trị tháng 10-1930); tự phát, tự giác (trong phong trào công
nhân), lực lượng, động lực cách mạng.
- HS bước đầu vận dụng những kiến thức lịch sử Việt Nam
từ năm 1919 đến năm 1930 vào xem xét các vấn đề của lịch sử
Việt Nam có liên quan và thực tiễn cuộc sống.



Về thái độ
Thông qua các biện pháp phát triển năng lực trình bày cho
học sinh giỏi mơn Lịch sử trong phần lịch sử Việt Nam từ năm
1919 đến năm 1930, học sinh giỏi hình thành được những tư
tưởng, tình cảm sau:
- Học sinh nâng cao tinh thần yêu nước, lòng tự hào về
truyền thống đấu tranh kiên cường của dân tộc, ý thức và trách
nhiệm bảo vệ quê hương, đất nước.
- Học sinh có ý thức tơn trọng, bảo vệ và phát huy nền văn
hóa của dân tộc được hun đúc và xây dựng trong giai đoạn lúc
bấy giờ.
- Học sinh có nhận thức đúng đắn về Đảng Cộng sản Việt
Nam, từ đó các em ln tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng
trong công cuộc xây dựng và bảo về đất nước hiện nay.
- HS biết kính yêu đối với quần chúng nhân dân - động
lực của cuộc cách mạng và cũng là nhân tố góp phần tạo nên
những phong trào cách mạng.
- Học sinh biết ơn, kính trọng đối với những người đi
trước, những người có cơng đối với Tổ quốc, đánh giá đúng vai


trò của những nhân vật lịch sử trong giai đoạn lúc bấy giờ.
- Học sinh có niềm tin, giáo dục lí tưởng xã hội chủ nghĩa.
- Học sinh hiểu được sự phát triển của phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc trong giai đoạn 1919 - 1930 cùng theo
đó là hiểu được ý nghĩa, vai trị, vị trí của sự thành lập Đảng
Cộng Sản Việt Nam năm 1930.
Trên cơ sở đó, học sinh có thái độ chăm chỉ học tập, không
ngừng sáng tạo, hiểu được trách nhiệm của bản thân trong công

cuộc xây dựng và bảo về đất nước.
Cũng trên cơ sở nắm bắt tiến trình phát triển của lịch sử từ
thấp đến cao, học sinh tin tưởng vào con đường phát triển của
dân tộc: con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội là hợp quy luật.
Về kĩ năng
Thông qua các biện pháp phát triển năng lực trình bày cho
học sinh giỏi trong giai đoạn lịch sử Việt Nam từ năm 1919 1930, học sinh không chỉ được rèn luyện và phát triển kĩ năng
trình bày một vấn đề lịch sử mà còn được phát triển tổng hợp
những kĩ năng như: kĩ năng khai thác, sử dụng hình ảnh, bản đồ;
kĩ năng tổng hợp, phân tích, đánh giá, so sánh; kĩ năng trình


bày…Trên cơ sở đó phát triển năng lực cho học sinh.
Về phát triển năng lực
Từ những yêu cầu về kiến thức, kĩ năng và thái độ trong
dạy học lịch sử Việt Nam(1919 – 1930)sẽ góp phần quan trọng
phát triển ở HS những năng lực đặc thù bộ mơn. Qua đó, góp
phần vào việc hình thành phát triển cho HS những phẩm chất
NL cốt lõi, đáp ứng mục tiêu giáo dục phổ thơng.
- Các biện pháp phát triển năng lực trình bày cho HS
giỏi trong dạy học lịch sử Việt Nam (1919 - 1930) trường
THPT Chuyên Bắc Giang
- Nhóm các biện pháp kích thích nhu cầu trình bày của
học sinh
-. Tạo tình huống có vấn đề trong dạy học lịch sử
Trong q trình dạy giảng dạy, giáo viên khơng chỉ là
người cung cấp kiến thức mà còn là người tạo ra những tình
huống có vấn đề để kích thích nhu cầu tranh luận, trình bày
trong tiềm thức của học sinh, từ đó thúc đẩy học sinh nêu ý
kiến, suy nghĩ của bản thân về một vấn đề nào đó. Trên cơ sở

đó, học sinh sẽ có cơ hội được rèn luyện và phát triển năng lực


trình bày của mình. Đặc biệt đối với học sinh giỏi, nhu cầu được
nêu ý kiến, suy nghĩ, bày tỏ quan điểm về những tình huống có
vấn đề trong giờ học lịch sử lại càng trở nên cấp thiết. Vì tâm lý
chung của các em là mong muốn được chiếm lĩnh kiến thức,
được khẳng định bản thân và hiểu sâu hơn những vấn đề lịch sử.
Biện pháp tạo tình huống có vấn đề trong dạy học lịch sử
được thực hiện thơng qua các câu hỏi có vấn đề, những câu hỏi
mang tính chất mâu thuẫn, trái ngược thậm chí phủ định lẫn
nhau để học sinh bộc lộ quan điểm của cá nhân trước mỗi câu
hỏi, mỗi vấn đề.
Tình huống có vấn đề phải hội tụ hai yếu tố cơ bản:
- Một là, phải tồn tại một mâu thuẫn giữa thực tiễn với
trình độ nhận thức của học sinh, giữa cái đã biết và cái chưa
biết.
- Hai là, phải kích thích hứng thú và nhu cầu nhận thức của
học sinh. Tình huống có vấn đề chứa đựng dữ kiện cho trước
hay những điều học sinh đã biết, đồng thời nêu ra những yêu
cầu buộc học sinh phải giải quyết. Thông qua những câu hỏi,
giáo viên đặt học sinh vào tình huống mâu thuẫn, xung đột về


kiến thức, buộc các em phải huy động những kiến thức và kĩ
năng bản thân đã có để giải quyết vấn đề được đặt ra; hoặc giáo
viên có thể đưa ra những ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược
nhau về một sự kiện, vấn đề lịch sử để học sinh đi vào phân tích,
đánh giá, tìm ra ý kiến đúng đắn.
Cách thức tiến hành biện pháp này:

- Bước 1: Giáo viên trình bày vấn đề.
Giáo viên phải sử dụng ngôn ngữ trong sáng dễ hiểu và
những thuật ngữ học sinh đã được học, được hiểu để khơi gợi tư
duy suy nghĩ độc lập vấn đề lịch sử trong học sinh. Giáo viên
phải đặt các em học sinh trong trạng thái mâu thuẫn giữa những
điều mình đã biết và những điều mình chưa biết, khơi gợi những
hướng đi, cách thức giải quyết vấn đề một cách độc lập cho các
em dựa trên những kĩ năng, kiến thức mà các em đã được tích
lũy từ những bài học trước.
- Bước 2: Dẫn dắt học sinh vào tình huống có vấn đề.
Có rất nhiều cách để dẫn dắt học sinh vào tình huống có
vấn đề, như: GV đưa ra một vấn đề lịch sử mà vấn đề đó xuất
hiện nhiều những phương án giải quyết khác nhau, buộc học


sinh phải lựa chọn một phương án giải quyết hữu hiệu nhất.
Ví dụ, khi dạy Bài 14. Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt
Nam từ năm 1919 -1925, giáo viên dẫn dắt và áp dụng tình
huống có vấn đề cho học sinh để học sinh phát huy được năng
lực trình bày như sau:
Giáo viên trình chiếu cho học sinh xem hai đoạn phim tư
liệu ngắn. Một đoạn phim tư liệu mơ tả hình ảnh kinh tế, xã hội
Việt Nam trong những năm trước Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Một đoạn phim tư liệu mô tả kinh tế, xã hội Việt Nam trong
những năm sau Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Trên cơ sở đó, giáo viên yêu cầu HS làm sáng tỏ các vấn
đề:
- Dưới sự thống trị của thực dân Pháp, các yếu tố kinh tế tư
bản chủ nghĩa đã du nhập vào nước ta nhưng Việt Nam không
trở thành một nước tư bản chủ nghĩa?

- Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp
diễn ra ở Đơng Dương và đặc biệt là Việt Nam có để lại những
yếu tố tích cực hay khơng?
Đây là một câu hỏi khó, yêu cầu học sinh phải có sự liên


hệ các kiến thức trước đó đồng thời phải sử dụng vốn kiến thức
của bản thân và những kĩ năng phân tích, đánh giá để lựa chọn
phương án cho riêng mình đồng thời có sự sắp xếp các ý tưởng,
từ ngữ để giải quyết vấn đề. Như vậy, khả năng trình bày của
học sinh đã được rèn luyện và phát triển, khơng chỉ đơn thuần là
việc trình bày vấn đề lịch sử mà cao hơn là bằng khả năng trình
bày vấn đề của mình, học sinh phải chứng minh được lựa chọn
và suy nghĩ của mình là đúng đắn và thuyết phục.
+ Tình huống bác bỏ: đây là tình huống đòi hỏi phải học
sinh phải bác bỏ một luận điểm kết luận ln sai lầm. Để giải
quyết được tình huống này, học sinh phải tìm ra được chỗ yếu,
chỗ sai, chỗ thiếu chính xác của luận điểm hoặc kết luận đó và
chứng minh tính chất sai lầm của những luận điểm đó. Tình
huống này có thể được giáo viên vận dụng linh hoạt trong các
giờ học.
Ví dụ,khi giáo viên dạyBài 15. Phong trào dân tộc dân
chủ ở Việt Nam từ năm 1925 - 1930, sau khi học sinh nắm được
kiến thức cơ bản về các tổ chức cách mạng là Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên, Tân Việt cách mạng Đảng và Việt Nam
Quốc dân Đảng, giáo viên sẽ dẫn dắt vào tình huống bác bỏ như


sau: Sau thời gian hoạt động, cả ba tổ chức cách mạng đều đi
đến sự tan rã. Vậy sự tan rã này phải chăng đều chứng minh sự

thất bại của các tổ chức này trong phong trào yêu nước từ năm
1925 - 1930?
Câu hỏi này sẽ khiến học sinh thấy được điểm sai lầm
trong nhận định. Từ đó, thơi thúc học sinh nêu quan điểm và
chứng minh quan điểm của mình trước giáo viên để “sửa sai”
cho nhận định của giáo viên.
Biện pháp tạo hình huống này khơng chỉ giúp học sinh
phát huy được tính độc lập trong suy nghĩ, giúp học sinh hiểu
sâu vấn đề mà còn là một cách để giáo viên “kiểm tra sự chú ý”
của học sinh trong giờ học.
+ Tình huống vì sao?: Đây cũng là tình huống phổ biến
trong nghiên cứu khoa học và trong dạy học, được sử dụng để
phát triển tổng hợp các năng lực của học sinh, trong đó có năng
lực trình bày.
Ví dụ, khi dạy học Bài 15, để định hướng cho học sinh
hiểu sâu sắc hơn về hoàn cảnh lịch sử, quá trình thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam, ý nghĩa của Hội nghị thành lập Đảng, GV


có thể giới thiệu tạo tình huống có vấn đề thơng qua việc sử
dụng đoạn trích trong báo cáo của Nguyễn Ái Quốc gửi Quốc tế
Cộng sản để giới thiệu vấn đề: Các em thân mến, tới năm 1929,
phong trào cách mạng Việt Nam có nhiều chuyển biến mạnh
mẽ, đặt ra những yêu cầu mới. Trong một báo cáo gửi Quốc tế
Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Tôi cố gắng đi lần thứ ba
khi một đồng chí đi từ Hồng Kơng tới Xiêm và tin cho tơi biết
tình hình Hội An Nam Cách mạng Thanh niên bị tan rã; những
người cộng sản chia thành nhiều phái”[26, tr.13]. Vậy thông qua
bài học hơm nay, chúng ta cùng tìm hiểu xem, vì sao đến năm
1929 những người cộng sản lại chia thành nhiều phái? Tình hình

đó đặt ra u cầu gì đối với cách mạng Việt Nam?
Với cách nêu vấn đề như trên, giáo viên giúp học sinh nắm
được nhiệm vụ nhận thức của mình ngay từ đầu giờ học, các em
có hứng thú, động lực để định hướng, đi tìm kiếm thơng tin,
phân tích sự kiện, sắp xếp các vấn đề một cách logic, chặt chẽ
để giải đáp câu hỏi nêu ra và khi đó học sinh sẽ làm chủ được
kiến thức.
- Tạo khơng khí dân chủ trong giờ học
Trước kia, học sinh đã quá quen với hình thức giáo viên


giảng và học sinh ghi nhớ kiến thức theo những gì giáo viên
cung cấp. Điều đó làm cho học sinh trở nên thụ động, ỷ lại và
những kiến thức mà học sinh thu được dường như là kiến thức
mà học sinh có được từ giáo viên chứ khơng phải kiến thức mà
học sinh tự chiếm lĩnh, tự tìm hiểu. Bên cạnh đó, những quy
định, nội qui trong trường học đã góp phần tạo cho học sinh tâm
lí e dè và sợ sệt. Chính điều đó đã làm cho học sinh khơng có
cảm giác thân thiện và khơng dám thể hiện quan điểm, suy nghĩ
của mình.
Thế kỉ XXI là thế kỉ của khoa học công nghệ, với mục tiêu
giáo dục được UNESSCO đưa ra đó là: “Học để biết - Học để
làm - Học để cùng chung sống - Học để làm người”. Thêm vào
đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đẩy mạnh việc học tập hướng
đến tiếp cận năng lực. Chính vì vậy, giáo viên cần tạo khơng khí
dân chủ trong lớp học để kích thích sự năng động, tư duy độc
lập của học sinh, từ đó phát triển tổng hợp tất cả các kĩ năng,
năng lực của học sinh.
Biện pháp tạo khơng khí dân chủ để phát triển năng lực
trình bày cho HS được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau:

cho học sinh phát biểu suy nghĩ của riêng mình, thuyết trình,


trao đổi, đàm thoại… GV với vai trò là người tổ chức, tham vấn
luôn phải khách quan, công tâm trong đánh giá HS.
Ví dụ, khi dạy Bài 14, GV đặt câu hỏi: Nêu ảnh hưởng của
tình hình quốc tế đối với phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam
sau Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Giáo viên gọi học sinh trả lời, sau đó giáo viên có thể vận
dụng quy tắc 3-2-1 để những học sinh khác nhận xét về phần
trình bày của bạn đồng thời đưa ra câu hỏi để các học sinh có
thể trao đổi, thảo luận với nhau. Ví dụ như: Trong những ảnh
hưởng đó, theo em ảnh hưởng nào là lớn nhất?
Như vậy, học sinh không chỉ chủ động tiếp nhận kiến thức
mà còn được tranh luận, đặt vấn đề... Biện pháp này sẽ tạo sự
thu hút, hứng thú cho học sinh. Tuy nhiên, giáo viên phải kiểm
soát được lớp học và thúc đẩy tất cả học sinh trong lớp tham gia
vào tiết học chứ không để cho tiết học chỉ có hai hoặc ba bạn
học sinh tích cực tham gia tranh luận cịn những bạn khác
khơng tham gia.
- Động viên, khích lệ học sinh trình bày
Đây là một biện pháp không mới nhưng chưa bao giờ là cũ


đối với giáo viên trong quá trình giảng dạy. Dù là học sinh bình
thường hay học sinh giỏi thì động viên, khích lệ ln là một
trong những cách thức để thúc đẩy tinh thần học tập và tạo động
lực cho các em học sinh. Trong một tập thể lớp, mỗi học sinh có
một tính cách, một cách thể hiện bản thân khác nhau. Có những
em ln năng động, mong muốn được thể hiện mình trước đám

đơng tuy nhiên cũng có rất nhiều học sinh, dù năng lực và vốn
kiến thức của các em rất tốt song còn rụt rè, nhút nhát. Nhiều
em khả năng trình bày trên giấy rất tốt nhưng khả năng trình bày
miệng trước tập thể cịn chưa được chăm chút chú ý.
Việc phát triển năng lực trình bày cần diễn ra trên cả hai
mặt: trình bày miệng và trình bày viết. Trên lớp học, GV cần
thường xuyên động viên, cổ vũ, khích lệ để các em học sinh tự
tin trình bày. Ví dụ, như khi thấy các em trình bày cịn ngọng,
sử dụng nhiều ngơn ngữ địa phương thì GV cần nhắc nhở nhưng
khơng vì thế mà chê bai các em. Trong quá trình trình bày, các
em cịn sử dụng từ ngữ chưa chính xác, lập luận thiếu logic…
GV cần phải quan tâm và thường xuyên tạo cơ hội để các em
học sinh đó có dịp để luyện tập, trình bày miệng.
Bên cạnh đó, GV cũng có thể sử dụng việc khen thưởng để


tạo sự thu hút, hứng khởi cho học sinh trong quá trình trình bày
miệng. Việc cộng điểm trong các bài kiểm tra kế tiếp hay những
món quà nhỏ như: sách, vở… dù là những hình thức khen
thưởng khơng mới nhưng luôn luôn là động lực để các em cố
gắng.
Đặc biệt, để các em học sinh tự tin trình bày, khơng có cảm
giác nhút nhát hay sợ sệt thì bản thân GV phải ln tạo được
khơng khí vui vẻ, thoải mái, thân thiết, GV phải tạo cảm giác
như “một người mẹ hiền”, một người sẵn sàng nghe các em chia
sẻ, đồng cảm và ở bên các em. Giáo viên không nên đưa ra
những phán quyết mạnh mẽ với những ý kiến trái chiều của các
em mà hãy động viên, khích lệ , động viên để các em nói hết lập
luận của mình. Đây là điều tưởng chừng dễ dàng thế nhưng lại là
một q trình, nó u cầu bản thân người giáo viên phải ln ln

nỗ lực để hồn thiện bản thân.
Phần lịch sử Việt Nam từ 1919 - 1930 có nhiều sự kiện
lớn, phức tạp, mang tính chất lí luận cao, cho nên việc khích lệ
các em chủ động trình bày miệng trên lớp khơng chỉ tạo khơng
khí học tập trên lớp mà còn là cơ hội để các em HS ghi nhớ kiến
thức, hiểu sâu nội dung bài học và tạo cơ hội để các em rèn


luyện việc tư duy nhanh, tư duy logic và sử dụng từ ngữ chính
xác.
Ví dụ, khi dạy học Bài 14, sau khi dạy mục hoạt động của
tư sản, tiểu tư sản và cơng nhân Việt Nam, GV có thể gọi một
em học sinh bất kì trả lời câu hỏi: “Nhận xét về phong trào yêu
nước của nước ta trong giai đoạn từ 1919 - 1925”
Sau khi HS trả lời, GV vận dụng quy tắc 3-2-1 để nhận xét
HS, tìm ra những điểm tích cực trong phần trình bày để khen
ngợi bên cạnh đó cũng chỉ những điểm cịn hạn chế để em học
sinh đó sửa chữa.
- Nhóm các biện pháp rèn luyện kĩ năng trình bày cho
học sinh
- Tổ chức học nhóm
Tổ chức học nhóm là một hình thức dạy học mang tính
chất hiệu quả cao nhằm phát huy tính cực của học sinh, phát
huy tổng hợp các năng lực của học sinh như trình bày, tranh
biện, làm việc nhóm, thuyết trình…Tổ chức học nhóm là biện
pháp được sử dụng ngày càng nhiều trong quá trình học tập tại
trường THPT bởi lẽ với sự phát triển của khoa học kĩ thuật và


cơng nghiệp u cầu làm việc nhóm lại trở nên cần thiết hơn

bao giờ hết. Khơng có ai thành cơng mà khơng có sự hỗ trợ của
những người xung quanh và khơng ai sinh ra là hồn hảo cả.
Làm việc nhóm sẽ giúp các thành viên khắc phục những điểm
yếu của nhau, đồng thời bù đắp vào đó là những điểm mạnh,
những điểm tốt từ đó tạo nên một chỉnh thể tốt nhất.
Trong học tập cũng vậy, rất ít học sinh học giỏi tồn diện
tất cả các mơn và thậm chí trong một mơn học, mỗi học sinh
cũng giỏi từng phần riêng. Trong mơn Lịch sử cũng vậy, có học
sinh học rất tốt phần lịch sử 1930 - 1945 cũng có học sinh học
giỏi phần 1954 - 1975… Vì vậy, tổ chức học nhóm trong giờ
học Lịch sử khơng chỉ giúp phát huy tính tích cực, làm việc ăn ý
giữa các em mà còn giúp các em học hỏi lẫn nhau từ đó các em
dần hồn thiện bản thân mình. Cùng với đó, tổ chức học nhóm
trong lịch sử cũng giúp các em được phát huy hầu hết các năng
lực, trong đó có năng lực trình bày.
Để thực hiện được biện pháp tổ chức học nhóm trong phát
triển năng lực trình bày cho học sinh giỏi một cách hiệu quả,
giáo viên cần có sự chuẩn bị kĩ lưỡng, lựa chọn nội dung kiến
thức phù hợp để áp dụng vào giờ học của mình. Thêm vào đó,


giáo viên phải có sự khéo léo, linh hoạt để thu hút học sinh tham
gia vào hình thức học tập này.
Tổ chức dạy học nhóm tuy có rất nhiều lợi ích song cũng
tồn tại một số các khuyết điểm như nếu giáo viên khơng kiểm
sốt tốt thì hoạt động nhóm chỉ diễn ra ở một số em học sinh
tích cực còn những em học sinh khác lại ỷ lại, việc kiểm sốt
lớp học trở nên khó khăn, ồn ào và thiếu tập trung…
Để có thể phát huy những điểm mạnh và khắc phục những
khuyết điểm của hình thức học tập này, giáo viên cần phải làm

theo những bước sau:
- Bước 1: GV chia lớp thành các nhóm nhóm, mỗi nhóm
cử một một thư ký để ghi chép lại nội dung của cuộc thảo luận.
Một lưu ý trong quá trình chia nhóm là các nhóm được chia
phải có năng lực đồng đều, khơng để những nhóm nhiều bạn học
tốt hay nhiều nhóm chỉ có những bạn trầm tính, ít phát biểu.
- Bước 2: GV giao nhiệm vụ cho từng nhóm nghiên cứu.
- Bước 3: GV cho học sinh thảo luận trong một thời gian
nhất định.
- Bước 4: Các nhóm cử đại diện lên trình bày về vấn đề đã


thảo luận hoặc giáo viên trực tiếp chỉ định thành viên lên báo
cáo.
- Bước 5: Học sinh các nhóm nhận xét lẫn nhau. Sau đó
giáo viên tổng kết, đánh giá, nhận xét.
Ví dụ, khi dạy mục II, III Bài 13, giáo viên có thể tiến
hành tổ chức dạy học nhóm như sau:
- Bước 1: Giáo viên chia cả lớp thành 3 nhóm học sinh.
- Bước 2: Giáo viên giao nhiệm vụ của từng nhóm như
sau:
+ Nhóm 1: Tìm hiểu đặc điểm Chương trình khai thác
thuộc địa lần thứ hai của Pháp ở Đơng Dương.
+ Nhóm 2: Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, nền kinh tế
nước ta có sự chuyển biến như thế nào?
+ Nhóm 3: Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, xã hội Việt
Nam có sự chuyển biến như thế nào?
- Bước 3: GV phân cơng các nhóm tiến hành thảo luận
trong 3 phút.



Để giải quyết các vấn đề trên, học sinh phải tích cực làm
việc với sách giáo khoa, huy động kiến thức đã học về cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ nhất ở Đông Dương, thảo luận để làm nổi
bật được nội dung, đặc điểm cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
hai của thục dân Pháp, những chuyển biến về kinh tế, xã hội
Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Qua đó học sinh
đánh giá được tác động của sự chuyển biến về kinh tế, xã hội
đến phong trào yêu nước Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ
nhất.
- Bước 4: Các nhóm cử đại diện lên trình bày về vấn đề đã
thảo luận hoặc giáo viên trực tiếp chỉ định thành viên lên báo
cáo.
- Bước 5: Giáo viên yêu cầu các nhóm vận dụng quy tắc 32-1 để đặt câu hỏi cho nhóm trình bày cũng như nhận xét về
phần trình bày của các nhóm. Sau đó, giáo viên sẽ là người nhận
xét, đưa ra đánh giá và tổng kết các đơn vị kiến thức mà học
sinh cần nắm được.
Nếu áp dụng hiệu quả biện pháp này trong q trình dạy
học, giáo viên khơng chỉ tạo khơng khí dân chủ, thoải mái trong
lớp, tạo sự hứng thú cho học sinh mà còn giúp các em nâng cao


khả năng thuyết trình, làm việc nhóm, từ đó rèn luyện và phát
huy năng lực trình bày đặc biệt là năng lực trình bày miệng của
các em học sinh.
- Tổ chức trao đổi đàm thoại thầy - trò, trò - trò
Đối với yêu cầu của đổi mới giáo dục hiện nay là “Lấy học
sinh làm trung tâm”, những biện pháp giáo dục nhằm thúc đẩy
sự năng động, tích cực của học sinh càng được chú trọng và
phát triển không ngừng.

Trước kia, học sinh quá quen với việc thầy đọc - trị chép,
thầy giảng - trị nghe. Hình thức học tập một chiều như vậy dẫn
đến sự thụ động trong học sinh, ngồi kiến thức nắm được, học
sinh khơng phát huy được hết năng lực của bản thân. Ngược lại,
việc tổ chức trao đổi đối thoại trực tiếp giữa thầy và trò, hay trò
- trò tạo nên sự hứng thú trong học sinh, kích thích sự say mê
ham chiếm lĩnh kiến thức và khẳng định bản thân của các em,
tạo cho các em tâm thế làm chủ kiến thức, là người đi khai phá
và có được kiến thức. Từ đó giúp các em thể hiện tư tưởng, tình
cảm, quan điểm của bản thân, phát triển tổng hợp các kĩ năng,
năng lực.


Việc tổ chức trao đổi, đàm thoại thầy - trò được tiến hành
dưới các hình thức: trao đổi, tái hiện, trao đổi phân tích tổng
hợp, trao đổi ơn tập, trao đổi kiểm tra…Tuy nhiên, trao đổi, đàm
thoại thầy - trò được tiến hành theo 3 mơ hình chính:
- Mơ hình 1: Đối thoại thầy - trị riêng biệt. Trong mơ hình
này, việc đối thoại chỉ diễn ra 1 - 1 riêng biệt giữa một thầy và
một trò. Giáo viên là người đặt câu hỏi và sau đó học sinh là
người trả lời hầu hết các câu hỏi đó. Từ đó giáo viên sẽ chốt vấn
đề.
Ví dụ, khi dạy Bài 14, giáo viên tiến hành đối thoại thầy trò:
GV: Sự kiện nào đánh dấu bước phát triển mới của giai cấp cơng
nhân Việt Nam?
HS: Nêu sự kiện.
GV: Vì sao sự kiện đó được coi là mốc đánh dấu bước phát
triển mới của phong trào cơng nhân Việt Nam?
HS: Lí giải.
- Mơ hình 2: Đối thoại một thầy và nhiều trị. Giáo viên sẽ



×