Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự và hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả việc tham gia tố tụng của người bào chữa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.5 KB, 28 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Bộ luật tố tụng hình sự 2003 (TTHS) đã mở rộng hơn quyền và
nghĩa vụ pháp lý của người bào chữa. Tuy nhiên, trong thực tế
thì địa vị pháp lý của người bào chữa được đảm bảo ở mức độ
nào thì đó là điều đã và đang là vấn đề nóng bỏng không chỉ đối
với riêng ngành tư pháp mà còn là vấn đề của cả xã hội. Đó
chính là lý do em chon vấn đề: “ Địa vị pháp lý của người bào
chữa trong tố tụng hình sự và hoàn thiện pháp luật nhằm nâng
cao hiệu quả việc tham gia tố tụng của người bào chữa”.
B. NỘI DUNG
1. Những qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự về người bào
chữa, quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
1.1. Người bào chữa và vấn đề đảm bảo nguyên tắc cơ bản về
bào chữa trong quá trình tiến hành tố tụng.
Người bào chữa là người tham gia tố tụng với mục đích làm
sáng tỏ những tình tiết liên quan đến sự thật của vụ án nhằm
chứng minh về sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
bị can, bị cáo và giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lí cần thiết.
Theo qui định tại Khoản 1 Điều 56 thì người bào chữa có thể là:
• Luật sư: Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành
nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo
yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (Điều 2 Luật Luật sư);
• Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo:
Bộ Luật TTHS không quy định rõ thế nào là “Người đại diện
hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”. Tuy nhiên, có
thể vận dụng Điểm a Khoản 1 Điều 58 Bộ Luật Dân Sự về giám
hộ đương nhiên đối với người chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi)
để hiểu người đại diện hợp pháp là: Người chưa thành niên
không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ



đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự, bị Toà án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ
không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên
đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu. Hoặc người đại diện theo pháp
luật bao gồm: Cha, mẹ đối với con chưa thành niên; Người giám
hộ đối với người được giám hộ (Điều 141 BLDS).
• Bào chữa viên nhân dân: Bào chữa viên nhân dân là người
được tổ chức, đoàn thể cử ra để bào chữa cho bị cáo( ).
Vì vậy, trong thực tế người bào chữa có: Luật sư và người dại
diện hợp pháp.
Để đảm bảo sự vô tư khách quan khi thực hiện nhiệm vụ bào
chữa, Khoản 2 Điều 56 qui định những người sau đây không
được bào chữa:
- Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó, người thân thích
của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó.
- Người tham gia trong vụ án đó với tư cách là người làm
chứng,người giám định hoặc người phiên dịch.
Theo qui định tại Khoản 3 Điều 56 thì một người bào chữa có
thể bào chữa cho nhiều người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong
cùng một vụ án nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau.
Nếu quyền và lợi ích của những người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
đối lập nhau thì người được bào chữa chỉ có thể bào chữa cho
một người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Khi có đề nghị của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về người bào
chữa cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có trách nhiệm bảo
đảm cho họ thực hiện quyền có người bào chữa cho mình. Trong
thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của người bào
chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải xem xét. Cấp giấy chứng nhận
bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Trong trường hợp từ

chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lí do.


Đối với trường hợp tạm giữ thì trong thời hạn 24 giờ kể từ khi
nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên
quan đến việc bào chữa, cơ quan điều tra phải xem xét,cấp giấy
chứng nhận bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Trường
hợp từ chối cấp giấy chứng nhận phải nêu rõ lí do.
Đây là điểm mới so với trước đây đó là việc qui định cụ thể
nghĩa vụ xem xét, cấp giấy chứng nhận bào chữa của cơ qun
điều tra, Viện kiểm sát, tòa án, qui định thời hạn cụ thể của việc
xem xét cấp giấy chứng nhận người bào chữa. Những sửa đổi bổ
sung này có ý nghĩa lớn lao đối với việc thực hiện quyền bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
1.2. Thay đổi người bào chữa
Pháp luật cũng có những qui định nhằm đảm bảo sự vô tư của
những người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng và
đảm bảo nguyên tắc “ Đảm bảo quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo”.”:
Theo đó Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự qui định về việc “Lựa
chọn và thay đổi người bào chữa. Người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo có quyền tự lựa chọn người bào chữa để thực hiện quyền
bào chữa của mình. Các cơ quan tiến hành tố tụng và những
người tiến hành tố tụng có trách nhiệm bảo đảm để người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền của họ.
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người thành niên và không có
nhược điểm thể chất hoặc tâm thần tự thực hiện quyền mời bào
chữa. Nếu người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành
niên hoặc là người bị nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì
người đại diện hợp pháp của họ có quyền nhờ bào chữa cho

người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của
họ có quyền từ chối người bào chữa đã được chỉ định. Không ai
được phép ép buộc họ nhận người bào chữa mà họ không đồng


ý. Họ cũng có quyền thay đổi người bào chữa.
Những trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa cho bị can,
bị cáo:
1. Trường hợp bị can, bị cáo phạm tội theo khung hình phạt có
mức cao nhất là tử hình được qui định tại Bộ luật hình sự
2. Trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên,
người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Trong những trường hợp nói trên, nếu bị can, bị cáo hoặc người
đại diện hợp pháp của họ không nhờ người bào chữa thì cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án yêu cầu Đoàn luật sư phân công
văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy
ban mặt trật tổ quốc Việt Nam, Tổ chức thành viên của mặt trân
tổ quốc Việt Nam cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức
mình. Việc tiến hành tố tụng trong các trường hợp nói trên mà
không có người bào chữa là vi phạm nghiêm trọng pháp luật tố
tụng hình sự.
Trong những trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa cho bị
can, bị cáo và theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, văn
phòng luật sư hoặc ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam đã cử
người bào chữa nhưng bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp
pháp của họ không đồng ý thì họ có quyền yêu cầu thay đổi
người bào chữa hoặc từ chối người bào chữa. Trong trường hợp
đó, cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án đã giải thích quyền có
người bào chữa của bị can, bị cáo nhưng bị can bị cáo vẫn

không đồng ý thực hiện quyền đó của họ thì vẫn phải lập biên
bản ghi nhận ý kiến này và quá trình tố tụng sẽ được tiến hành
mà không có sự tham gia của người bào chữa.
Theo qui định tại Khoản 3 Điều 37 thì UBMTTQVN, các tổ
chức thành viên của mặt trận có quyền cử người bào chữa viên
nhân dân để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là
thành viên của tổ chức mình. Đây là qui định mới nhằm tăng


cường nội dung bảo vệ dân chủ của tố tụng hình sự, tạo ra
những điều kiện bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị tạm giữ, tạm giam.
1.3. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa:
Theo qui định tại Khoản 1 Điều 58 thì thời điểm tham gia tố
tụng hình sự của người bào chữa: Có 3 thời điểm tham gia tố
tụng của người bào chữa:
+ Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.
+ Trường hợp bắt người trong trường hợp khẩn cấp và bắt người
phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, thì người bào chữa tham
gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ.
+ Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội phạm
xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng viện kiểm sát quyết
định để người bào chữa tham gia từ khi kết thúc điều tra.
Việc qui định thời điểm đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối
với việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo
Người bào chữa là người tham gia tố tụng, thực hiện chức năng
bào chữa cho người bị tạm giam, bị can, bị cáo. Để đảm bảo cho
người bào chữa thực hiện chức năng của mình Bộ luật Tố tụng
hình sự qui định cụ thể các quyền, nghĩa vụ của người bào chữa.

tất cả các quyền và nghĩa vụ đó tạo thành địa vị pháp lí của
người bào chữa trong tố tụng hình sự.
1.3.1. Quyền của người bào chữa.
Theo quy định của Bộ luật TTHS thì người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho
mình (Điều 11). Nếu người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người đã
đến tuổi thành niên và không có nhược điểm về thể chất hoặc
tâm thần thì họ tự bào chữa hoặc mời người bào chữa. Nếu
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc là
người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì người đại


diện hợp pháp của họ (cha, mẹ đối với con chưa thành niên;
người giám hộ đối với người được giám hộ) thực hiện việc bào
chữa hoặc có quyền nhờ người bào chữa.
Dù người bào chữa là Luật sư; người đại diện hợp pháp của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hay là bào chữa viên nhân dân
thì trong hoạt động tham gia tố tụng hình sự, người bào chữa
đều thực hiện chức năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong quá trình tố tụng; tìm ra
chứng cứ gỡ tội hoặc giảm nhẹ hình phạt cho bị can, bị cáo và
kiến nghị với các cơ quan tiến hành tố tụng về áp dụng, vận
dụng chính xác pháp luật trong việc giải quyết vụ án. Để thực
hiện chức năng, nhiệm vụ đó, Theo khoản 2 Điều 58 Bộ luật
TTHS quy định các quyền của người bào chữa trong quá trình tố
tụng, đó là:
- Quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi
cung bị can
- Quyền được hỏi người bị tạm giữ, bị can, nếu điều tra viên
đồng ý

- Quyền có mặt trong các hoạt động điều tra khác
- Quyền xem các biên bản về hoạt động tố tụng liên quan đến
người mình bào chữa.
- Quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa
điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cùng bị can
- Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám
định, người phiên dịch theo qui định của bộ luật tố tụng hình sự
- Quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào
chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của
những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức cá nhân theo yêu cầu
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà
nước, bí mật công tác
- Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật , yêu cầu;


- Quyền gặp người bị tạm giữ;
- Quyền gặp bị can,bị cáo đang bị tạm giam;
- Quyền đọc, ghi chép, sao chép các tài liệu trong hồ sơ vụ án
liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo qui
định của pháp luật;
- Quyền tham gia tranh hỏi tại phiên tòa
- Quyền khiếu nại quyết định,hành vi tố tụng của cơ quan, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
- Quyền kháng cáo bản án, quyết định của tòa án nếu bị cáo là
người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất qui định tại điểm b khoản 2 điều 57 của bộ luật tố
tụng hình sự
Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có trách
nhiệm bảo đảm cho người bào chữa thực hiện các quyền của họ.
Cùng với việc thực hiện các quyền trên để bào chữa về hình sự,

người bào chữa phải có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp
luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Đồng thời, giúp người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của họ về trách nhiệm dân sự gắn liền với trách nhiệm hình
sự.
1.3.2. Nghĩa vụ của người bào chữa:
Người bào chữa có những nghĩa vụ nhất định. Theo Khoản 3
Điều 58 người bào chữa có những nghĩa vụ sau:
- Nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật qui định để làm
sáng tỏ nhưng tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can,
bị cáo;
- Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ
vật liên quan đến vụ án thì người bào chữa có trách nhiệm giao


cho cơ quan điều tra,Viện kiểm sát, Tòa án. Việ giao nhận tài
liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng
phải được lập biên bản theo qui định tại điều 95 của bộ Luật này.
- Nghĩa vụ giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lí
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
- Nghĩa vụ không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo mà chính mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không
có lí do chính đáng
- Nghĩa vụ tôn trọng sự thật và pháp luật
- Nghĩa vụ không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục
người khác khai báo gian dối cung cấp tài liệu sai sự thật;
- Nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của tòa án

- Nghĩa vụ không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được
khi thực hiện việc bào chữa
- Nghĩa vụ không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp
trong hồ sơ vụ án vào mục mục đích xâm phạm lợi ích của nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Bộ luật tố tụng hình sự qui định trách nhiệm của người bào chữa
trong trường hợp vi phạm pháp luật. Theo Khoản 4 Điều 58
người bào chữa làm trái pháp luật tùy theo tính chất, mức độ vi
phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, xử lí kỉ
luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu
gây thiệt hại thì phải bồi thường theo qui định của pháp luật
Điều 58 có những sửa đổi bổ sung quan trọng về các quyền,
nghĩa vụ và trách nhiệm của người bào chữa theo hướng mở
rộng các quyền cảu người bảo chữa, bổ sung thêm nghĩa vụ của
người bào chữa, qui định các loại trách nhiệm pháp lí của nười
bào chữa trong trường hợp họ làm trái pháp luật để bảo đảm cho
người bào chữa thực hiện có hiệu quả chức năng của mình
Tuy nhiên, ở đây cũng cần phân biệt rõ quyền và nghĩa vụ của
người bào chữa trong trường hợp là luật sư hoặc là người đại


diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Nếu người bào chữa là luật sư thì họ được phép thực hiện tất cả
các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa để giúp đỡ về mặt
pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo trên cả 2 phương diện trách nhiệm hình sự và
trách nhiệm dân sự. Trong trường hợp người bào chữa là người
đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì theo
quy định của Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự, họ có đầy
đủ các quyền của người được đại diện trong đó có quyền tự định

đoạt của đương sự đối với những vấn đề về dân sự phát sinh từ
trách nhiệm hình sự, đặc biệt là việc bồi thường và thoả thuận,
thống nhất mức bồi thường giữa bị can, bị cáo và người bị hại
trong vụ án hình sự.
Vì vậy, đây là điểm khác biệt cơ bản giữa trường hợp người bào
chữa là luật sư và trường hợp người bào chữa là người đại diện
hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy nhiên, các
quy định của Bộ luật TTHS về quyền và nghĩa vụ của người bào
chữa như hiện nay chưa thể hiện rõ được quyền của người bào
chữa là người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo. Do vậy, vấn đề này cần xem xét, sửa đổi để bảo đảm sự
thống nhất, đồng bộ giữa các quy định của Bộ luật TTHS, Bộ
luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự.
2. Thực tiễn thi hành những qui định của pháp luật về quyền và
nghĩa vụ của người bào chữa và hướng hoàn thiện những qui
định này.
2.1. Thực tiễn thi hành những qui định của pháp luật về Quyền
của người bào chữa:
• Thời điểm người bào chữa tham gia vào quá trình tố tụng:
Theo qui định của pháp luật về quyền của người bào chữa thì
người bào chữa được hưởng một số quyền khi tham gia vào hoạt
động tố tụng hình sự nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích


hợp pháp của người được bào chữa.
Tuy nhiên, trong thực tiễn, những quyền này của người bào chữa
bị hạn chế rất nhiều:
Theo qui định của pháp luật thì có ba thời điểm người bào chữa(
) tham gia vào quá trình tố tụng.
+ Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.

+ Trường hợp bắt người trong trường hợp khẩn cấp và bắt người
phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, thì người bào chữa tham
gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ.
+ Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội phạm
xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng viện kiểm sát quyết
định để người bào chữa tham gia từ khi kết thúc điều tra.
BLTTHS hiện hành đã quy định LS được tham gia từ khi có
quyết định tạm giữ. Nhưng trên thực tế rất ít vụ LS được tham
gia ngay từ thời điểm này. Bởi vì hiện nay, không có một cơ chế,
thủ tục, trình tự nào quy định buộc các cơ quan tiến hành tố tụng
phải tạo điều kiện để LS tham gia. Để có GCN người bào chữa
để gặp bị can trong trại tạm giam, cơ quan điều tra yêu cầu LS
đủ năm loại giấy tờ: Thẻ LS; Giấy đăng ký hoạt động văn phòng
LS; Chứng chỉ hành nghề; Hợp đồng với khách hàng và Giấy
giới thiệu của văn phòng LS. Như vậy, về chủ quan có thể nhận
thấy không phải dễ dàng gì các LS có được giấy tờ chứng nhận
để tham gia vào tố tụng. Trong thực tiễn,người bào chữa được
tham gia vào quá trình tố tụng ngay từ giai đoạn điều tra rất khó
khăn và đặc biệt trong những vụ án lớn là rất “hiếm”. Nếu vụ án
ít phức tạp, tính chất đơn giản, việc này dễ dàng hơn.
• Quyền yêu cầu tòa án cấp giấy chứng nhận người bào chữa:
Theo qui định của pháp luật thì kể từ thời điểm người bào chữa
được Tòa án cấp giấy chứng nhận bào chữa thì họ mới có “giấy
thông hành” để thực hiện các quyền và nghĩa vụ bào chữa của
mình.


Tuy nhiên, không phải khi họ yêu cầu tòa án cấp giấy chứng
nhận bào chữa là họ được xem xét giải quyết trong “3 ngày”
theo qui định tại Khoản 4 Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự mà

trong thực tế, Gần 100% các trường hợp không được cấp giấy
chứng nhân bào chữa đúng thời hạn 3 ngày, cá biệt có khi kéo
dài hơn một năm. Lí giải cho nguyên nhân của tình trạng này, cơ
quan có thẩm quyền đã trả lời rằng: Bưu điện chuyển đến chậm
(nếu gửi qua bưu điện) hoặc người có thẩm quyền cấp giấy đi
công tác vắng. Trong khi đó, ở cương vị cơ quan kiểm soát, một
đại diện Viện phúc thẩm VKSND Tối cao cho biết: "Việc cấp
giấy chứng nhận bào chữa nếu đầy đủ thủ tục chỉ cần 15 phút là
xong. Đó là trách nhiệm của cơ quan nhà nước phải làm".
Một vướng mắc lâu nay trong hoạt động luật sư là trình và thu
giữ giấy chứng nhận người bào chữa chưa được Thông tư đề
cập. Với nhiều luật sư, tờ giấy này như "thông hành" cho họ vào
trại giam gặp thân chủ. Nhưng một cái "lệ" đang được áp dụng ở
hầu hết các trại là mỗi lần tới gặp thân chủ, luật sư phải nộp lại
giấy chứng nhận người bào chữa gốc. Có nghĩa là muốn gặp
đương sự vài lần, Luật sư cũng phải xin được vài giấy chứng
nhận. Chỉ một số trại tạm giam lớn có máy photocopy thì "linh
động" giữ bản sao.
Do vậy, rất nhiều người bào chữa, chủ yếu là giới Luật sư cho
rằng "Tại một số trường hợp, giấy chứng nhận người bào chữa
được cơ quan điều tra sử dụng như một "công cụ" để hạn chế
luật sư tham gia tố tụng"
• Quyền tham gia vào quá trình tố tụng:
Trong giai đoạn điều tra, người bào chữa có quyền: “Quyền có
mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can.
Quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa
điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cùng bị can” Pháp luật
có những qui định cụ thể về quyền “có mặt”, “tham gia” của



người bào chữa trong giai đoạn này nhằm bảo vệ quyền lợi cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ngay từ khi bị tạm giữ đảm bảo
nguyên tắc: “đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo”. Và về nguyên tắc, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
có quyền im lặng cho tới khi có mặt của người bào chữa.
Tuy nhiên, trong thực tiễn bên cạnh việc thực hiện nghiêm chỉnh
một số nguyên tắc của Bộ luật tố tụng hình sự thì vẫn có những
vi phạm nghiêm trọng những nguyên tắc này nói chung, việc
đảm bảo quyền của người bào chữa nói riêng. Theo đánh giá của
những người đã từng tham gia bào chữa, chủ yếu là giới Luật sư
cho rằng: Bộ luật tố tụng hình sự có nhiều quy định trao quyền
cho các luật sư tranh tụng nhưng việc thực thi các quyền này rất
hạn chế và gặp không ít rào cản từ chính các cơ quan tố tụng.
Khái quát chung, chỉ 50% quyền của luật sư theo quy định của
Bộ luật được thực thi.
Theo qui định của pháp luật thì khi cơ quan điều tra tiến hành
hoạt động lấy lời khai thì người bào chữa có quyền có mặt và cơ
quan điều tra phải tạo mọi điều kiện để người bào chữa có thể
tham gia hoạt động lấy lời khai của người bị tạm giữ cũng như
có quyền được biết thời gian địa điểm, có mặt khi hỏi cung bị
can. Tuy nhiên, trong thực tiễn, việc người bào chữa yêu cầu cơ
quan điều tra “cho” mình tiến hành “quyền” của mình vô cùng
khó khăn.
Trong một cuộc trao đổi với các Luật sư thuộc đoàn Luật sư
thành phố Hà Nội, đoàn Luật sư TPHCM, đoàn Luật sư Tỉnh
Long An, có Luật sư bạo miệng đã nói rằng: “Từ khi bị tạm giữ,
“đố” người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói rằng: tôi không trả lời
bất kì câu hỏi nào cho tới khi tôi gặp được luật sư của tôi” như
một số nước trên thế giới( ). Vì ở nước ta, cơ quan điều tra sẽ
‘có cách” xử đẹp”!. Chỉ điều này thôi, cho ta thấy rằng, bên cạnh

những vi phạm nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự thì vô


hình chung, việc người bào chữa được thực hiện “quyền” Pháp
định vô cùng khó khăn.
Điểm a Khoản 2 Điều 58 qui định cho Luật sư có quyền: “có
mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can, và
nếu điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can,
và có mặt trong những hoạt động điều tra khác, xem các biên
bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết
định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa”
Tuy nhiên, trong thực tiễn, người bào chữa được “có mặt” khi cơ
quan điều tra tiến hành lấy lời khai, hỏi cung người bị tạm giữ,
bị can và điều vô cùng nan giải.
Về phía cơ quan điều tra họ cho rằng: sự có mặt của người bào
chữa chỉ thêm “rối” thậm chí có một số luật sư có mặt không
nhằm mục đích bào chữa mà nhằm mục đích : ‘chạy’ án.
Về phía người bào chữa, chủ yếu các luật sư cho rằng: cơ quan
điều tra luôn gây khó khăn cho họ. Rõ ràng Điểm b Khoản 2
Điều 58 qui định: “Quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về
thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cùng bị
can” Nhưng khi cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai và hỏi
cung bị can, bị cáo thì không những không báo trước cho người
bào chữa mà người bào chữa còn phải “lần mò” khắp các trại,
hỏi thân chủ ở đâu. Thậm chí một số luật sư còn phản ánh rằng:
tôi cử hẳn một chánh văn phòng hôm nào cũng gọi điện thoại
cho điều tra viên hỏi khi nào gặp thân chủ tôi để luật sư đi cùng.
Các anh đều bảo hôm nay không đi, nhưng thực tế không phải
vậy!. Cả quá trình tham gia bảo vệ cho thân chủ của tôi, tôi chỉ
được gặp duy nhất một lần”!

Hơn thế nữa, khi người bào chữa gặp được thân chủ của mình
thì dù luật không có qui định điều tra viên phải có mặt nhưng
thực tế, luôn có điều tra viên “kè kè” bên cạnh trong suốt quá
trình người bào chữa gặp thân chủ( ). Thậm chí trong thực tiễn


còn có những hành vi vi phạm tố tụng được nhận định “Không
biết điều này có đúng luật hay không mà ông Luân còn thách
thức Luật sư muốn kiện ông ta thì cứ tự nhiên. Nếu Ông Luân
cậy quyền thế xem thường pháp luật thì chắc chắn CAQ9 phải
đối phó với sự phẫn nộ của người dân trong một tương lai gần
đây”( ) đây là lời nhận xét cho đơn khiếu nại của Văn phòng
Luật sư Pháp Quyền gởi đến Trưởng CA quận 9 và Viện trưởng
Viện Kiểm sát nhân dân quận 9 Thành phố Hồ Chí Minh khiếu
nại hành vi vi phạm phạm pháp luật của ông Nguyễn Minh Luân
- Phó CA quận 9, kiêm Trưởng Nhà tạm giữ Với Lý do: Ông
Luân đã có hành vi cản trở Luật sư tiếp xúc các bị can đang bị
tam giam bằng cách đòi hỏi phải có Kiểm sát viên đi cùng Luật
sư mới được gặp bị can, dù Viện trưởng Viện kiểm sát quận 9 đã
cấp giấy chứng nhận bào chữa cho các Luật sư.
Như vậy thì: trong thực tế, việc đảm bảo cho người bào chữa có
các “quyền” như Bộ luật tố tụng hình sự qui định là rất khó
khăn.
Quy định chỉ định luật sư đối với trường hợp nghi phạm là vị
thành niên, biên bản hỏi cung đối tượng phải có chữ ký của luật
sư thì trong thực tế, có những biên bản không có chữ kí của luật
sư, có những trường hợp, sau khi cơ quan điều tra hỏi cung xong
đối tượng này (đã có biên bản) thì mới “nài nỉ” và khẩn trương
cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho người bào chữa để họ
kí vào biên bản cho hợp lệ( )!

Theo qui định tại Điểm d, g Khoản 2 Điều 58 thì người bào chữa
có quyền: “thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc
bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích
của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức cá nhân theo yêu
cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật
nhà nước, bí mật công tác, Quyền đọc, ghi chép, sao chép các tài
liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết


thúc điều tra theo qui định của pháp luật” tuy nhiên, việc người
bào chữa thực hiện được các quyền của mình này không phải dễ
dàng.
Vấn đề đôi khi không nằm ở hành động của người bào chữa mà
trong thực tế người bào chữa không nhận được sự giúp đỡ của
cơ quan khác. Vì vậy mới nói: có quyền là một chuyện, có thực
hiện được quyền đó hay không lại là chuyện khác. Việc người
bào chữa gặp khó khăn khi thực hiện các quyền của mình không
chỉ ở cơ quan điều tra mà còn diễn ra khi làm việc với viện kiểm
sát, hay tòa án: “Có tòa bảo luật sư muốn photo tài liệu phải tự
mang thiết bị đến. Thực tế có luật sư đã mang hẳn một máy
Photocopy mini đến, nhưng tòa bảo không có điện để cho
dùng!?!”. Luật sư Đào Ngọc Lý( Đoàn LS TP Hà Nội) cho biết
có lần luật sư đi cùng một điều tra viên vào trại tạm giam để làm
thủ tục “Có mặt trong buổi lấy lời khai thân chủ của mình”.
Ngẫm nghĩ một hồi anh điều tra viên hẹn Luật sư 8 giờ sáng
hôm sau có mặt tại của phòng làm việc. Đúng 7 giờ 30 luật sưu
đã đi tới nhưng loanh quanh tìm khắp nơi vẫn không thấy điều
tra viên này ở đâu. Thấy đã đến giờ lấy lời khai, luật sư làm liều
đi vào trại. Đến nơi, luật sư ngẩn người bởi điều tra viên đó đã
lấy lời khai bị can trước đó rồi. luật sư Lý nhận định đây là cách

“vô hiệu hóa” luật sư của cán bộ điều tra.
Đây là những câu chuyện tưởng chừng như chỉ là những câu
chuyện hài, không thể có trong thực tiễn nhưng lại đang tồn tại
trong xã hội.
Bên cạnh đó, theo qui định tại Điều 58 BLTTHS thì Người bào
chữa có quyền gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam. Tuy nhiên,
trong nhiều trường hợp, quyền này dường như bị vô hiệu hoá,
nếu không muốn nói là không thể thực hiện được. Bởi cơ quan
điều tra có cho người bào chữa tiếp xúc với bị can, bị cáo hay
không, mới là điều quan trọng. Để gặp được bị can, bị cáo, trước


hết luật sư phải có giấy chứng nhận người bào chữa (do cơ quan
điều tra, VKS hoặc Toà án cấp). Ngoài những giấy tờ luật quy
định trên, theo luật sư Hồng Hải( ), có cán bộ trại giam còn yêu
cầu luật sư phải trình lệnh trích xuất của Toà án mới cho gặp bị
can, bị cáo. "Việc đòi luật sư phải có thêm lệnh trích xuất mới
cho gặp bị can, bị cáo là không phù hợp với quy định của pháp
luật, cũng như thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự. Hiện tượng
này phát sinh là do BLTTHS còn thiếu quy định cụ thể về các
thủ tục cần thiết khi luật sư vào trại giam gặp bị can, bị cáo".
Theo qui định tại Điểm h Khoản 2 Điều 58 về quyền của người
bào chữa thì một trong những quyền của người bào chữa là:
Tham gia xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Tuy nhiên, vai trò của
người bào chữa trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung, trong
quá trình xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa nói cung chưa được
coi trọng đúng mức. Vì thế, trong nhiều phiên tòa, sự hiện diện
của luật sư chỉ mang tính hình thức, một thứ “trang điểm thêm
đẹp” trong quá trình xét xử( ). tại phiên tòa, có thẩm phán coi
thường và phủ nhận vai trò của luật sư, gây khó khăn cho hoạt

động bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo. Bản
bào chữa cùng các đề nghị của luật sư ít khi được HĐXX xem
xét. Bị cáo trong phiên tòa đã bị coi là có tội nên quyền bào
chữa về hình thức vẫn được thực hiện, nhưng tác động của nó
đến HĐXX là rất nhỏ.
2.2. Thực tiễn thi hành những qui định của pháp luật về nghĩa vụ
của người bào chữa:
Theo qui định tại Khoản 3 Điều 58 về nghĩa vụ của người bào
chữa thì bên cạnh những quyền mà người bào chữa được hưởng
thì người bào chữa cũng phải thực hiện những nghĩa vụ qui định
tại khoản 3 điều này.
Điểm a Khoản 3 Điều 58 qui định người bào chữa có nghĩa vụ
“sử dụng mọi biện pháp do pháp luật qui định để làm sáng tỏ


nhưng tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội,
những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo
Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật
liên quan đến vụ án thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho
cơ quan điều tra,Viện kiểm sát, Tòa án. Việ giao nhận tài liệu, đồ
vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải
được lập biên bản theo qui định tại điều 95 của bộ Luật này.”( )
Tuy nhiên, trong thực tiễn không phải khi nào người bào chữa
cũng làm tốt nghĩa vụ của mình đặc biệt đối với các người bào
chữa được chỉ định. Thực tế cho thấy, đối với những vụ án mà
người bào chữa được chỉ định thì sự nhiệt tình cũng như trách
nhiệm đối với việc thực hiện nghĩa vụ của người bào chữa
không được đảm bảo nếu như không muốn nói rằng việc thực
hiện nghĩa vụ này là lấy lệ, cho xong việc:
Theo quy định của BLTTHS, cơ quan điều tra, VKS hoặc Toà án

có trách nhiệm phải mời luật sư bào chữa cho các bị can, bị cáo
có khung hình phạt cao nhất là tử hình hoặc là người chưa thành
niên, người có nhược điểm tâm thần, thể chất (nếu họ không tự
mời).
Trong một số phiên tòa thực tiễn diễn ra ở Hà Tây (cũ) thì thay
vì đưa ra các chứng cứ nhằm gỡ tội cho bị cáo, luật sư chỉ “xin”
HĐXX giảm án vì cho rằng bị cáo có nhân thân tốt. Tất cả phần
bào chữa của LS chỉ diễn ra trong vòng khoảng…3 phút. Ngoài
ra, LS cũng không tham gia phần xét hỏi và đương nhiên coi
mọi tình tiết trong vụ án đã quá rõ rang. Đặc biệt, có LS còn
ngồi nhầm phiên toà, đến lúc bị thẩm phán gọi mới ngơ ngác
đứng dậy cáo lỗi.
Cũng theo ý kiến của một số luật sư thì hiện nay, các tài liệu,
chứng cứ mà họ thu thập được giao cho cơ quan điều tra thường
không được cơ quan điều tra sử dụng không phải vì tài liệu
chứng cứ đó không có giá trị sử dụng mà do cơ quan điều tra


không mấy “mặn mà” tin tưởng vào những tài liệu, chứng cứ mà
luật sư cung cấp. Do vậy, có những trường hợp người bào chữa
thu thập được tài liệu chứng cứ của vụ án nhưng không thực
hiện nghĩa vụ giao lại cho cơ quan điều tra. Đây là một thực
trạng đáng buồn trong hoạt động tố tụng ở nước ta dưới mô hình
tổ chức nhà nước độc lập giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp
nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau vậy mà những khi cần
“độc lập” thì không “độc lập” được, những khi cần “quan hệ mật
thiết” với nhau thì không “quan hệ mật thiết” với nhau được.
Theo qui định tại Điểm d Khoản 3 Điều 58 thì người bào chữa
có nghĩa vụ:
“Nghĩa vụ tôn trọng sự thật và pháp luật, không được mua

chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối
cung cấp tài liệu sai sự thật”.
Tôn trọng pháp luật là nguyên tắc “hiến định” đối với mỗi công
dân nói chung, người bào chữa nói riêng. Trong hoạt động bào
chữa của mình, là người am hiểu pháp luật, góp phần vào việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được bào chữa thì
người bào chữa phải là người có ý thức cao nhất về vấn đề thực
hiện nghĩa vụ tôn trọng pháp luật và đi kèm với nó là việc không
được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo
gian dối cung cấp tài liệu sai sự thật. Như Điểm a đã qui định
cho người bào chữa có quyền sử dụng mọi biện pháp và biện
pháp này phải hợp pháp để làm sáng tỏ những tình tiết xác định
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của bị can bị cáo.
Do vậy, người bào chữa phải tiến hành các hoạt động nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ mà vẫn tuân thủ pháp luật
chứ không phải “mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai
báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật” để làm lợi cho bản
thân mình.


Trong thực tiễn, không ít những trường hợp người bào chữa do
được hứa hẹn lợi ích vật chất mà quên đi cái “tâm” nghề và cái
“tâm” của con người tiến hành những hoạt động vi phạm pháp
luật nhằm tìm kiếm lợi ích cho bản thân mình: Thực tế vụ án
luật sư Võ Đình Minh xúi giục bị cáo khai báo gian dối làm sai
sự thật của vụ án, ảnh hưởng nghiêm trọng tới quá trình tố tụng
đã bị chỉ trích gay gắt. như vậy trong trường hợp này, không
những người bào chữa không hoàn thành được nghĩa vụ bảo về
quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo mà còn có hành vi vi phạm

pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
Ngoài ra, khoản 4 điều 58 cũng đưa ra biện pháp xử lí đối với
những hành vi vi phạm quyền và nghĩa vụ đối vơi người bào
chữa. Thực tế, có nhiều vi phạm của người bào
Công văn VKSND huyện Cam Lộ kiến nghị xử lý luật sư Võ
Đình Minh
chữa đã bị xử lí,nhưng kéo theo đó là sự vi phạm của một số
điều tra viên, kiểm sát viên, thậm chí cả thẩm phán. Chính vì
thế, việc đảm bảo nguyên tắc “xác định sự thật của vụ án” không
những không được bảo đảm mà còn dẫn tới án oan sai. Trong
những tình huống này thì người bào chữa đã vì “quá nhiệt tình”
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ mình và mình mà
quên đi cái “tâm” của nghề, quên đi cái nghĩa vụ “tôn trọng sự
thật và pháp luật”.
Vai trò của người bào chữa trong quá trình tiến hành tố tụng nói
chung và bảo vệ quyền lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
nói chung bên cạnh những qui định của pháp luật có giá trị pháp
lí ràng buộc đối với thân chủ của mình thì còn bị ràng buộc bởi
phạm trù đạo đức nghề nghiệp, đạo đức con người. Việc pháp
luật qui định cho người bào chữa có nghĩa vụ: “giúp người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lí nhằm bảo đảm quyền lợi


hợp pháp của họ” nhưng trong thực tế, ngoài việc người bào
chữa giúp đỡ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và cả những người
thân của họ cả về mặt tinh thần.
Thực tiễn cho thấy, khi người bị tạm giữ, bị can bị cáo nhờ đến
người bào chữa cho mình thì cả họ và người thân của họ đều rất
tin tưởng vào người bào chữa và ít nhiều cũng đặt hi vọng vào
người bào chữa. Do vậy, bên cạnh việc giúp người bị tạm giữ, bị

can bị cáo về mặt pháp lí thì ở một chừng mực nào đó, hiện nay
người bào chữa đã giúp đỡ rất nhiều về mặt tinh thần cho người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người thân của họ. Tuy nhiên, cũng
có những người bào chữa không quan tâm tới đạo đức nghề
nghiệp, đạo đức xã hội mà chạy theo cái thực dụng mà quên mất
rằng bên cạnh những thứ xô bồ thực dụng còn “tình người” nữa.
Có dịp tiếp xúc với các bác Luật sư đã nhiều năm “lăn lộn” cuộc
đời tôi vẫn nhớ như in lời dạy của bác Nguyễn Kiến Thiết:
Trưởng VPLS Kiến Thiết đoàn LSTP Hà Nội: “Lời tuyên án của
Tòa có những khi không làm cho họ(…) chết hẳn mà chính thái
độ của Luật sư (sự vắng mặt của Luật sư ngày tòa tuyên án) làm
cho họ thực sự chết hẳn vì một chút niềm tin mong manh của họ
cũng tan thành mây khói”.
2.3. Nguyên nhân và Hướng hoàn thiện những qui định của pháp
luật về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa.
• Nguyên nhân:
 Nguyên nhân khách quan
Trước hết, nguyên nhân dẫn đến tình trạng quyền và nghĩa vụ
của người bào chữa chưa được bảo đảm phải kể đến là do những
qui định của pháp luật hiện hành còn nhiều bất cập với tình hình
thực tiễn:
o Về người bào chữa: Theo qui định tại điều 56 Bộ luật tố tụng
hình sự thì người bào chữa có thể là : luật sư, bào chữa viên
nhân dân, người đại diện của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.


Tuy nhiên, thống pháp luật hiện hành không có văn bản nào quy
định về tiêu chuẩn bào chữa viên nhân dân mà chỉ qui định
chung chung về bào chữa viên nhân dân. Về mặt pháp lý, bào
chữa viên nhân dân và Người đại diện hợp pháp của người bị

tạm giữ, bị can, bị cáo là một chủ thể tư pháp có tư cách của
người bào chữa trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, trong thực tiễn
tố tụng hình sự ở Việt Nam, việc xem xét thủ tục chứng nhận tư
cách người bào chữa, các nguyên tắc, phạm vi tham gia tố tụng
lại chưa được hướng dẫn và quy định chi tiết, dẫn đến các cơ
quan tiến hành tố tụng các cấp gặp rất nhiều khó khăn trong việc
đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ giống hay khác
luật sư ở mức nào. Và thực tiễn cho thấy Mặc dù có một số
người tham gia với tư cách bào chữa viên nhân dân có những
đóng góp nhất định trong việc bảo vệ quyền lợi cho bị can, bị
cáo là thành viên tổ chức Mặt trận, nhưng nhìn chung chất lượng
hành nghề của phần đông những người này không cao, gặp rất
nhiều cản ngại, vướng mắc do những hạn hẹp về kiến thức pháp
luật, lại không được đào tạo chuyên sâu về các kỹ năng hành
nghề trong tranh tụng vụ án hình sự, không được tập sự trong
các tổ chức hành nghề luật sư chuyên nghiệp. Thực tiễn xét xử
những người này tham gia tố tụng rất hạn chế, hãn hữu mới có
người được Tòa án chấp nhận tham gia. Trong giai đoạn điều
tra, truy tố thì hoàn toàn vắng bóng họ, vì thực tế luật sư tham
gia còn rất khó khăn.
Hơn nữa, về người đại diện của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
thì cũng không có hướng dẫn cụ thể nào mà phải áp dụng điểm a
khoản 1 Điều 58 Bộ Luật Dân Sự về giám hộ đương nhiên đối
với người chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi) để hiểu người đại
diện hợp pháp là: Người chưa thành niên không còn cha, mẹ,
không xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất năng lực
hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Toà án


hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện

chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có
yêu cầu. Hoặc người đại diện theo pháp luật bao gồm: Cha, mẹ
đối với con chưa thành niên; Người giám hộ đối với người được
giám hộ (Điều 141 BLDS).
o Có sự vi phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng:
Cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án cản trở người bào chữa
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Thời hạn cấp giấy chứng nhận người bào chữa là một minh
chứng cụ thể nhất cho nguyên nhân khách quan ảnh hưởng đến
việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của ngừơi bị tạm giữ, bị can,
bị cáo: tại Khoản 4 Điều 56 BLTTHS quy định cụ thể hơn về
thời gian “tham gia tố tụng” bằng hình thức tiếp của người bào
chữa như sau:
“Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của
người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa,
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải xem xét, cấp giấy
chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu
từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lý do.
Đối với trường hợp tạm giữ người thì trong thời hạn 24 giờ, kể
từ khi nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ
liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan điều tra phải xem xét, cấp
giấy chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa.
Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lý do( )”.
Ngoài những lí do luật định, cơ quan tố tụng phải cấp giấy
chứng nhận người bào chữa cho Luật sư hoặc người đại diện
hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để họ thực hiện
nhiệm vụ bào chữa và không được quyền cản trở người bào
chữa tiếp xúc với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm
giam dù chưa kết thúc việc điều tra.



Lý do ở đây là những lý do đã được luật hóa tại BLTTHS nhưng
cơ quan tố tụng đã tự “nại” ra để cản trở người bào chữa thực
hiện nhiệm vụ của mình.
Không chỉ dừng lại ở việc gây khó khăn cho người bào chữa
thực hiện các quyền cảu mình trong thủ tục cấp giấy chứng nhận
người bào chữa mà còn trong rất nhiều thủ tục tố tụng đã phân
tích ở trên
o Về người bị tạm giữ, bị can, bị cáo:
Thực tiễn chứng minh: Không phải người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo nào cũng có sự hiểu biết pháp luật đủ để ý thức được quyền
của mình khi bị tạm giữ, là bị can, bị cáo.
Pháp luật tố tụng hình sự bảo đảm cho họ quyền được mời
người bào chữa song trong thực tế, bên cạnh sự tác động của cơ
quan điều tra (nhục hình, ép cung, mớm cung..) họ đã làm mất đi
quyền cơ bản của mình đã được luật tố tụng hình sự khái quát
thành nguyên tăc . Đây cũng chính là một trong những nguyên
nhân gây khó khăn cho hoạt động bào chữa của người bào chữa.
 Nguyên nhân chủ quan
o Nguyên nhân tiếp theo phải kể đến là khả năng của người bào
chữa khi tham gia bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo:
Như trên đã phân tích: trong một chừng mực nào đó, tư cách của
người bào chữa chưa dủ tiêu chuẩn để “đi tìm sự thật của chân
lí” cho thân chủ. Đó là những người phẩm chất đạo đức, tư cách
hành nghề bị thoái hóa, biến chất chỉ nhằm vào lợi ích của bản
thâm mà quên đi sự thật luôn thuộc về chân lí.
Hơn nữa, có một số người bào chữa có cái “tâm” nhưng sự hiểu
biết pháp luật lại có mức độ do vậy không nhạy bén trong việc

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng thực hiện quyền và


nghĩa vụ của người bào chữa, nhưng tựu chung lại, trên đây là
những nguyên nhân mà chúng ta cần phải triệt tiêu “luôn” và
“ngay” nhằm đảm bảo hoạt động bào chữa của người bào chữa
nói riêng, hoạt động tố tụng hình sự nói chung.
• Hướng hoàn thiện:
 Trước hết, chúng ta cần phải hoàn thiện những qui định của
pháp luật nhằm tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình bào chữa.
Hiện nay, cùng với việc thực thi Luật Luật sư năm 2006, Liên
đoàn luật sư Việt Nam ra đời( ) đã khẳng định sự lớn mạnh và vị
thế của đội ngũ luật sư Việt Nam, hướng tới việc xây dựng một
đội ngũ luật sư chuyên nghiệp thực hiện các phạm vi hành nghề
tư vấn, tranh tụng và cung cấp các dịch vụ pháp lý phủ kín các
mặt của đời sống xã hội và đời sống tư pháp, vì vậy cần xem xét
lại và bỏ chế định bào chữa viên nhân dân là người bào chữa
trong BLTTHS sửa đổi, bổ sung sắp tới. Các nhà lập pháp cần
tập trung quy định có hiệu lực về hoạt động bào chữa trong tố
tụng hình sự vào chủ thể tư pháp duy nhất có đủ phẩm chất, kỹ
năng và đạo đức hành nghề là luật sư. Điều đó cũng phù hợp với
xu thế phát triển khách quan của nghề luật sư và chủ trương cải
cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
 Hiện nay Bị cáo phản cung với lý do bị bức cung, ép mớm,
nhục hình… là vấn đề rất bức xúc trong các phiên tòa ở Việt
Nam , làm giảm uy tín của cơ quan điều tra, truy tố.
Để khắc phục tình trạng này, Bộ luật tố tụng hình sự và các văn

bản hướng dẫn cần chi tiết hóa theo hướng: ngoài điểm điều luật
đã quy định điều tra viên thông báo cho luật sư thời gian, địa
điểm hỏi cung bị can; cách thức trao đổi, liên hệ để thông báo
với luật sư, những nguyên tắc và trách nhiệm bảo mật thông tin
điều tra. Khi tham gia hỏi cung, luật sư được hỏi sau mỗi vấn đề,
nội dung điều tra viên hỏi. Luật sư có quyền giải thích pháp luật


cho bị can về quyền trả lời hoặc không trả lời vấn đề điều tra
viên hỏi. Luật sư có quyền phản đối câu hỏi mớm cung, bức
cung của điều tra viên; xem xét và có ý kiến về nội dung biên
bản hỏi cung có đúng nội dung trả lời của bị can hay không; xác
định tình trạng sức khỏe và tâm thần của bị can khi hỏi cung.
Điểm e khoản 2 Điều 58 cần bổ sung theo tinh thần: luật sư có
quyền gặp riêng làm việc với người bị tạm giữ,bị can, bị cáo khi
cần thiết. Trong trường hợp đặc biệt, một số tội cụ thể luật sư có
quyền làm việc với bị can trong tầm nhìn nhưng không trong
tầm nghe của cán bộ tố tụng. Không bị hạn chế về số lượng lần
gặp và thời gian gặp chứ mà không phải quy định chung chung
là được gặp để tránh những sự gây khó khăn từ phía cơ quan và
người thi hành tố tụng chỉ cho gặp một cách hình thức và hạn
chế thời gian được gặp.
Cần bổ sung quy định lời khai của bị can trong quá trình điều
tra, truy tố mà không có sự tham gia của luật sư thì không được
công nhận là chứng cứ. Sự bổ sung này hoàn toàn khả thi trong
điều kiện hiện nay của nước ta. Ở những nước có nền dân chủ tư
pháp phát triển, bị can, bị cáo có quyền từ chối cung khai nếu
vắng mặt luật sư. Sự có mặt của luật sư trong các buổi lấy cung
có 2 ý nghĩa: giám sát, không để xảy ra việc mớm cung, bức
cung, nhục hình; và không để xảy ra tình trạng phản cung, bác

lời khai tại cơ quan điều tra, viện kiểm sát bởi việc lấy cung đã
có người thứ ba chứng kiến.
 Đối với người bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không chỉ là quyền mà còn là
trách nhiệm pháp lý, là nghĩa vụ nghề nghiệp của họ. Muốn thực
hiện được quyền và nghĩa vụ này người bào chữa phải tiến hành
thu thập chứng cứ để có đủ phương tiện chứng minh. Tuy nhiên,
pháp luật tố tụng hình sự chưa cho phép người bào chữa có
quyền thu thập chứng cứ, tài liệu có liên quan đến vụ án. Khi


×