Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này(8 điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.23 KB, 14 trang )

Đại học Luật Hà Nội

Mục lục
A, ĐẶT VẤN ĐỀ
B, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I, Khái quát chung ………………………………………………………….1
1, Chia tài sản chung của vợ và chồng trong thời kì hôn nhân………………1
2, Ý nghĩa của việc xác định hậu quả pháp lí của việc chia tài sản chung trong
thời kì hôn nhân………………………………………………………………3
II, Cơ sở pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì
hôn nhân và hậu quả pháp lý……………………………………………….3
1, Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân…………………..3
2, Cơ sở xác định hậu quả pháp lý……………………………………...……4
III, Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời
kỳ hôn nhân ………….………………………………………………………5
1, Về cấp dưỡng……………………………………………………………….5
2, Về nhân thân………………………………………………………………..6
3, Về tài sản……………………………………………………………….…..7
IV, Những hạn chế và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề
này…………………………………………………………………….……..10
1, Một số hạn chế…………………………………………………...….……10
2, Giải pháp hoàn thiện………………………...……………….……………11
C, KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Bài tập học kỳ

-0-


Đại học Luật Hà Nội



A, ĐẶT VẤN ĐỀ
Hôn nhân và gia đình là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu đối
với người Việt Nam. Do đó, người Việt Nam thường đề cao lợi ích của gia
đình hơn là lợi ích của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay, vì sự
biến đổi không ngừng của nền kinh tế thị trường nên nó tác động không nhỏ
đến đời sống gia đình. Tài sản chung của vợ chồng lúc này không chỉ được sử
dụng vì những nhu cầu đảm bảo đời sống gia đình mà còn được đưa vào kinh
doanh với mục đích sinh lợi. Giữa vợ và chồng cũng phát sinh những nhu cầu
riêng biệt, vì vậy chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đã đáp
ứng được nhu cầu đó và ngày càng trở lên hữu ích.
Nhằm đảm bảo lợi ích của vợ chồng, tôn trọng quyền sở hữu tài sản riêng
của công dân cũng như tạo điều kiện tốt nhất cho vợ, chồng có điều kiện sản
xuất kinh doanh thì luật HNGĐ năm 2000 đã công nhận quyền có tài sản
riêng của vợ chồng và việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn
nhân. Mặc dù luật hôn nhân gia đình và các văn bản hướng dẫn đã quy định
về vấn đề này, tuy nhiên thực tiễn áp dụng cũng gặp phải những vướng mắc
khi xác định hậu quả pháp lý chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì
hôn nhân. Trong điều kiện bài tập học kì lần này, em sẽ đi tìm hiểu vấn đề:
“Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn
nhân và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này”
B, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I, Khái quát chung
1, Chia tài sản chung của vợ và chồng trong thời kì hôn nhân
1.1, Tài sản của vợ, chồng
Tài sản theo quy tại Điều 163 BLDS 2005 gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và
các quyền tài sản.
Bài tập học kỳ

-1-



Đại học Luật Hà Nội

Tài sản chung của vợ chồng đó là tài sản thuộc sở hữu chung do vợ, chồng
tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu
nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kì hôn nhân; tài sản mà vợ
chồng được thừa kế chung hoặc tặng cho chung và những tài sản sản khác mà
vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Tài sản riêng của vợ, chồng đó là tài sản thuộc sở hữu riêng của mỗi
người, đó có thể là tài sản có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng,
được tặng cho riêng trong thời kì hôn nhân hoặc tài sản được chia riêng cho
vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật HNGĐ; đồ
dùng, tư trang cá nhân.
1.2, Chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân
Có thể hiểu, chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là
việc chuyển một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của
vợ chồng thành tài sản riêng của vợ hoặc chồng theo sự thoả thuận của vợ
chồng hoặc theo quyết định của Toà án. Tóm lại, chia tài sản chung của vợ
chồng là phân chia tài sản chung của vợ chồng thành từng phần thuộc sở hữu
riêng của vợ và của chồng.
Như vậy, chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là việc chia tài sản chung
của vợ chồng khi hôn nhân chưa chấm dứt. Chính vì thế, việc chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt quan hệ vợ
chồng trước pháp luật, không làm chấm dứt chế độ sở hữu chung hợp nhất
giữa vợ và chồng. Sau khi chia, họ vẫn có thể nhập tài sản riêng vào tài sản
chung để duy trì khối tài sản chung hợp nhất, tránh cho vợ chồng rơi vào tình
trạng biệt sản.
Hậu quả pháp lí của việc chia tài sản chung giữa vợ và chồng trong thời kì
hôn nhân chính là sự thay đổi về các khối tài sản


Bài tập học kỳ

-2-


Đại học Luật Hà Nội

2, Ý nghĩa của việc xác định hậu quả pháp lí của việc chia tài sản chung
trong thời kì hôn nhân
Trong nhiều năm trước đây, khi mà luật HN&GĐ năm 2000 chưa ra đời, thực
tế giải quyết các vụ án về hôn nhân và gia đình đã gặp nhiều khó khăn và
vướng mắc khi chưa có quy định cụ thể và hướng dẫn thi hành về hậu quả
pháp lí của việc chia tài sản chung giữa vợ và chồng trong thời kì hôn nhân.
Điều 30 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định về vấn đề này đã khắc phục hạn
chế về thiếu sót của luật HN&GĐ trước đây, cho thấy hướng giải quyết cụ thể
các vụ án hôn nhân và gia đình. Quy định này cho thấy sự tiến bộ trong tư
duy lập pháp của các nhà làm luật…
II, Cơ sở pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì
hôn nhân và hậu quả pháp lý
1, Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân như sau:
“1. Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng,
thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng
có thể thỏa thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành
văn bản; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ
về tài sản không được pháp luật công nhận”.
Điều 6 Nghị định số 70/2001/NĐ – CP quy định chi tiết thi hành luật Hôn

nhân gia đình về chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân như
sau:
“1. Thoả thuận chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân quy
định tại khoản 1 Điều 29 của Luật Hôn nhân và gia đình phải được lập thành
văn bản và ghi rõ các nội dung sau đây:
Bài tập học kỳ

-3-


Đại học Luật Hà Nội

a) Lý do chia tài sản;
b) Phần tài sản chia (bao gồm bất động sản, động sản, các quyền tài sản);
trong đó cần mô tả rõ những tài sản được chia hoặc giá trị phần tài sản được
chia;
c) Phần tài sản còn lại không chia, nếu có; d) Thời điểm có hiệu lực của việc
chia tài sản chung;
đ) Các nội dung khác, nếu có.
2. Văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải ghi rõ ngày,
tháng, năm lập văn bản và phải có chữ ký của cả vợ và chồng; văn bản thoả
thuận có thể có người làm chứng hoặc được công chứng, chứng thực theo yêu
cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.
3. Trong trường hợp vợ, chồng không thoả thuận được về việc chia tài sản
chung, thì cả hai bên hoặc một bên có quyền yêu cầu Toà án giải quyết.”
Theo quy định trên thì việc chia tài chung trong thời kì hôn nhân còn tồn tại
được tiến hành trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, trường hợp vợ chồng có đầu tư kinh doanh riêng
Thứ hai, trường hợp vợ chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng
Thứ ba, trường hợp có lý do chính đáng khác xuất phát từ lợi ích của gia đình,

vợ chồng hoặc người thứ ba.
Bên cạnh đó, các nhà làm luật cũng dự liệu trước trường hợp vợ, chồng có thể
lạm dụng quyền của mình trong việc chia tài sản chung có thể gây hậu quả
xấu, xâm phạm tới lợi ích hợp pháp khác nên cũng quy định việc chia tài sản
chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ tài sản thì không
được công nhận, đây là quy định rất tiến bộ.
2, Cơ sở xác định hậu quả pháp lý
Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về hậu quả chia tài
sản chung của vợ chồng: “Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng
thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của
Bài tập học kỳ

-4-


Đại học Luật Hà Nội

mỗi người; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ
chồng”.
Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ – CP quy định chi tiết thi hành luật Hôn
nhân gia đình về hậu quả pháp lí của việc chia tài sản chung của vợ, chồng
trong thời kỳ hôn nhân như sau:
“1. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thì thuộc sở hữu riêng
của mỗi người, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác. Hoa lợi, lợi tức
phát sinh từ phần tài sản chung còn lại vẫn thuộc sở hữu chung của vợ,
chồng.
2. Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập
hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của
vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác.”
Như vậy, có thể thấy hậu quả pháp lý của vấn đề chia tài sản chung của vợ

chồng trong thời kì hôn nhân được chia thành: vấn đề về tài sản riêng được
chia và tài sản chung không chia giữa vợ, chồng.
III, Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời
kỳ hôn nhân
Từ quy định tại Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và quy định
chi tiết thi hành tại Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ – CP, có thể thấy việc
chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân dẫn tới hậu quả pháp
lí như sau:
1, Về cấp dưỡng
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm
chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng. Việc chăm sóc giữa vợ chồng
không chỉ thể hiện bằng hành vi chăm sóc về tình cảm, tinh thần mà còn bằng
những phí tổn về vật chất nhằm đảm bảo cuộc sống vợ chồng. Quan hệ cấp
dưỡng giữa vợ chồng là quan hệ tài sản gắn liền với nhân thân vì nó liên quan
Bài tập học kỳ

-5-


Đại học Luật Hà Nội

đến lợi ích về tài sản, được đảm bảo thực hiện khi một trong hai bên vợ chồng
gặp khó khăn, túng thiếu, tai nạn, ốm đau, không có tài sản để nuôi dưỡng bản
thân và có yêu cầu.
2, Về nhân thân
Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt quan
hệ hôn nhân giữa vợ và chồng trước pháp luật, do đó giữa hai bên vẫn tồn tại
mọi quyền và nghĩa vụ của vợ chồng như: nghĩa vụ chăm sóc, giúp đỡ lẫn
nhau, nghĩa vụ chung thuỷ, cùng nhau nuôi dạy con cái… Thực tế cho thấy,
nhiều cặp vợ chồng yêu cầu chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân nhằm

mục đích tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh riêng vì không muốn
ảnh hưởng đến lợi ích gia đình, mặt khác còn là đảm bảo đời sống ổn định của
gia đình. Vì vậy, việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không có
nghĩa là quy định về ly thân. Sau khi chia tài sản chung, vợ chồng có ở riêng
hay không là tuỳ thuộc vào thực tế đời sống cụ thể của vợ chồng, vào ý muốn
của vợ chồng, do vợ chồng quyết định. Trong đa số các trường hợp, sau khi
chia tài sản chung, vợ chồng vẫn chung sống bình thường với nhau, cùng
nhau chăm lo đời sống chung của gia đình phù hợp với tình cảm và nguyện
vọng của bản thân.
Có quan điểm cho rằng việc pháp luật quy định chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân đã gián tiếp thừa nhận tình trạng “ly thân” trong
mối quan hệ vợ chồng. Hiện nay luật HN&GĐ Việt Nam không có quy định
nào “ly thân”. Nói như vậy thì ly thân và chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân rõ ràng là hai vấn đề khác nhau, vì chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt trách nhiệm pháp
lý đối với nhau. Tuy nhiên, việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân
cũng phản ánh 1 phần những rạn nứt, mâu thuẫn trong đời sống vợ chồng dẫn
đến việc quyền lợi cũng như lợi ích của các thành viên trong gia đình không
được đảm bảo. Vấn đề này cũng cần phải xem xét và nghiên cứu nhiều hơn.
Bài tập học kỳ

-6-


Đại học Luật Hà Nội

3, Về tài sản
Theo quy định tại Điều 29 và Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 quy định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì vợ, chồng có
thể chia toàn bộ hoặc chia một phần tài sản chung tuỳ theo sự thoả thuận của

hai người. Nếu vợ chồng không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải
quyết. Khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân sẽ phát sinh những hậu
quả pháp lý liên quan tới tài sản như sau:
3.1, Quyền sở hữu riêng của vợ, chồng đối với phần tài sản được chia
Sau khi chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân, vợ chồng tự quản lý tài sản
riêng của mình nên đương nhiên nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được
thanh toán bằng tài sản riêng. Như vậy có thể coi việc chia tài sản chung trong
thời kì hôn nhân chính là căn cứ xác lập quyền sở hữu của vợ, chồng đối với
tài sản riêng bên cạnh việc sở hữu riêng của mỗi người được xác lập trước đó.
Việc quy định hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thì thuộc sở
hữu riêng của mỗi người, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác là hợp
lý và có cơ sở, phù hợp với các quy định của luật dân sự về các căn cứ xác lập
quyền sở hữu. Bởi lẽ, tài sản chung sau khi được chia thì đó sẽ trở thành tài
sản riêng của vợ và chồng, họ có toàn quyền đối với khối tài sản riêng của
mình, có đầy đủ các quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc quyền
sở hữu của mình như chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Như vậy, theo quy
định của luật thì quyền sở hữu tài sản riêng của vợ chồng được mở rộng phạm
vi đó là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng sẽ thuộc về sở hữu riêng của
vợ chồng.
Bên cạnh đó, tài sản riêng của vợ, chồng sau khi chia còn là thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của
mỗi bên sau khi chia tài sản chung. Việc quy định như vậy cũng hoàn toàn
hợp lí. Sau khi chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân mà mục đích chính là
việc có vốn để kinh doanh thì thu nhập từ những vốn xuất phát từ tài sản riêng
Bài tập học kỳ

-7-


Đại học Luật Hà Nội


phát sinh hoa lợi từ hoạt động kinh doanh có hiệu quả thì đương nhiên thuộc
về sở hữu riêng của vợ, chồng.
Mặc dù nghị định hướng dẫn thi hành chưa có đề cập cụ thể “thu nhập hợp
pháp khác” là gì nhưng theo Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23 tháng
12 năm 2000 thì “những thu nhập hợp pháp khác” có thể được hiểu là tiền
thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng thưởng xổ số, mà vợ, chồng có được hoặc tài
sản mà vợ chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định tại các Điều 247,
248, 249, 250, 251 và 252 BLDS 2005.
Đây có thể là mầm mống của việc thừa nhận sự thỏa thuận của vợ chồng về
tài sản của họ trong Nghị định số 70 của Chính phủ ngày 03 tháng 10 năm
2001 quy định chi tiết thi hành Luật HN-GĐ năm 2000. Cụ thể là trong
trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có qui
định “thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập
hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ,
chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác” (khoản 2, điều 8). Các
qui định này cho thấy ý tưởng của nhà lập pháp trong việc thừa nhận sự thỏa
thuận của vợ chồng đối với khối tài sản của họ.
Như vậy, mặc dù qui định về chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận trong
pháp luật hôn nhân và gia đình không được duy trì cho đến nay ở nước ta
nhưng ý tưởng khôi phục lại nguyên tắc trên đã được bàn bạc và cân nhắc
trong thời gian gần đây. Sự cần thiết và tính cấp thiết của việc luật hóa qui
định này ở nước ta càng rõ ràng hơn khi mà các nước trong khu vực và hầu
hết các quốc gia có nền lập pháp tiên tiến trên thế giới đều đã thừa nhận và áp
dụng.
Tuy nhiên, trường hợp tài sản riêng của vợ hoặc chồng mà hoa lợi, lợi tức từ
tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình hoặc đã chia một phần tài
sản mà số tài sản chung còn lại không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia
đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự thỏa thuận của cả vợ
Bài tập học kỳ


-8-


Đại học Luật Hà Nội

chồng, tức là vẫn bị hạn chế theo quy định của khoản 4 và khoản 5 điều 33
Luật HNGĐ. Bởi lẽ, chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân không làm
chấm dứt quan hệ hôn nhân, không ảnh hưởng đến các quan hệ nhân thân, vợ
chồng phải cùng nhau chăm lo, xây dựng gia đình vì vậy đây là quy định hợp
lý và cần thiết nhằm đảm bảo cho đời sống gia đình được duy trì ổn định,
hạnh phúc.
3.2, Quyền sở hữu chung của vợ chồng đối với phần tài sản chung
Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định “…phần tài sản còn
lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng”. Điều 8 Nghị định số
70/2001/NĐ–CP quy định rõ thêm: “…Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài
sản chung còn lại vẫn thuộc sở hữu chung của vợ, chồng”. Đối với phần tài
sản chung này, quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng không thay đổi, chế độ sở
hữu chung của vợ chồng chưa chấm dứt, nó vẫn đương nhiên tồn tại và là sở
hữu chung hợp nhất và không có gì phải bàn cãi. Sở hữu chung hợp nhất của
vợ chồng sau khi chia một phần tài sản chung có thể bao gồm các tài sản như
sau:
- Phần tài sản chung của vợ chồng chưa chia.
- Hoa lợi ,lợi tức phát sinh từ những tài sản chung chưa chia .
- Tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung, được thừa kế chung sau khi chia
tài sản chung. Vì quan hệ hôn nhân vẫn đang tồn tại nên tài sản mà vợ chồng
được tặng cho chung, được thừa kế chung là tài sản thuộc sở hữu chung hợp
nhất của vợ chồng.
- Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi chia tài sản chung. Trong
những trường hợp này, quyền sử dụng đất vẫn là tài sản chung của vợ chồng

vì theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì “…
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của
vợ chồng…”. - Quyền sử dụng đất mà mỗi bên vợ hoặc chồng có được sau khi
chia tài sản chung do được Nhà nước giao, giao khoán hoặc được thuê của
Bài tập học kỳ

-9-


Đại học Luật Hà Nội

Nhà nước …Theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
và các Điều 24, Điều 25 của Nghị định số 70/2001/NĐ – CP thì đây là tài sản
chung của vợ chồng.
Một vấn đề rất quan trọng là tài sản mà vợ, chồng làm ra sau khi chia tài sản
chung và hoa lợi, lợi tức phát sinh sau này được quy định cụ thể trong Nghị
định số 70/2001/NĐ – CP tại cả khoản 1 và khoản 2 Điều 8 như sau: “…, trừ
trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác”. Như vậy, nếu mỗi bên vợ, chồng
sau khi chia tài sản chung, nếu vợ chồng có thỏa thuận thì tài sản được chia
riêng cho mỗi bên vợ, chồng cũng có thể là tài sản chung nhằm đảm bảo tốt
nhất cho lợi ích của gia đình.
IV, Những hạn chế và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề
hậu quả pháp lí của việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân
1, Một số hạn chế
Thứ nhất, theo quy định tại Điều 30 luật HN&GĐ,Điều 8 Nghị định số
70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 thì trong trường hợp vợ chồng chia toàn bộ
tài sản chung của mình và không có thỏa thuận gì về việc xác lập tài sản
chung thì tài sản chung của vợ chồng sẽ không còn. Dẫn tới chế độ sở hữu
chung hợp nhất của vợ chồng không tồn tại nữa. Vậy trách nhiệm của các bên
đối với gia đình được xác định ra sao? Cuộc sống trong gia đình sẽ được đảm

bảo như thế nào? Quyền và lợi ích của con chưa thành niên sẽ được bảo vệ ra
sao? Luật HN&GĐ chưa giải quyết được những vấn đề này. Phải chăng đây là
một thiếu sót trong trong quy định của pháp luật.
Thứ hai, khoản 2, Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 định
có phần không hợp lý, trái với nguyên tắc xác định tài sản chung của vợ
chồng. Theo Điều 27 luật HN&GĐ thì tài sản chung của vợ chồng là những
tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân, không phân biệt công sức
đóng góp của mỗi người vào khối tài sản chung. Thế nhưng Khoản 2, Điều 8
Bài tập học kỳ

- 10 -


Đại học Luật Hà Nội

Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 lại quy định những tài sản
hình thành trong thời kỳ hôn nhân sau khi chia tài sản chung trong thời kì hôn
nhân là tài riêng của mỗi người. Tài sản chung thì không phân biệt mức đóng
góp, mức thu nhập của mỗi bên, không đòi hỏi phải do cả hai bên vợ chồng
trực tiếp tạo ra. Trong khi đó lại có quy định, tài sản thuộc sở hữu riêng sau
khi chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân là mọi thu nhập từ lao động, mà
tài sản chung lại xuất phát từ cơ sở cơ bản là lao động mà có. Nên có thể thấy
sự mâu thuẫn rõ ràng trong hai quy định này.
Thứ ba, “Những thu nhập hợp pháp khác” được đề cập ở trên là gì? Nghị
Định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 chỉ cho biết là những những thu
nhập hợp pháp này có được sau khi chia tài sản chung, còn cụ thể là những
thu nhập nào thì không đế cập. Như vậy thì việ xác định những thu nhập hợp
pháp khác sẽ trở thành tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng sau khi chia tài sản
chung trong thời kì hôn nhân sẽ trở nên khó khăn, dẫn tới những tranh chấp…
2, Giải pháp hoàn thiện

Qua những phân tích trên cho thấy quy định về hậu quả pháp lý của việc chia
tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là chưa đầy đủ, chưa hợp lý. Vì vậy, cần
phải quy định cụ thể hơn về hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân, một số giải pháp được đưa ra như sau:
Thứ nhất, pháp luật cần có quy định cụ thể để ràng buộc mối quan hệ và
trách nhiệm của vợ chồng đối với gia đình và con cái thông qua việc quy định
một phần tài sản tối thiểu không được chia để đảm bảo cho các nhu cầu chung
của gia đình, đời sống gia đình được ổn định. Ngoài ra cũng cần qui định cụ
thể: Trong trường hợp vợ chồng không thoả thuận được việc bảo đảm các nhu
cầu chung của gia đình, thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết. Toà án quyết
định mức đóng góp của các bên trên cơ sở nhu cầu thực tế của gia đình và khả
năng kinh tế của các bên hoặc quyết định không chia toàn bộ tài sản chung,
phần tài sản chung không chia được sử dụng cho nhu cầu của gia đình. Để
Bài tập học kỳ

- 11 -


Đại học Luật Hà Nội

bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các con, pháp luật cần qui định rõ:
Trong trường hợp sau khi chia tài sản chung, vợ chồng có tranh chấp về chăm
sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng
lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động, không có thu nhập và không
có tài sản để tự nuôi mình, thì Toà án quyết định theo yêu cầu của vợ, chồng
hoặc của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Thứ hai, cần xem xét lại quy định lại quy định tại khoản 2, Điều 8 Nghị
định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 và quy định tại Điều 27 luật
HN&GĐ để có hướng dẫn thi hành hoặc sửa đổi cụ thể sao cho không có sự
mâu thuẫn giữa nghị định và quy định của luật.

Thứ ba, cần quy định những thu nhập hợp pháp khác gồm những tài sản cụ
thể nào hoặc nhóm nào để xác định được tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng
sau khi chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân…
C, KẾT LUẬN
Với điều kiện kinh tế hiện nay ở nước ta, việc quy định chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân là cần thiết, đáp ứng được yêu cầu của thực
tiễn. Chúng ta có thể thấy, việc chia tài sản chugn trong thời kì hôn nhân là
một chế định mới mẻ trong luật HN&GĐ năm 2000, nó đề cập tới vấn đề khá
nhạy cảm và chưa hẳn là phù hợp với tư duy truyền thống Á Đông. Mặc dù
những năm gần đây, các vụ việc chia tài sản chung giữa vợ và chồng trong
thời kì hôn nhân có xu hướng tăng, song để giải quyết tốt nhất các tranh chấp
có thể xảy ra, bảo đảm hiệu quả điều chỉnh của pháp luật thì các quy định của
pháp luật về vấn đề này cần được quy định một cách chặt chẽ, thống nhất và
hợp lý hơn.

Bài tập học kỳ

- 12 -


Đại học Luật Hà Nội

Danh mục tài liệu tham khảo
1, Giáo trình luật Hôn nhân và gia đình 2012 – NXB Công an nhân dân
2, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
3, Bộ luật dân sự năm 2005
4, Nghị định số 70/NĐ-CP ngày 03/10/ 2001 quy định chi tiết thi hành Luật HNGĐ năm 2000
5, Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000
6, Wedsite
 /> />x?ItemID=16484

 /> />
Bài tập học kỳ

- 13 -



×