Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Đánh giá quy định của bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra môn luật dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.28 KB, 17 trang )

ĐẶT VẤN ĐÊ
Sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, những thành tựu mới của
công nghiệp hóa, cơ giớ hóa đã làm thế giới ngày càng văn minh, hiện đại hơn.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy nó cũng kéo theo sự gia tăng các tai nạn mang tính
khách quan nhiều khi nằm ngoài sự chi phối, điều khiển của con người, đe dọa tới
sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản… của các chủ thể trong xã hội. Trong
khoa học pháp lý xuất hiện thuật ngữ “nguồn nguy hiểm cao độ” để chỉ những sự
vật như vậy. Tự bản thân nguồn nguy hiểm cao độ luôn tạo ra mối nguy hiểm cho
những người xung quanh, mặc dù chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ đã áp dụng các biện pháp phòng ngừa nhưng không thể kiểm
soát được một cách tuyệt đối khả năng gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ.
Bộ luật Dân sự (BLDS) đã quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) do
nguồn nguy hiểm cao độ là một “loại trách nhiệm dân sự nâng cao”. Để hiểu hơn
về vấn đề này, em xin phân tích đề bài: “Đánh giá quy định của Bộ luật Dân sự
năm 2005 về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra”.

NỘI DUNG
I. Khái quát chung về BTTH ngoài hợp đồng và BTTH do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra
1. BTTH ngoài hợp đồng
Trách nhiệm BTTH được đề cập rất sớm trong hệ thống pháp luật của nước
ta. Tuy nhiên, chỉ đến khi BLDS năm 1999 ra đời thì các quy định về trách nhiệm
BTTH mới được đề cập một cách chi tiết. Tiếp đó, BLDS năm 2005 hoàn thiện
hơn nữa các quy định về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Điều 604 BLDS năm
2005 quy định:
“1. Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, xâm phạm
danh dự, uy tín của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiể hại thì phải bồi
thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường
cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó”.


1


Như vậy, theo quy định tại Điều 604 thì trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng
phát sinh khi người có hành vi trái pháp luật có lỗi gây thiệt hại cho các lợi ích
được pháp luật bảo vệ. Có thể đưa ra khái niệm về trách nhiệm BTTH ngoài hợp
đồng như sau: trách nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm pháp lý được phát sinh
dựa trên các điều kiện do pháp luật quy định khi một chủ thể có hành vi gây thiệt
hại cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ.
Theo hướng dẫn tại Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định
của BLDS năm 2005 về BTTH ngoài hợp đồng, điều kiện phát sinh trách nhiệm
BTTH bao gồm:
- Có hành vi trái pháp luật: Hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của
con người được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với các
quy định của pháp luật xâm phạm đến phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích của chủ thể khác. Chỉ những quyền và lợi ích
hợp pháp được pháp luật bảo vệ thì các hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích
mới là hành vi trái pháp luật. Tuy nhiên, trong một số tình huống, hành vi xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp không phải là hành vi trái pháp luật: ví dụ như
bác sĩ phẫu thuật có thể cắt bỏ một số bộ phận của bệnh nhân…
- Phải có thiệt hại xảy ra. Đây là điều kiện tiên quyết của trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng và cũng là điểm khác biệt so với trách nhiệm khi vi phạm hợp
đồng. Thiệt hại là sự giảm sút về lợi ích vật chất của người bị thiệt hại mà họ đã có
hoặc sự mất mát lợi ích vật chất. Thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại
do tổn thất tinh thần.
- Có mối quan hệ nhân quả giữa gây thiệt hại và hành vi trái pháp luật, tức là
hành vi trái pháp luật của người gây thiệt hại phải là nguyên nhân gây ra thiệt hại
thì người gây thiệt hại mới phải BTTH cho người bị thiệt hại.
- Người có hành vi vi phạm pháp luật phải có lỗi, bao gồm lỗi cố ý và lỗi vô

ý. Tuy là một trong những điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng
nhưng vì là hành vi gây thiệt hại nên người thực hiện hành vi đó luôn bị suy đoán
là có lỗi. Người gây ra thiệt hại phải chứng minh mình không có lỗi để không phải
bồi thường hoặc nhằm giảm trách nhiệm BTTH.

2


Tuy đề cập về vấn đề lỗi như vậy, nhưng khoản 2 Điều 604 có quy định
“trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong
trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó” và Điều 623 về BTTH do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra là một quy định như vậy.
2. BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ cao độ gây ra
*Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ
Điều 623 BLDS năm 2005 quy định: “Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm
phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp
đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các
nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định”. Đồng thời, dựa theo Nghị
quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS năm 2005 về BTTH
ngoài hợp đồng có thể thấy pháp luật không đưa ra khái niệm tổng quát về nguồn
nguy hiểm cao độ mà chỉ định nghĩa dưới dạng liệt kê. Trên cơ sở xem xét, đánh
giá về của loại tài sản được coi là nguồn nguy hiểm cao độ trong các văn bản
hướng dẫn, có thể hiểu: “Nguồn nguy hiểm cao độ là những vật chất nhất định do
pháp luật quy định luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cao đối với con người và
môi trường xung quanh, con người không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối”.
Do có tiềm ẩn khả năng gây nguy hiểm như vậy, nên chủ sở hữu, người
chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định của pháp luật đối
với nguồn nguy hiểm cao độ. Nếu những nguồn nguy hiểm cao độ này gây thiệt
hại thì sẽ đặt ra vấn đề BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

*Khái niệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm pháp lý đặc
biệt bởi lẽ thiệt hại xảy ra không phải do hành vi và do lỗi của con người mà do
hoạt động của những sự vật mà hoạt động của chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây
thiệt hại. Mặc dù chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ có
thể không có lỗi đối với thiệt hại nhưng để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người
bị thiệt hại, pháp luật vẫn buộc họ có trách nhiệm bồi thường. Pháp luật dân sự thế
giới cũng như Việt Nam không có bất kỳ một khái niệm đầy đủ nào về trách nhiệm
3


BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nhưng có thể hiểu một cách khái quát,
đó là loại trách nhiệm phát sinh đối với người sở hữu, chiếm hữu nguồn nguy hiểm
cao độ khi hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho môi trường và
những người xung quanh.
Trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được quy định cụ thể
theo Điều 623 BLDS 2005 và Mục III Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày
08/07/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng
một số quy định của BLDS năm 2005 về BTTH ngoài hợp đồng.
II. Đánh giá các quy định của pháp luật về BTTH do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra
1. Các quy định của pháp luật về nguồn nguy hiểm cao độ
Các nguồn nguy hiểm cao độ được đề cập trong khoản 1 Điều 623 BLDS
bao gồm: “phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công
nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ
và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định”. Ngoài ra điểm b
khoản 1 Mục III Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP cũng đã hướng dẫn xác định
nguồn nguy hiểm cao độ. Vì vậy, ngoài việc căn cứ vào khoản 1 Điều 623 thì còn
phải căn cứ vào các văn bản pháp luật hay các quy định có liên quan. Theo đó, các
nguồn nguy hiểm cao độ gồm:

- Phương tiện giao thông vận tải cơ giới: hiện nay, chưa có một văn bản
pháp luật nào chính thức đưa ra khái niệm “phương tiện giao thông vận tải cơ
giới”. Việc xác định cần căn cứ vào Luật Giao thông đường bộ 2008, trong đó
khoản 18 Điều 3 quy định: “Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (sau đây gọi
là xe cơ giới) gồm xe ô tô; máy kéo; rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe
ô tô, máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy
điện) và các loại xe tương tự”. Ngoài phương tiện giao thông vận tải cơ giới đường
bộ, còn có phương tiện giao thông vận tải đường sắt, đường thủy, đường hàng
không. Tuy vậy, còn nhiều loại phương tiện giao thông vẫn nằm ngoài sự kiểm soát
của pháp luật như: xe đạp, xe đạp điện, java…
- Hệ thống tải điện: được hiểu là dây truyền dẫn điện, mô tơ, máy phát
điện… Nhà máy công nghiệp như nhà máy công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ,…
4


đang hoạt động. Cũng như phương tiện giao thông vận tải cơ giới, chúng chỉ được
coi là nguồn nguy hiểm cao độ khi đang ở trạng thái hoạt động.
- Vũ khí bao gồm: vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao, súng săn, công cụ hỗ
trợ,… theo “Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ” ban hành kèm
theo Nghị định 47/1996/NĐ-CP.
- Chất chấy, chất nổ là chất lỏng, chất khí, chất rắn,… dễ gây cháy nổ theo
Điều 3 Luật phòng cháy chữa cháy. Chất cháy có đặc tính tự bốc cháy khi tiếp xúc
với oxy trong không khí, nước hoặc dưới tác động của các yếu tố khác ở nhiệt độ
cao hoặc không cao (diêm, xăng dầu…). Chất nổ có khả năng gây nổ mạnh, nhanh
tỏa nhiệt có phát ra ánh sáng (thuốc nổ, thuốc súng,…).
- Chất độc là những chất có tính độc cao, rất nguy hiểm cho sức khỏe, tính
mạng của con người, sự vật, môi trường xung quanh.
- Chất phóng xạ là chất ở thể rắn, lỏng hoặc khí có hoạt động phóng xạ riêng
lớn hơn 70 kilo Beccơren trên kilogram (70KBO/KG). Chúng là nhân tố sát
thương của vũ khí hạt nhân, có khả năng phát ra những chùm phóng xạ không nhìn

thấy gây bệnh hoặc gây nhiễm xạ với người, động vật và môi trường sống.
- Thú dữ, theo quy định là động vật bậc cao, có lông mao, có tuyến vú, nuôi
con bằng sữa, lớn, rất dữ, chưa được thuần hóa và có thể làm hại con người.
Khái niệm cụ thể của các loại nguồn nguy hiểm cao độ trên được quy định
trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, như Luật Giao thông đường bộ
2008, Bộ luật hàng hải 2005, Luật Điện lực… Do không mang tính khái quát nên
Điều 623 còn đề cập đến “nguồn nguy hiểm cao độ khác” do pháp luật quy định.
Đây là quy định mang tính mở của pháp luật, vì nguồn nguy hiểm cao độ trên thực
tế rất đa dạng, khó có thể liệt kê được hết.
Ở đây, theo Điều 623 BLDS, có thể hiểu nguồn nguy hiểm cao độ là những
vật đang tồn tại hiện hữu mà hoạt động vận hành, sản xuất, vận chuyển, bảo quản,
… chúng luôn chứa đựng khả năng gây thiệt hại cho môi trường và những người
xung quanh. Tính nguy hiểm của nó thể hiện ở chỗ con người không thể kiểm soát
được một cách tuyệt đối nguy cơ gây hại. Trên thực tế, có những sự vật chưa được
pháp luật quy định là nguồn nguy hiểm cao độ mặc dù có đặc điểm của nguồn
nguy hiểm cao độ là ẩn chứa nguy cơ gây thiệt hại khi hoạt động, ví dụ: xe đạp
điện, xe máy có dung tích xi lanh nhỏ hơn 50cm3, các loài ong độc, rắn độc… Theo
5


đó, việc xác định một vật có được coi là nguồn nguy hiểm cao độ hay không ngoài
căn cứ vào các quy định của pháp luật thì cũng cần căn cứ vào tính chất, mức độ
nguy hiểm của vật đó.
Ở đoạn 2 khoản 1 Điều 623 BLDS quy định: “Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm
cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật”, do tính chất tiềm
ẩn khả năng gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ, quy định này đòi hỏi chủ
sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuyệt đối tuân thủ các quy định của pháp luật
trong từng trường hợp, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể.
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ

gây ra
*Có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật do chính nguồn nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra
Việc gây thiệt hại trái pháp luật là những thiệt hại do sự hoạt động của
nguồn nguy hiểm cao độ tạo ra, pháp luật không cho phép. Những thiệt hại về tài
sản của tổ chức, của Nhà nước; những thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng của
cá nhân là nhóm khách thể được pháp luật bảo vệ. Những thiệt hại về quyền, lợi
ích chính đáng của chủ thể trong xã hội do chính sự hoạt động của nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của các chủ thể có liên
quan đến nguồn nguy hiểm cao độ đó. Ngay ở tên của Điều 623 BLDS “Bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra” đã cho thấy thiệt hại ở đây là
do chính nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, do những hoạt động chủ quan nội tại của
nguồn nguy hiểm đó dẫn đến thiệt hại, nếu thiệt hại liên quan đến nguồn nguy
hiểm cao độ mà không phải do tự thân nguồn nguy hiểm đó gây thiệt hại thì trách
nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra không phát sinh mà đây là trách
nhiệm BTTH thông thường.
Có thể thấy, theo như ví dụ tại điểm khoản đ Điều 2 Mục III Nghị quyết
03/2006/NQ-HĐTP thì ví dụ về BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra như sau:
“Chủ sở hữu biết người đó không có bằng lái xe ôtô, nhưng vẫn giao quyền chiếm
hữu, sử dụng cho họ mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại”,
theo như ví dụ này thì thiệt hại trên là do hành vi của con người gây ra chứ không
6


phải là do nguồn nguy hiểm cao độ, vì vậy, lấy ví dụ về thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra như trên là chưa chính xác. Ta có thể thấy một số ví dụ về hoạt
động tự thân nguồn nguy hiểm cao độ như xe ô tô đang đi trên đường thì bị mất lái
gây tai nạn; cháy, chập đường dây tải điện…
Cũng phải nhìn nhận rằng, để phát sinh trách nhiệm trên, nguồn nguy hiểm
cao độ phải đang ở trạng thái “đang hoạt động”, vì khi ở trạng thái hoạt động, vận

hành thì nguồn nguy hiểm cao độ mới có khả năng gây thiệt hại do những hoạt
động nội tại. Trường hợp thiệt hại xảy ra khi nguồn nguy hiểm cao độ đang ở trạng
thái “tĩnh” – không hoạt động thì không thể coi là thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra, ví dụ: cột điện bị đổ trong lúc đang thi công, chưa có điện, thú dữ
chết thối rữa gây dịch bệnh… Tuy nhiên, đã có nhiều trường hợp xe ô tô đỗ trên
đường tự nhiên phát nổ gây thiệt hại. Trường hợp này không phải là xe đang hoạt
động những thực tế cũng áp dụng điều luật về BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra để giải quyết vấn đề này.
*Có thiệt hại xảy ra
Trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng là một loại
trách nhiệm BTTH. Nếu không có thiệt hại xảy ra thì sẽ không phát sinh trách
nhiệm bồi thường. Tuy cũng là một loại trách nhiệm BTTH nhưng trách nhiệm
BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có điểm khác so với trách nhiệm BTTH
chung, đó là không có trách nhiệm bồi thường liên quan đến danh dự, nhân phẩm,
vì nguồn nguy hiểm gây thiệt hại là do hoạt động của chúng, do vậy, những thiệt
hại gây ra chỉ có thể là tài sản, sức khỏe hay tính mạng.
Nguồn nguy hiểm cao độ do tính chất nguy hiểm của nó có thể gây thiệt hại
cho bất kỳ ai: chủ sở hữu, người đang chiếm hữu, vận hành, những người không có
liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ… Trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm
cao độ chỉ được đặt ra khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho “người xung
quanh”, là những người khi xảy ra thiệt hại không có quan hệ lao động hoặc sở
hữu liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhằm để bảo vệ quyền được bồi
thường cho những người này.

7


*Có mối quan hệ nhân quả giữa sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ
và thiệt hại xảy ra
Việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa sự hoạt động của nguồn nguy

hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra có ý nghĩa pháp lý quan trọng vì nó là bằng chứng
để xác định có hay không có trách nhiệm dân sự của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm
cao độ. đối với trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng thì hành vi trái pháp luật được
coi là nguyên nhân và thiệt hại được coi là hậu quả. Về mặt nguyên tắc, hành vi
trái pháp luật phải có trước và thiệt hại có sau. Như vậy, để phát sinh trách nhiệm
BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì tự thân sự hoạt động của nguồn nguy
hiểm cao độ là nguyên nhân trực tiếp gây thiệt hại. Ví dụ: hệ thống tải điện bị đứt
dây điện gây ra chết người; một chiếc xe có động cơ đang hoạt động bị mất phanh,
gẫy trục xe, nổ lốp…
Còn trường hợp người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ mà có lỗi trong việc
sử dụng chúng đã gây ra thiệt hại thì trách nhiệm BTTH không phải do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra. Ví dụ: A đi xe máy trên đường với tốc độ rất nhanh.
Bỗng có con chó chạy qua đường nên A đã phanh gấp để tránh. Do phanh gấp nên
xe máy của A đã bị đứt phanh làm mất lái gây tai nạn. Trong trường hợp này về
nguyên nhân thì do xe máy đứt phanh nhưng không do sự hoạt động tự thân của
gây ra mà do lỗi của người điều khiển. Vì thế trách nhiệm bồi thường ở đây không
phải do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
*Lỗi trong trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phát sinh ngay cả khi
chủ sở hữu hay người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ không có lỗi. Khoản 3
Điều 623 BLDS quy định:
“Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy
hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại ngay cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp
sau đây:
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”

8



Dấu hiệu quan trọng nhất để xác định trách nhiệm này là hoạt động của
nguồn nguy hiểm cao độ chính là nguyên nhân trực tiếp, là yếu tố quyết định dẫn
đến thiệt hại. Hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ có thể hoàn
toàn không có lỗi của con người (xe đang chạy trên đường bất ngờ nổ lốp trước
dẫn đến đổi hướng đột ngột gây thiệt hại) hoặc cũng có thể có một phần lỗi của
người quản lý, điều khiển. Tuy nhiên lỗi ở đây chỉ đóng vai trò thứ yếu đối với
thiệt hại, ví dụ: trước khi xuống dốc, lái xe không kiểm tra lại phanh; lốp mòn
nhưng chưa thay do chủ quan nghĩ rằng xe vẫn vận hành tốt…). Nếu thiệt hại xảy
ra hoàn toàn do lỗi, do hành vi của người điều khiển nguồn nguy hiểm cao độ thì
không áp dụng trách nhiệm này.
3. Xác định trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
*Trường hợp chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường là chủ sở hữu, người
được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ:
Khi có thiệt hại xảy ra do nguồn nguy hiểm cao độ, trước tiên phải nghĩ đến
nghĩa vụ của chủ sở hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ trong việc tôn trọng,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể bị thiệt hại. Vì vậy, trách nhiệm
BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trước tiên được đặt ra cho chủ sở hữu,
trừ trường hợp chủ sở hữu chứng minh được trách nhiệm thuộc về người khác.
Trong trường hợp chủ sở hữu đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm
cao độ, căn cứ theo khoản 2 Điều 623 BLDS cũng như khoản a Điều 2 Mục III
Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP, chủ sở hữu hợp pháp của nguồn nguy hiểm cao
độ phải bồi thường thiệt hại.
Trong trường hợp chủ sở hữu chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật cho người khác, áp dụng
quy định tại khoản 2 Điều 623 BLDS và khoản b Điều 2 Mục III Nghị quyết số
03/2006/NQ-HĐTP, những người được chuyển giao quyền phải chịu trách nhiệm
BTTH khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại, trừ khi có thỏa thuận khác không
trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc nhằm trốn tránh việc bồi thường.
Trên thực tế có nhiều trường hợp chủ sở hữu đã chuyển giao quyền chiếm

hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác nhưng thực tế vẫn là người
9


khai thác công dụng, hưởng lợi từ tài sản đó mang lại, như trong trường hợp công
ty vận tải chuyển giao xe cho các tài xế thuộc biên chế của công ty để thực hiện
công việc, do đó, trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ đã được chủ sở hữu giao
cho người khác thì cần phải xác định trong trường hợp cụ thể đó, người được giao
nguồn nguy hiểm cao độ có phải là người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm
cao độ hay không để xác định ai là người có trách nhiệm BTTH theo quy định tại
khoản đ Điều 2 Mục III Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP. Trong trường hợp này,
nếu chiếc xe gây thiệt hại trong lúc lái xe thực hiện nhiệm vụ do công ty giao thì
công ty vận tải ở đây là chủ thể phải chịu trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra, còn nếu chiếc xe gây thiệt hại không liên quan đến nhiệm vụ được
giao thì lái xe phải chịu trách nhiệm BTTH theo Điều 623 BLDS.
Nếu chủ sở hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ đã chuyển giao quyền
chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác những sự chuyển
giao này không tuân theo đúng các quy định của pháp luật và thông qua các giao
dịch dân sự như cho thuê, cho mượn… thì khi có thiệt hại xảy ra trên thực tế do
hoạt động nội tại của bản thân nguồn nguy hiểm cao độ thì căn cứ vào khoản b
Điều 2 Mục III Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP, thì chủ sở hữu nguồn nguy
hiểm cao độ sẽ là người phải chịu trách nhiệm bồi thường. Bởi khi chuyển giao
nguồn nguy hiểm cao độ, chủ sở hữu đã biết trước tính nguy hiểm mà tài sản của
mình có thể gây ra, đồng thời, về ý chí, chủ sở hữu hoàn toàn nhận thức được việc
chuyển giao là trái pháp luật. Tại khoản b Điều 2 Mục III Nghị quyết số
03/2006/NQ-HĐTP có nếu một ví dụ về quy định này như sau: “Chủ sở hữu biết
người đó không có bằng lái xe ô tô, nhưng vẫn giao quyền chiếm hữu, sử dụng cho
họ mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại” đây đúng là việc
chuyển giao tài sản trái pháp luật, tuy nhiên ví dụ trên không chính xác về việc coi
đây là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra mà là do hành vi của người

không có bằng lái, xe ô tô chỉ là phương tiện để họ gây thiệt hại mà thôi. Ở ví dụ
này, thiệt hại phải do chính sự hoạt động nội tại của chiếc xe ô tô đó gây ra, theo đó
chủ sở hữu sẽ phải BTTH vì họ hoàn toàn nhận thức được việc chuyển giao đó là
trái pháp luật.

10


*Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong tình thế cấp
thiết, sự kiện bất khả kháng hoặc do lỗi cố ý của người bị thiệt hại:
Như đã nêu ở trên, một trong những điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là thiệt hại xảy ra phải có mối quan hệ nhân quả
với sự hoạt động tự thân của nguồn nguy hiểm cao độ, tuy nhiên, trong trường hợp
tình thế cấp thiết, sự kiện bất khả kháng hay do lỗi cố ý của người bị thiệt hại thì
thiệt hại xảy ra hoàn toàn không bắt nguồn từ hoạt động của nguồn nguy hiểm cao
độ. Do đó, theo khoản 3 Điều 623 BLDS và khoản của Điều 2 Mục III Nghị quyết
số 03/2006/NQ-HĐTP, trong trường hợp thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra trong tình thế cấp thiết, sự kiện bất khả kháng hoặc do lỗi cố ý của người bị thiệt
hại thì chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp
nguồn nguy hiểm cao độ không phải BTTH.
*Bồi thường thiệt hại trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm
hữu, sử dụng trái pháp luật:
Chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ là hành vi chiếm
hữu không có căn cứ pháp luật quy định tại Điều 183 BLDS ví dụ: chuyển giao
quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản thông qua giao dịch dân sự vi phạm các điều
kiện có hiệu lực theo Điều 122 BLDS; nguồn nguy hiểm cao độ cao độ có được do
trộm, cướp, hoặc các hành vi chiếm đoạt tài sản khác,… Khi nguồn nguy hiểm cao
độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật, khoản 4 Điều 623 và khoản d Điều 2 Mục
III Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP quy định thành hai trường hợp sau:
- Một là, “Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao

độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, nếu chủ sở hữu,
người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp không có lỗi trong việc
để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (đã tuân thủ các
quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ
theo đúng quy định của pháp luật). Như vậy, nếu nguồn nguy hiểm cao độ bị
chiếm hữu, sử dụng thông qua hành vi trái pháp luật bao gồm trộm, cướp hoặc các
hình thức chiếm đoạt tài sản khác, ví dụ: xe máy có được do trộm cắp, tàu thuyền
cướp được… thì khi có thiệt hại xảy ra do nguồn nguy hiểm cao độ thì người đang

11


chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ bất hợp pháp phả chịu trách nhiệm
bồi thường.
- Hai là, “Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị
chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bời thường thiệt hại”. Nếu chủ
sở hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ đã không thực hiện đúng các quy định
về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ dần đến việc
nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì cũng phải chịu
một phần trách nhiệm trong biệc BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu,
sử dụng trái pháp luật gây ra.
Ngoài những trường hợp pháp luật quy định, trên thực tế có trường hợp chủ
sở hữu bắt buộc phải chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác theo
quy định của pháp luật, ví dụ: người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước trưng
dụng tài sản của các cá nhân, tổ chức khi cần thiết để bảo vệ lợi ích chung; hoặc
tạm thu giữ tài sản theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền… Trong
những trường hợp này, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm
cao độ bắt buộc phải chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản theo quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, pháp luật nên quy định trách

nhiệm BTTH cũng được chuyển giao cho cơ quan nhà nước đó.
Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ trong tự nhiên gây thiệt hại thì ai có
trách nhiệm bồi thường? Ví dụ: thú dữ trong rừng tấn công gây thiệt hại cho người
đi rừng? Theo quy định hiện nay, những tài sản như vậy là một loại tài nguyên
thiên nhiên và là tài sản thuộc sở hữu nhà nước, thuộc sự quản lý của Bộ, ngành có
liên quan. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn chưa có văn bản nào quy định cơ quan quản
lý nhà nước phải bồi thường và vì vậy, không ai phải chịu trách nhiệm bồi thường
trong những trường hợp nêu trên.
4. Ý nghĩa pháp lý của quy định về BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra
Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm
đặc biệt bởi lẽ thiệt hại xảy ra không phải do hành vi và do lỗi của con người mà
do hoạt động của những sự vật, mà hoạt động của chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây
12


thiệt hại. Mặc dù chủ sở hữu, người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ có thể
không có lỗi đối với thiệt hại nhưng để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người bị
thiệt hại, pháp luật vẫn buộc họ phải có trách nhiệm bồi thường. Việc pháp luật ghi
nhận điều luật này buộc chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử
dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ phải có ý thức, trách nhiệm trong quá
trình quản lý, sử dụng , bảo quản, vận hành các nguồn nguy hiểm cao độ này, nhằm
hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại mà các nguồn nguy hiểm này có thể gây
ra cho môi trường và những người xung quanh.
III. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về BTTH do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra
1. Những bất cập, vướng mắc
- Trong khoản 1 Điều 623, ngoài những loại nguồn nguy hiểm cao độ đã
được liệt kê, còn có những nguồn nguy hiểm cao độ khác theo quy định của pháp
luật. Trong thực tế có những sự vật chưa từng được pháp luật quy định là nguồn

nguy hiểm cao độ nhưng nếu chúng có đầy đủ tính chất của nguồn nguy hiểm cao
độ thì có được coi là nguồn nguy hiểm cao độ hay không? Ví dụ: hoạt động gây
thiệt hại của xe đạp điện, xe máy có dung tích xi lanh dưới 50 cm 3 (khái niệm
“phương tiện giao thông vận tải cơ giới” trong các văn bản hiện nay không quy
định những phương tiện này là nguồn nguy hiểm cao độ), ong độc, rắn độc…
- Vấn đề xác định trách nhiệm BTTH: Trên thực tế, việc xác định trách
nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trong những vấn đề hết sức
khó khăn và phức tạp, đặc biệt là việc hiểu và vận dụng không được thống nhất. Cụ
thể, sự nhầm lẫn giữa BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra và BTTH do súc
vật gây ra là khá phổ biến. Lý do của sự nhầm lẫn đó là khái niệm “thú dữ” trong
nguồn nguy hiểm cao độ và khái niệm “súc vật” chưa rõ ràng và cụ thể.
Ví dụ: một con gấu đã được thuần hóa và nuôi trong gia đình người dân.
Trong một lần có em bé đến cạnh chuồng gấu chơi và cho nó ăn, bỗng dưng con
gấu gầm lên và cào em bé bị thương. Vậy trong trường hợp này, trách nhiệm
BTTH sẽ được xác định là gì?
- Theo quy định của pháp luật thì thú dữ gây thiệt hại để phát sinh trách
nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải đang chịu sự quản lý của
13


một chủ thể nhất định, nếu không có sự quản lý (ở môi trường tự nhiên, thiên nhiên
hoang dã) thì trách nhiệm bồi thường không phát sinh, mặc dù tài sản này thuộc sở
hữu của Nhà nước. Như vậy, trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ trong tự nhiên
gây thiệt hại như thú dữ trong rừng tấn công gây thiệt hại cho người đi rừng như đã
nêu ở trên thì sẽ không ai phải chịu trách nhiệm bồi thường. Đây cũng được xem
như là một bất cập trong các quy định của pháp luật, qua đó đặt vấn đề đối với Nhà
nước là cần phải có những biện pháp hợp lý hơn trong việc quản lý tài nguyên
thiên nhiên để bảo vệ quyền lợi của nhân dân.
- Trong thực tế còn xảy ra trường hợp thiệt hại xảy ra vừa do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra, vừa do lỗi cố ý của người bị thiệt hại. Vậy thì trách nhiệm

BTTH sẽ thuộc về ai? Ví dụ: A vì có chuyện buồn nên có ý định tự tử. Vì vậy, A cố
tình lao vào một chiếc ô tô để tự tử. Không may, lúc chiếc xe còn cách A khoảng
5m thì bị đứt phanh, người tài xế không thể điều khiển được chiếc xe nên đã lao
thẳng vào A. A chết. Vậy trong trường hợp này thì ai là người phải chịu trách
nhiệm bồi thường?
2. Phương hướng hoàn thiện
Mặc dù BLDS năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật này đều
dành ra những quy định riêng về trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều quy định bất cập, gây ra những tranh cãi, quan
điểm khác nhau trên thực tế áp dụng. Vì vậy, cần có những phương hướng, giải
pháp được đề ra để hoàn thiện hơn các quy định này của pháp luật.
- Thứ nhất, về khái niệm thế nào là nguồn nguy hiểm cao độ. Trong quy định
của Điều 623 BLDS, chưa có một khái niệm cụ thể về thế nào là nguồn nguy hiểm
cao độ mà chỉ liệt kê những nguồn nguy hiểm cao độ, vì vậy không đầy đủ, thậm
chí không thống nhất với các quy định trong các văn bản pháp luật khác. Vì vậy,
cần xác định tiêu chí chung để thế nào thì được coi là nguồn nguy hiểm cao độ.
Ngoài ra, theo thời gian cũng có thể bổ sung thêm các loại nguồn nguy hiểm cao
độ để phù hợp với tình hình thực tế.
- Thứ hai, về điều kiện áp dụng trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra. Như đã phân tích ở trên, một trong những điều kiện để trách nhiệm
BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phát sinh là khi tự thân nó gây thiệt hại.
14


Đây là một điều kiện rất quan trọng. Tuy nhiên luật lại không nói chi tiết vấn đề
này. Thực tiễn cho thấy, khi xét xử, nhiều trường hợp cứ thấy thiệt hại có liên quan
đến nguồn nguy hiểm cao độ là áp dụng trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra, bất kể nguyên nhân gây thiệt hại là do con người hay do tự thân
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Vì vậy, cần có quy định rõ ràng về việc trách
nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ phát sinh khi thiệt hại là do sự

tác động tự thân của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
- Thứ ba, pháp luật cần bổ sung quy định về trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước đối với những thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ trong tự nhiên gây ra cho
các chủ thể khác. Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong trường hợp cơ quan
Nhà nước chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ thuộc sở hữu của các cá
nhân, tổ chức để phục vụ lợi ích công cộng như trưng dụng, tạm giữ…

KẾT THÚC VẤN ĐÊ
Xã hội ngày càng phát triển, dẫn đến sự gia tăng thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra. Vì vậy, những văn bản quy phạm pháp luật quy định về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có ý nghĩa pháp lý
rất quan trọng, là căn cứ để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của chủ thể bị thiệt hại.
Tuy nhiên, trong thực tế, những quy định về trách nhiệm bồi thường vẫn chưa đầy
đủ và còn nhiều tranh cãi xung quanh vấn đề này. Do vậy, cần tiếp tục xây dựng,
hoàn thiện pháp luật về BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra để việc giải
quyết vấn đề này được hoàn thiện hơn.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam Tập 2 – Trường Đại học Luật Hà Nội –
Nxb. Công an nhân dân 2006.
2. Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam Tập 2 – TS. Lê Đình Nghị (chủ biên) –
Nxb. Giáo dục.
3. Bộ luật Dân sự năm 2005.
4. Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS
2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
5. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe và tính mạng – TS.

Phùng Trung Tập – Nxb. Hà Nội 2009.
6. Tìm hiểu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra – Lê Phước Ngưỡng – Tạp chí Kiểm sát số 1/2005.
7. Các trang điện tử:




16


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐÊ...........................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................1
I. Khái quát chung về BTTH ngoài hợp đồng và BTTH do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra.................................................................................................................1
1. BTTH ngoài hợp đồng....................................................................................1
2. BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ cao độ gây ra..........................................3
II. Đánh giá các quy định của pháp luật về BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra......................................................................................................................4
1. Các quy định của pháp luật về nguồn nguy hiểm cao độ...............................4
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. 6
3. Xác định trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra..................9
4. Ý nghĩa pháp lý quy định về BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra......12
III. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về BTTH do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra........................................................................................................13
1. Những bất cập, vướng mắc...........................................................................13
2. Phương hướng hoàn thiện............................................................................14
KẾT THÚC VẤN ĐÊ............................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................16


17



×