Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Trách nhiệm của các chủ thể trong thẩm tra thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.91 KB, 9 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................1
NỘI DUNG CHÍNH........................................................................................1
1. Những lí luận chung.................................................................................1
1.1. Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật và thẩm tra,
thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật...................................1
1.2. Chủ thể thẩm tra, thẩm định dự thảo
văn bản quy phạm pháp luật.................................................................2
2. Trách nhiệm của các chủ thể trong thẩm tra, thẩm định dự thảo
Văn bản quy phạm pháp luật........................................................................3
2.1. Trách nhiệm thẩm tra.....................................................................3
2.1.1. Trách nhiệm thẩm tra của Hội đồng dân tộc và các
Ủy ban của Quốc hội......................................................................3
2.1.2. Trách nhiệm thẩm tra của văn phòng Chính phủ.................4
2.1.3. Trách nhiệm thẩm tra của các Ban thuộc
Hội đồng nhân dân.........................................................................4
2.2. Trách nhiệm thẩm định..................................................................5
2.2.1. Trách nhiệm thẩm định của Bộ Tư pháp..............................5
2.2.2. Trách nhiệm thẩm của cơ quan tư pháp trực thuộc
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ...........................................6
3. Giải pháp nâng cao trách nhiệm của các chủ thể trong việc
thẩm tra, thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật ..........................7
KẾT LUẬN......................................................................................................7
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................8


__________Bài tập lớn học kì– Xây dựng văn bản pháp luật __________

LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước Việt Nam của chúng ta đa trong thời kì quá độ, với mục tiêu xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong đó hệ thống pháp luật tiên tiến,


đồng bộ và hoàn thiện chính là một điểm tựa vững chắc để thực hiện mục tiêu vĩ
đại này. Để có thể xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện cần phải trải qua
rất nhiều giai đoạn phức tạp mà việc thẩm tra, thẩm định các dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật là một phần không thể thiếu. Trách nhiệm của các chủ thể trong
việc thẩm tra, thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật cũng luôn là một
vấn đề được các nhà làm luật trong nước cũng như quốc tế quan tâm nghiên cứu.

NỘI DUNG CHÍNH
1. Những lí luận chung.
1.1. Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật và thẩm tra, thẩm định dự
thảo văn bản quy phạm pháp luật.
“Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc
pợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định
trong Luật ban hành văn bản pháp luật hoặc trong Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, trong đó có quy tắc xử
sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều
chỉnh các quan hệ xã hội” khái niệm về văn bản quy phạm pháp luật đã được nêu
ra cụ thể tại Điều 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008. Với vai
trò là bộ phận quan trọng hàng đầu của hệ thống văn bản pháp luật, việc nghiên
cứu, xây dựng, thực thi, sửa đổi, bổ sung…cũng như trách nhiệm của các chủ thể
trong việc thẩm tra, thẩm định các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật luôn luôn
được quan tâm. Có thể minh chứng luận điểm này bằng việc luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật mới ra đời ngày 12/6/2008, có hiệu lực ngày 01/01/2009
thay thế cho luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996.
Từ điển Luật học định nghĩa về thẩm tra như sau: “Thẩm tra là việc xem xét
lại kĩ lưỡng dự án luật, pháp lệnh do Hội đồng dân tộc, Ủy ban pháp luật hoặc
một Ủy ban hữu quan của Quốc hội hay một Ủy ban lâm thời được Quốc hội chỉ
định tiến hành trước khi trình UBTVQH. Cơ quan thẩm tra xem xét cả hình thức
và nội dung nhưng tập trung chủ yếu vào xem xét sự phù hợp với chủ trương,
chính sách của Đảng; tính hợp hiến, hợp pháp; đối tượng; nội dung, phạm vi và

tính khả thi của dự án”. Bên cạnh đó thì định nghĩa việc thẩm định dự thảo văn
2


__________Bài tập lớn học kì– Xây dựng văn bản pháp luật __________

bản pháp luật cũng đã được định nghĩa tại Quy chế thẩm định dự án, dự thảo văn
bản quy phạm pháp luật ban hành kèm theo Quyết định số 05/2007/QĐ- TTg ngày
10/01/2007 của Thủ tướng chính phủ như sau: thẩm định dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật là “xem xét, đánh giá về nội dung, hình thức của dự án, dự thảo
nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ của dự án, dự
thảo trong hệ thống pháp luật”(Điều 1 Quy chế thẩm định dự án, dự thảo văn bản
quy phạm pháp luật).
Nói chung thẩm tra, thẩm định dự thảo là việc cơ quan có thẩm quyền của Nhà
nước xem xét toàn diện dự thảo trước khi trình cơ quan có thẩm quyền ban hành
văn bản quy phạm pháp luật.
1.2. Chủ thể thẩm tra, thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
Khoản 1 Điều 41 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008, Điều 21
Luật tổ chức Quốc hội 2001 đa quy định Chủ thể thẩm tra dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương bao gồm hội đồng dân tộc
và các Ủy ban của Quốc hội (và gọi chung là cơ quan thẩm tra) ngoài ra văn
phòng chính phủ cũng có trách nhiệm thẩm tra một số văn bản quy phạm pháp
luật. Đồng thời, ở địa phương thì cơ quan thẩm tra dự thảo nghị quyết của Hội
đồng nhân dân các cấp thuộc về các ban của Hội đồng nhân dân theo quy định tại
khoản 2 Điều 55 luật tổ chức hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân năm 2004.
Bên cạnh việc quy định các chủ thể có thẩm quyền thẩm tra dự thảo văn bản
quy phạm pháp luật thì pháp luật cũng quy định chủ thể có thẩm quyền tiến hành
thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể khoản 1 Điều 36 Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 quy định “Bộ Tư pháp có trách nhiệm
thẩm định dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trước khi trình Chính phủ.

Đối với dự án, dự thảo có nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực
hoặc do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp thành lập Hội
đồng thẩm định, bao gồm đại diện các cơ quan hữu quan, các chuyên gia, nhà
khoa học.” Như vậy ở trung ương Bộ tư pháp và tổ chức pháp chế của các bộ,
ngành là cơ quan có thẩm quyền thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
Ở địa phương chủ thể có thẩm quyền thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật được giao cho cơ quan tư pháp trực thuộc Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân: với cấp tỉnh là Sở Tư pháp, cấp huyện là Phòng Tư pháp (quy định tại Điều
24 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND & UBND năm 2004,
thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV...).

3


__________Bài tập lớn học kì– Xây dựng văn bản pháp luật __________

2. Trách nhiệm của các chủ thể trong việc thẩm tra, thẩm định dự thảo
văn bản quy phạm pháp luật.
Trong từ điển tiếng Việt thuật ngữ “trách nhiệm” là điều phải làm, phải gánh
vác hoặc nhận lấy về mình. Như vậy, ta có thể hiểu trách nhiệm thẩm tra, thẩm
định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật là nghĩa vụ bắt buộc của cơ quan có
thẩm quyền trong việc xem xét, đánh giá toàn diện, khách quan đối với dự thảo
văn bản quy phạm pháp luật trước khi trình cơ quan có thẩm quyền ban hành văn
bản.
Thẩm tra và thẩm định là những hoạt động tương tự về mặt chuyên môn nhưng
chúng cũng những khác biệt: Xét về thời điểm tiến hành, thẩm định được thực
hiện trước thẩm tra trong quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Hầu hết
các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật đều được thẩm định (trừ dự thảo nghị
quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
của cấp xã) nhưng riêng các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Quốc

hội, UBTVQH và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện còn được thẩm tra bởi
các cơ quan chuyên trách của Quốc hội và Hội đồng nhân dân cùng cấp. Trách
nhiệm mà các chủ thể thẩm định, thẩm tra VBQPPL đều phải thực hiện đó là các
chủ thể này phải tiến hành thẩm tra thẩm định các dự thảo, viết báo cáo thẩm định,
thẩm tra và gửi các báo cáo đó đến cơ quan chủ trì việc soạn thảo đúng thời hạn
do pháp luật quy định, tạo điều kiện cho cơ quan chủ trì soạn thảo trong việc
chỉnh lý hoàn thiện dự thảo văn bản theo yêu cầu thẩm tran, thẩm định.
Sau đây để làm rõ hơn trách nhiệm của các chủ thể trong việc thẩm tra, thẩm
định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật ta sẽ đi sâu vào nghiên cứu trách nhiệm
này trong từng công việc thẩm tra và thẩm định.
2.1. Trách nhiệm của các chủ thể trong việc thẩm tra
2.1.1. Trách nhiệm thẩm tra của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc
hội.
Trách nhiệm thẩm tra của Hội đồng dân tộc và Ủy ban của Quốc hội được quy
định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008. Cụ thể tại điều
41 luật này quy định Hội đồng dân tộc và Ủy ban của Quốc hội có trách nhiệm
chủ trì thẩm tra dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết thuộc lĩnh vực do mình
phụ trách và các dự án, dự thảo khác do Quốc hội, UBTVQH giao đồng thời tham
gia thẩm tra dự án, dự thảo do cơ quan khác của Quốc hội chủ trì thẩm tra theo sự
phân công của UBTVQH trước khi trình Quốc hội và UBTVQH thảo luận cho ý
4


__________Bài tập lớn học kì– Xây dựng văn bản pháp luật __________

kiến. Đồng thời, cơ quan chủ trì thẩm tra có trách nhiệm mời đại diện cơ quan
được phân công tham gia thẩm tra dự phiên họp thẩm tra để phát biểu ý kiến về
nội dung của dự án, dự thảo liên quan đến lĩnh vực do cơ quan đó phụ trách và
những vấn đề khác thuộc về nội dung của dự án, dự thảo. Cơ quan thẩm tra tiến
hành thẩm tra về tất cả các mặt của dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị

quyết, tuy nhiên nội dung thẩm tra chủ yếu tập trung vào những vấn đề được quy
định tại Điều 43 Luật ban hành văn bản pháp luật 2008: “1. Phạm vi, đối tượng
điều chỉnh của văn bản; 2. Nội dung của dự thảo văn bản và những vấn đề còn có
ý kiến khác nhau; 3. Sự phù hợp của nội dung dự thảo văn bản với đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, với Hiến pháp, pháp luật và tính thống nhất của dự
thảo văn bản với hệ thống pháp luật; 4. Tính khả thi của các quy định trong dự
thảo văn bản.” Cơ quan chủ trì thẩm tra phải tổ chức phiên họp toàn thể để thẩm
tra; riêng đối với dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội trình UBTVQH cho
ý kiến thì có thể tổ chức phiên họp thường trực Hội đồng, thường trực Ủy ban để
thẩm tra sơ bộ. Cơ quan thẩm tra có trách nhiệm xây dựng báo cáo thẩm tra theo
đúng yêu cầu đã quy định tại Điều 45 Luật ban hành văn bản pháp luật năm 2008.
2.1.2. Trách nhiệm thẩm tra của Chính phủ.
Cho dù, trách nhiệm về việc thẩm tra văn bản quy phạm pháp luật của Văn
phòng chính phủ không được quy định rõ ràng trong luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2008, tuy nhiên, theo nghị định số 18/2003/NĐ- CP ngày
20/02/2003 của chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Văn phòng chính phủ, Điều 36 nghị định số 161/2005/NĐ- CP và Điều
16 quy chế làm việc của chính phủ ban hành kèm theo nghị định số 23/2003/NĐCP ngày 12/12/2003, công việc thẩm tra là nhiệm vụ thường xuyên, bắt buộc,
mang tính nội bộ của Văn phòng chính phủ. Theo các quy định trong các điều
luật trên thì văn phòng chính phủ chịu trách nhiệm thẩm tra về quy trình, hồ sơ thủ
tục hành chính, tính hợp pháp, sự phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng, nhà nước và sự phù hợp với chỉ đạo của Thủ tướng chính phủ; phân
tích, tổng hợp có ý kiến đánh giá độc lập về nội dung của đề án, dự án để trình
Chính phủ, Thủ tướng chính phủ xem xét quyết định.
2.1.3. Trách nhiệm thẩm tra của các Ban thuộc Hội đồng nhân dân.
Theo như quy định tại khoản 2 Điều 55 Luật tổ chức HĐND và UBND năm
2004 thì : “Các Ban của Hội đồng nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau
đây:… thẩm tra các báo cáo, đề án do Hội đồng nhân dân hoặc Thường trực Hội
5



__________Bài tập lớn học kì– Xây dựng văn bản pháp luật __________

đồng nhân dân phân công”. Điều 27 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
của HĐND và UBND năm 2004 quy định về trách nhiệm thẩm tra dự thảo nghị
quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh của các Ban của HĐND: “Dự thảo nghị
quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phải được Ban của Hội đồng nhân dân
cùng cấp thẩm tra trước khi trình Hội đồng nhân dân… Phạm vi thẩm tra bao
gồm:a) Sự phù hợp của nội dung dự thảo nghị quyết với đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng; b) Sự phù hợp của nội dung dự thảo nghị quyết với tình
hình, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của địa phương;c) Tính hợp hiến, hợp
pháp và tính thống nhất của dự thảo nghị quyết với hệ thống pháp luật... Báo cáo
thẩm tra phải được gửi đến Thường trực Hội đồng nhân dân chậm nhất là bảy
ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Hội đồng nhân dân.” Sau khi hoàn thành báo
cáo thẩm tra Ban thẩm tra có trách nhiệm gửi báo cáo này đến thường trực Hội
đồng nhân dân trong thời hạn 7 ngày trước khi khai mạc kỳ họp Hội đồng nhân
dân. Tại kì họp Hội đồng nhân dân, Đại diện Ban của Hội đồng nhân dân được
phân công thẩm tra có trách nhiệm trình bày báo cáo thẩm tra (quy định tại điểm
b, khoản 1, Điều 29, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và
UBND năm 2004).

2.2. Trách nhiệm của các chủ thể trong việc thẩm định.
2.2.1. Trách nhiệm thẩm định của Bộ tư pháp
Điều 41 Nghị định số 24/2009/NĐ- CP của Chính phủ đã quy định cụ thể
trách nhiệm trong việc thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Tư
pháp: “Bộ Tư pháp tiến hành thẩm định dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị định
trước khi trình Chính phủ”.Vụ pháp luật Dân sự- Kinh tế, Vụ pháp luật Hình sựHành chính, Vụ pháp luật Quốc tế là ba đơn vị thuộc Bộ tư pháp chịu trách nhiệm
về công tác thẩm định. Đối với các dự án, dự thảo có nội dung phức tạp, có liên
quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực hoặc do Bộ tư pháp chủ trì soạn thảo thì Bộ
trưởng Bộ tư pháp thành lập hội đồng thẩm định bao gồm đại diện các cơ quan

hữu quan, các chuyên gia, các nhà khoa học. Việc thẩm định này tập trung vào: Sự
cần thiết ban hành văn bản, đối tượng, phạm vi điều chỉnh của dự thảo văn bản; sự
phù hợp của nội dung dự thảo văn bản với đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng; tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo văn bản với hệ
thống pháp luật và tính tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng

6


__________Bài tập lớn học kì– Xây dựng văn bản pháp luật __________

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; tính khả thi của dự thảo văn bản,
bao gồm sự phù hợp giữa quy định của dự thảo văn bản với yêu cầu thực tế, trình
độ phát triển của xã hội và điều kiện bảo đảm để thực hiện; ngôn ngữ, kỹ thuật
soạn thảo văn bản. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan thẩm định yêu cầu cơ
quan chủ trì soạn thảo báo cáo về những vấn đề liên quan đến nội dung dự án, dự
thảo. (quy định tại khoản 3 Điều 36 Luật ban hành vbqppl năm 2008). Khoản 4
điều luật này cũng quy định cơ quan thẩm định phải gửi báo cáo thẩm định đến cơ
quan chủ trì soạn thảo chậm nhất là hai mươi ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ gửi
thẩm định.
Tổ chức pháp chế bộ, ngành là chủ thể chịu trách nhiệm thẩm tra dự thảo,
thông tư của bộ, cơ quan ngang bộ trước khi trình Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ kí ban hành. Đối với một số bộ, ngành tổ chức pháp chế còn thẩm định
cả dự thảo luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định của Thủ tướng chính phủ mà bộ,
cơ quan ngang bộ được giao chủ trì soạn thảo trước khi các dự thảo văn bản này
được trình lên Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ xem xét, quyết định trình
dự thảo lên cơ quan có thẩm quyền.
2.2.2. Trách nhiệm thẩm của cơ quan tư pháp trực thuộc Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân.
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND & UBND 2004 quy

định thẩm định là một khâu bắt buộc trong việc soạn thảo, ban hành nghị quyết
của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
và cấp huyện nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng VBQPPL của chính quyền
địa phương. Theo luật này thì dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng
nhân dân do Uỷ ban nhân dân cùng cấp trình phải được cơ quan tư pháp cùng cấp
thẩm định trước khi trình Uỷ ban nhân dân. Phạm vi thẩm định bao gồm: sự cần
thiết ban hành nghị quyết; đối tượng, phạm vi điều chỉnh của dự thảo nghị quyết;
tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo nghị quyết với hệ thống
pháp luật; ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo văn bản. Cơ quan tư pháp cũng có thể đưa
ra ý kiến về tính khả thi của dự thảo nghị quyết. Chậm nhất là bảy ngày trước
ngày Uỷ ban nhân dân họp, cơ quan tư pháp gửi báo cáo thẩm định đến cơ quan
soạn thảo. Cơ quan soạn thảo có trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu ý kiến thẩm
định để chỉnh lý dự thảo nghị quyết.

7


__________Bài tập lớn học kì– Xây dựng văn bản pháp luật __________

3. Giải pháp nâng cao trách nhiệm của các chủ thể trong việc thẩm tra,
thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
Trong thời gian vừa qua công tác thẩm tra thẩm định đã đạt được rất nhiều
thành tựu, tuy nhiên bên cạnh đo vẫn là những điểm hạn chế bất cập cần được giải
quyết, ví dụ như một số văn bản được ban hành vẫn chưa có tính khả thi, hay
không hợp hiến, hợp pháp. Để cải thiện điều này rất cần những biện pháp khắc
phục kịp thời, trong đó có một số biện pháp sau:
Thứ nhất, nâng cao trách nhiệm và năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác
thẩm tra thẩm định, có quy định cụ thể chủ thể làm công tác phải chịu trách nhiệm
pháp lí về kết quả thẩm tra, thẩm định của mình; bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ,
tăng cường công tác tập huấn cho đội ngũ cán bộ, đảm bảo và tạo các điều kiện

thuận lợi về cơ sở vật chất, kinh phí, thông tin tư liệu.
Thứ hai, tăng cường hiệu quả phối hợp giữa chủ thể có thẩm quyền thẩm định,
thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở trung ương,
địa phương với các cơ quan chủ trì việc soạn thảo và các bên liên quan giúp cho
việc thẩm tra thẩm định đạt kết quả cao nhất, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp
luật.
Thứ ba, pháp luật cần sửa đổi bổ sung một số quy định liên quan đến hoạt động
thẩm tra, thẩm định nhằm nâng cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân thực
hiện nhiệm vụ này, đồng thời giảm sự chồng chéo trong quá trình thực hiên hai
công việc.


KẾT LUẬN
Công tác thẩm tra, thẩm định các văn bản quy phạm pháp luật là một phần
không thể thiếu, là một mắt xích quan trọng trong quá trình hoàn thiện hóa, đồng
bộ hóa hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay. Để thực hiện tốt hai công việc này
đòi hỏi mỗi chủ thể có thẩm quyền thẩm tra và thẩm định các văn bản quy phạm
pháp luật cần tự mình nhận thức được trách nhiệm lớn lao của bản thân. Từ đó
góp phần xây dựng một nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong
tương lai.

8


__________Bài tập lớn học kì– Xây dựng văn bản pháp luật __________

Danh mục tài liệu tham khảo
1. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Xây dựng văn bản pháp luật, NXB Công an
nhân dân, Hà Nội, 2008.
2. Viện khoa học Pháp lí- Bộ tư pháp, Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển bách

khoa, Hà Nội, 2006.
3. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.
4. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân, ủy ban
nhân dân năm 2004.
5. Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003.
6. Luật tổ chức Quốc hội năm 2001.
7. Nghị định số 24/2009/NĐ- CP của Chính phủ ban hành ngày 05/03/2009
quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản QPPL.
8. Quyết định của Thủ tướng chính phủ số 05/2007/QĐ-TTG ngày 10/01/2007
ban hành quy chế thẩm định dự án, dự thảo VB QPPL.

9



×