Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ sở y tế và thực tiễn áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.51 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐÊ
GIẢI QUYẾT VẤN ĐÊ
I. Quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường đối với bệnh viện,
cơ sở y tế
1. Các yêu cầu về bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ sở y tế
2. Trách nhiệm của bệnh viện, cơ sở y tế trong vấn đề bảo vệ môi
trường đối với bệnh viện, cơ sở y tế
3. Trách nhiệm của cơ quan Nhà nước trong vấn đề bảo vệ môi trường
đối với bệnh viện, cơ sở y tế
4. Đánh giá thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường đối với bệnh
viện, cơ sở y tế
II. Thực tiễn áp dụng các quy định về bảo vệ môi trường đối với
bệnh viện, cơ sở y tế
1. Những thành tựu đạt được
2. Những hạn chế còn tồn tại
III. Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ
sở y tế
KẾT THÚC VẤN ĐÊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1


ĐẶT VẤN ĐÊ
Bảo vệ môi trường đang là một trong yếu tố quan trọng trong chiến lược
phát triển quốc gia. Hiện nay, ô nhiễm môi trường do chất thải y tế gây ra đang
là mối lo ngại của xã hội, nó không chỉ tác động xấu tới môi trường mà còn gây
ra những tác hại lâu dài đối với đời sống và sức khỏe người dân. Chính vì vậy
việc đặt ra vấn đề bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ sở y tế là hết sức
thiết yếu.


GIẢI QUYẾT VẤN ĐÊ
I. Quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ
sở y tế
Vấn đề bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ sở y tế đã được pháp
luật cụ thể hóa thông qua Điều 39 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 (Luật
BVMT) về Bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ sở y tế khác:
“1. Bệnh viện và các cơ sở y tế khác phải thực hiện các yêu cầu bảo vệ
môi trường sau đây:
a) Có hệ thống hoặc biện pháp thu gom, xử lý nước thải y tế và vận hành
thường xuyên, đạt tiêu chuẩn môi trường;
b) Bố trí thiết bị chuyên dụng để phân loại bệnh phẩm, rác thải y tế tại
nguồn;
c) Có biện pháp xử lý, tiêu huỷ bệnh phẩm, rác thải y tế, thuốc hết hạn
sử dụng bảo đảm vệ sinh, tiêu chuẩn môi trường;
d) Có kế hoạch, trang thiết bị phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường do
chất thải y tế gây ra;
đ) Chất thải rắn, nước thải sinh hoạt của bệnh nhân phải được xử lý sơ
bộ loại bỏ các mầm bệnh có nguy cơ lây nhiễm trước khi chuyển về cơ sở xử lý,
tiêu huỷ tập trung.
2. Bệnh viện, cơ sở y tế khác điều trị các bệnh truyền nhiễm phải có các
biện pháp cách ly khu dân cư, các nguồn nước.
Bệnh viện, cơ sở y tế khác xây dựng mới điều trị các bệnh truyền nhiễm
không được đặt trong khu dân cư.

2


3. Các cơ sở chiếu xạ, dụng cụ thiết bị y tế có sử dụng chất phóng xạ
phải đáp ứng các yêu cầu về an toàn hạt nhân và an toàn bức xạ quy định tại
Điều 89 của Luật này và pháp luật về an toàn hạt nhân và an toàn bức xạ.

4. Người lao động trong bệnh viện, cơ sở y tế khác có hoạt động liên
quan đến chất thải y tế phải được trang bị quần áo, thiết bị bảo đảm an toàn,
tránh lây nhiễm dịch bệnh từ chất thải y tế.
5. Bộ Y tế chủ trì phối hợp với bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có liên quan chỉ đạo, tổ chức việc
thống kê nguồn thải, đánh giá mức độ ô nhiễm của các bệnh viện, cơ sở y tế
khác; đề ra biện pháp giải quyết ô nhiễm và hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện
pháp luật về bảo vệ môi trường đối với bệnh viện và cơ sở y tế khác”.
Và nội dung chủ yếu của điều luật này được thể hiện ở những khía cạnh cụ thể
sau đây:
1. Các yêu cầu về bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ sở y tế
Khoản 1 Điều 39 Luật BVMT 2005 quy định bệnh viện và các cơ sở y tế
khác phải thực hiện các yêu cầu bảo vệ môi trường liên quan đến vấn đề quản
lý chất thải y tế.
Thứ nhất, khái niệm chất thải y tế
Chất thải y tế hay còn gọi là chất thải bệnh viện nằm trong nhóm liệt kê
danh mục các loại chất thải nguy hại. Theo Quy chế quản lý chất thải y tế được
ban hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT ngày 30/11/2007 của Bộ
trưởng Bộ Y tế thì: “Chất thải y tế là vật chất ở thể rắn, lỏng và khí được thải
ra từ các cơ sở y tế bao gồm chất thải y tế nguy hại và chất thải thông thường ”
(khoản 1 Điều 3), “chất thải y tế nguy hại là chất thải y tế chứa yếu tố nguy hại
cho sức khỏe con người và môi trường như dễ lây nhiễm, gây ngộ độc, phóng
xạ, dễ cháy, dễ nổ, dễ ăn mòn hoặc có đặc tính nguy hại khác nếu những chất
thải này không được tiêu hủy an toàn” (khoản 2 Điều 3).
Chất thải y tế có thể phát sinh từ thực tế y khoa, nha khoa, thú y hoặc
tương tự và các chất thải phát sinh trong các bệnh việc hoặc các cơ sở khác
trong quá trình nghiên cứu chữa chạy cho các bệnh nhân hoặc các dự án nghiên
cứu. Các hoạt động này sản sinh ra một lượng chất thải y tế khổng lồ, trong đó

3



ảnh hưởng tiêu cực nhất là chất thải y tế nguy hại. Những chất thải này không
được tiêu hủy sẽ gây nguy hại cho môi trường và sức khỏe con người.
Thứ hai, những vấn đề chung về quản lý chất thải y tế
Khoản 3 Điều 3 Quy chế quản lý chất thải y tế quy định: “Quản lý chất
thải y tế là hoạt động quản lý việc phân loại, xử lý ban đầu, thu gom, vận
chuyển, lưu giữ, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu hủy chất thải y tế
và kiểm tra, giám sát việc thực hiện”. Các chu trình này không đứng riêng lẻ
mà gắn kết với nhau. Để tiêu hủy triệt để chất thải y tế thì không thể bỏ sót bất
cứ khâu nào tử thu gom, vận chuyển, lưu giữ đến xử lý, tiêu hủy.
Thứ ba, các quy định về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong
hoạt động quản lý chất thải y tế
Trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân tham gia vào chu trình xử lý chất
thải y tế được quy định cụ thể như sau:
Một là, đối với chủ nguồn thải:
Chủ nguồn thải chất y tế là tổ chức, cá nhân có hành vi phát thải vào môi
trường. Chủ nguồn thải y tế là các cơ sở y tế có phát sinh chất thải y tế. Chủ
nguồn thải phải có trách nhiệm giảm thiểu và phân loại ngay từ nguồn. Việc
“giảm thiểu” là trách nhiệm đứng hàng cao nhất trong chu trình quản lý chất
thải y tế. Nó được xác định là giảm tới mức tối thiểu lượng chất thải y tế sinh
ra. Giảm thiểu chất thải cũng có nghĩa là phải sử dụng tất cả những nguồn tài
nguyên vốn có và tập trung vào ngăn ngừa chất thải. Ngoài ra việc phân loại
chất thải y tế với chất thải thông thường phát sinh trong các hoạt động y tế cũng
là một trách nhiệm mà chủ nguồn thải phải thực hiện nghiêm túc. Theo quy
định của Quy chế quản lý chất thải y tế, các chất thải y tế nguy hại không được
để lẫn trong chất thải thông thường. Nếu vô tình để lẫn chất thải y tế nguy hại
vào chất thải thông thường thì hỗn hợp chất thải đó phải được xử lý và tiêu hủy
như chất thải y tế nguy hại (khoản 3 Điều 14). Các chủ nguồn thải phải luôn
luôn có biện pháp đề phòng cảnh giác và cần thiết có phương án đối phó với

các sự cố xảy ra trong chu trình xử lý chất thải y tế.
Hai là, đối với chủ thu gom, vận chuyển, lưu giữ chất thải y tế:
Chủ thu gom, vận chuyển, lưu giữ chất thải y tế là tổ chức, cá nhân có
điều kiện thực hiện việc thu gom, vận chuyển, lưu giữ chất thải y tế và có đăng
4


ký thực hiện việc thu gom, vận chuyển, lưu giữ chất thải y tế (được phép thực
hiện việc thu gom, vận chuyển, lưu giữ). Việc thu gom, vận chuyển, lưu giữ
được quy định cụ thể tại chương 4 từ Điều 13 đến Điều 16 của Quy chế quản lý
chất thải y tế. Đặc biệt khâu vận chuyển được quy định thêm tại chương 5 của
Quy chế này, theo đó các cơ sở y tế ký hợp đồng với cơ sở có tư cách pháp
nhân trong việc vận chuyển và tiêu hủy chất thải. Trường hợp địa phương chưa
có cơ sở đủ tư cách pháp nhân vận chuyển và tiêu hủy chất thải y tế thì cơ sở y
tế phải báo cáo với chính quyền địa phương để giải quyết.
Ba là, đối với chủ xử lý, tiêu hủy chất thải y tế:
Chủ xử lý, tiêu hủy chất thải y tế là các tổ chức, cá nhân được phép thực
hiện việc xử lý, tiêu hủy chất thải y tế. Quy chế quản lý chất thải y tế đã quy
định cụ thể việc xử lý, tiêu hủy chất thải y tế đối với từng loại chất thải riêng
biệt như chất thải rắn, nước thải, khí thải.
Như vậy, có thể thấy, trách nhiệm xử lý chất thải y tế trước hết thuộc về
người phát thải, đây là chủ thể đứng đầu trong việc thực hiện các nghĩa vụ liên
quan đến trách nhiệm xử lý triệt để và toàn vẹn chất thải y tế. Các chủ thể còn
lại là những chủ thể tham gia trực tiếp vào quá trình xử lý chất thải y tế. Việc
thu gom, vận chuyển, lưu giữ, xử lý đều phải tiến hành theo quy định của pháp
luật và không được phép có bất cứ sự tùy tiện nào. Vì vậy, với tư cách của
mình, các đối tượng tham gia vào quá trình tiêu hủy chất thải y tế phải tuân thủ
nghiêm ngặt và triệt để.
2. Trách nhiệm của bệnh viện, cơ sở y tế trong vấn đề bảo vệ môi
trường đối với bệnh viện, cơ sở y tế

Khoản 2, 3 và 4 Điều 39 Luật BVMT quy định về trách nhiệm của bệnh
viện, cơ sở y tế trong vấn đề bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ sở y tế
như sau:
Một là, bệnh viện, cơ sở y tế khác điều trị các bệnh truyền nhiễm phải có
các biện pháp cách ly khu dân cư, các nguồn nước. Bệnh viện, cơ sở y tế khác
xây dựng mới điều trị các bệnh truyền nhiễm không được đặt trong khu dân cư.
Bệnh truyền nhiễm theo quy định của Luật phòng, chống bệnh truyền
nhiễm năm 2007 được định nghĩa là bệnh lây truyền trực tiếp hoặc gián tiếp từ
người hoặc từ động vật sang người do tác nhân gây bệnh truyền nhiễm (khoản
5


1 Điều 2). Khi điều trị những loại bệnh này, bệnh viện và các cơ sở y tế cần
phải có các biện pháp cách ly khu dân cư, nguồn nước theo quy định của pháp
luật hiện hành.
Hai là, các cơ sở chiếu xạ, dụng cụ thiết bị y tế có sử dụng chất phóng
xạ phải đáp ứng các yêu cầu về an toàn hạt nhân và an toàn bức xạ quy định tại
Điều 89 của Luật BVMT và pháp luật về an toàn hạt nhân và an toàn bức xạ.
Các tổ chức, cá nhân được quy định tại điều luật này phải tuân thủ các quy định
của pháp luật về an toàn hạt nhân, an toàn bức xạ điện từ. An toàn hạt nhân, an
toàn bức xạ phải nhằm các mục đích: Không gây ảnh hưởng xấu đến con
người, sinh vật; Không gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng xấu đến các thành
phần môi trường; Không gây sự cố, thảm họa môi trường (khoản 3 Điều 89
Luật BVMT).
Ba là, người lao động trong bệnh viện, cơ sở y tế khác có hoạt động liên
quan đến chất thải y tế phải được trang bị quần áo, thiết bị bảo đảm an toàn,
tránh lây nhiễm dịch bệnh từ chất thải y tế.
3. Trách nhiệm của cơ quan Nhà nước trong vấn đề bảo vệ môi
trường đối với bệnh viện, cơ sở y tế
Khoản 5 Điều 39 Luật BVMT đã quy định cụ thể về trách nhiệm của cơ

quan Nhà nước trong vấn đề bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ sở y tế.
Điều 32 Quy chế quản lý chất thải y tế cũng quy định: “Bộ Y tế xây dựng
chương trình, tài liệu đào tạo về quản lý chất thải y tế để áp dụng thống nhất
trong các cơ sở y tế; Đưa nội dung quản lý chất thải y tế vào chương trình đào
tạo trong các trường y, dược; Nghiên cứu ứng dụng các công nghệ tiên tiến và
phù hợp cho việc xử lý và tiêu hủy chất thải y tế.
Các cơ sở y tế tổ chức hướng dẫn thực hiện Quy chế quản lý chất thải y
tế cho tất cả cán bộ viên chức của đơn vị và các đối tượng có liên quan, hướng
dẫn người bệnh và gia đình người bệnh việc phân loại chất thải y tế theo quy
định”.
Ngoài việc quy định trách nhiệm của người đứng đầu các cơ sở y tế, Quy
chế quản lý chất thải y tế còn quy định trách nhiệm của các chủ thể khác như
Giám đốc Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thủ trưởng các
cơ sở y tế trực thuộc Bộ Y tế; Thủ trưởng y tế các ngành chịu trách nhiệm quản
6


lý và xây dựng kế hoạch xử lý chất thải y tế của cơ sở và các đơn vị trực thuộc
trình Bộ trưởng Bộ chủ quản, Các Vụ, Cục, Thanh tra Bộ Y tế với chức năng và
nhiệm vụ cụ thể.
4. Đánh giá thực trạng pháp luật về bảo vệ môi trường đối với bệnh
viện, cơ sở y tế
Trong thời gian qua, pháp luật về bảo vệ môi trường đối với bệnh viện,
cơ sở y tế đã được xây dựng, sửa đổi bổ sung thông qua các văn bản quy phạm
pháp luật có liên quan đến quản lý môi trường ngành y tế, cụ thể như ban hành
Quy chế quản lý chất thải y tế mới (Quy chế quản lý chất thải y tế được ban
hành kèm theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT ngày 30/11/2007 thay thế cho
Quy chế Quản lý chất thải y tế được ban hành kèm theo Quyết định số
2575/1999/QĐ-BYT ngày 27/8/1999 của Bộ trưởng Bộ Y tế); Hướng dẫn tổ
chức thực hiện công tác kiểm soát nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám chữa

bệnh; Xây dựng Quy chuẩn kỹ thuật các phương tiện thu gom, vận chuyển chất
thải y tế… Việc quy định khá chặt chẽ chức năng, nhiệm vụ của bộ máy quản
lý với những quyền hạn, nghĩa vụ cụ thể của các tổ chức, cá nhân có liên quan
đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc quản lý hiệu quả trong việc bảo vệ môi
trường đối với bệnh viên, cơ sở y tế
Về các quy định chế tài, hiện nay chúng ta có các văn bản quan trọng
như Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm
2008), Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009); Nghị định của Chính
phủ số117/2009/NĐ-CP quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường; Thông tư số 12/2011/TT-BTNMT quy định về quản lý chất thải
nguy hại và đặc biệt là Nghị định số 45/2005/NĐ-CP quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.
Tuy nhiên, pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đối với bệnh viện,
cơ sở y tế vẫn còn một số hạn chế, cụ thể như sau:
Thứ nhất, các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến quản lý chất
thải y tế còn chưa nhiều, còn quy định chung chung, rải rác ở nhiều văn bản
pháp luật khác nhau.
Thứ hai, về hình thức chế tài được quy định trong các văn bản pháp luật
liên quan đến bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ sở y tế:
7


Nghị định số 117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009 của Chính phủ về xử lý
vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đã quy định khá chi tiết về
các hành vi vi phạm cũng như biện pháp xử lý với mức phạt tăng lên rất nhiều
lần so với quy định trước đây, tuy nhiên vẫn tồn tại một số hình thức chế tài quá
nhẹ. Thực tiễn áp dụng một số quy định về trách nhiệm dân sự và trách nhiệm
hình sự đối với vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường còn nhiều khó khăn,
vướng mắc. Các quy định về trách nhiệm xác định, giám định, đền bù định, đền
bù thiệt hại còn chưa rõ ràng và không khả thi. Vì vậy, trên thực tế có nhiều

doanh nghiệp thay bằng việc đầu tư trang thiết bị xử lý chất thải bằng việc chấp
nhận các hình thức xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật.
II. Thực tiễn áp dụng các quy định về bảo vệ môi trường đối với bệnh
viện, cơ sở y tế
1. Những thành tựu đạt được
Công tác xử lý chất thải y tế trong những năm qua đã thực sự đạt được
những bước tiến bộ đáng kể. Thời gian qua, Bộ Y tế đã có nhiều cố gắng trong
việc thực hiện công tác bảo vệ môi trường y tế nhằm đảm bảo sức khỏe cho
nhân viên y tế và cộng đồng, hạn chế gây ô nhiễm môi trường. Các bệnh viện,
cơ sở y tế luôn chú trọng cũng như đầu tư cho công tác quản lý chất thải rắn
nguy hại. Hiện có tới 95,6 bệnh viện, cơ sở y tế tuyến tỉnh đã thực hiện phân
loại, thu gom, xử lý chủ yếu gồm công nghệ đốt và công nghệ không đốt. Theo
thống kê, có gần 80% bệnh viện tuyến tỉnh trong cả nước đang vận hành công
nghệ đốt trong xử lý chất thải rắn y tế nguy hại. Nhiều bệnh viện tuyến tỉnh đã
và đang xử lý hiệu quả chất thải rắn y tế nguy hại, không gây ô nhiễm môi
trường. Lượng thải rắn được xử lý, thu gom nhiều đã góp phần tạo nên môi
trường bệnh viện trong lành, nâng cao chất lượng điều trị, chăm sóc bệnh nhân.
Thành quả này chính là nhờ sự quan tâm đầu tư thường xuyên của Bộ Y tế,
UBND tỉnh, Sở Y tế và các ban ngành chức năng trong tỉnh với hoạt động xử lý
rác thải của ngành y tế.
2. Những hạn chế còn tồn tại
Bên cạnh đó, tình hình vi phạm các quy định về quản lý, xử lý rác thải y
tế tại hầu hết các bệnh viện, cơ sở y tế trong cả nước cũng xảy ra tương đối phổ
biến. Hiện nay chỉ có khoảng trên 20% bệnh viện, cơ sở y tế có hệ thống xử lý
8


chất thải đạt tiêu chuẩn, hầu hết rác thải chưa được quản lý và xử lý theo quy
chế xử lý chất thải y tế. Nhiều loại rác thải y tế nguy hại như bệnh phẩm, vỏ
chai, dây truyền dịch, bom kim tiêm đã qua sử dụng để lẫn lộn với rác thải

thông thường. Thậm chí, ở một số bệnh viện còn cho phép thu gom để bán cho
cơ sở tái chế để tận thu. Một mặt vì các cơ quan chức năng chưa thực hiện hết
trách nhiệm của mình, mặt khác hiện nay điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết
bị máy móc của các cơ sở thực hiện chức năng xử lý rác thải y tế chưa đáp ứng
được yêu cầu của hoạt động này, việc đầu tư kinh phí, trang thiết bị, giải pháp
về công nghệ cho các hoạt động bảo vệ môi trường chưa đáp ứng được yêu cầu;
mạng lưới cán bộ làm công tác bảo vệ môi trường ngành y tế chưa được kiện
toàn, năng lực cán bộ (đặc biệt tại địa phương) chưa đáp ứng được với yêu cầu,
nhiệm vụ được giao; cơ chế chính sách về bảo vệ môi trường chưa hoàn chỉnh,
đặc biệt chưa có một kế hoạch tổng thể về triển khai công tác bảo vệ môi
trường trong ngành y tế.
Mặt khác, việc triển khai thực hiện các yêu cầu của Thủ tướng Chính
phủ nói chung và các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường nói riêng của
các bệnh viện chưa thực sự nghiêm túc tại một số bệnh viện. Nhận thức của
lãnh đạo các bệnh viện cũng như các cán bộ trực tiếp làm công tác thu gom, xử
lý chất thải bệnh viện còn hạn chế, vẫn còn diễn ra tình trạng các bệnh viện
chây ỳ, không tích cực xử lý ô nhiễm và có biểu hiện đối phó với cơ quan chức
năng, làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng quản lý và xử lý chất thải y tế.
Bên cạnh đó cũng khó quy trách nhiệm cụ thể cho người đứng đầu bệnh viện
khi chưa hoàn thành xử lý ô nhiễm. UBND các tỉnh lại thường không xử phạt
các bệnh viện khi các cơ sở này vi phạm các quy định pháp luật về bảo vệ môi
trường, do kinh phí để nộp phạt lại được lấy từ nguồn ngân sách nhà nước.
Một số cơ sở y tế tiến hành việc thu gom chất thải y tế bừa bãi, không
phân loại rõ ràng các loại chất thải y tế để có cách thức xử lý phù hợp. Theo
tính toán, con số 350 tấn chất thải rắn và 150 mét khối chất thải lỏng phát sinh
từ các cơ sở y tế hiện nay sẽ tăng lên 600 tấn và 300 mét khối mỗi ngày vào
năm 2015. Chất thải y tế gia tăng nếu không được xử lý tốt sẽ trở thành gánh
nặng đối với sức khỏe con người và môi trường.

9



III. Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ sở
y tế
Trước hết, cần ban hành các tiêu chuẩn môi trường về xử lý chất thải y
tế
Một trong những biện pháp hữu hiệu trong xử lý, tiêu hủy chất thải rắn
nguy hại nói chung, chất thải y tế nguy hại nói riêng là phương pháp đốt vì
nhiệt độ cao sẽ tiêu hủy triệt để các chất thải nguy hại. Lò đốt chất thải y tế cần
phải thiết kế, chế tạo, nhập khẩu đạt tiêu chuẩn kỹ thuật theo khuyến nghị của
WHO. Các lò đốt này cần đạt chỉ tiêu môi trường trong quá trình hoạt động, chỉ
tiêu về kinh tế phù hợp với điều kiện tài chính trong hoàn cảnh của Việt Nam.
Song song với giải pháp xử lý chất thải rắn y tế bằng phương pháp đốt, cần xây
dựng và ban hành các tiêu chuẩn cho các thiết bị xử lý chất thải y tế khác bằng
phương pháp chiếu xạ dùng vi sóng… Để nâng cao năng lực và kỹ năng của
người vận hành lò đốt chất thải rắn y tế cần xây dựng và ban hành tiêu chuẩn
kỹ thuật vận hành lò đốt chất thải y tế.
Ngoài ra, cần có thêm một số tiêu chuẩn áp dụng cho việc quản lý chất
thải y tế từ khi nó được tạo ra cho đến địa điểm thải bỏ cuối cùng. Các tiêu
chuẩn này sẽ xác định các vấn đề có tính pháp lý một cách toàn diện trong chu
trình xử lý chất thải y tế như kỹ thuật vận hành, sản phẩm, làm sạch, phương
tiện chất chứa, đổ bỏ chất thải.
Thứ hai, cần đưa ra các giải pháp về kinh tế tài chính
Để tạo ra những bước ngoặt mới trong công tác quản lý chất thải y tế,
cần tận dụng tối đa các nguồn lực khác nhau. Trong lĩnh vực quản lý chất thải y
tế, cần tuân theo nguyên tắc: phải đảm bảo có đủ chi phí để vận hành bộ máy
thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải y tế tiến tới tạo một nguồn quỹ ổn định để
có thể đáp ứng những công việc bức thiết nhất liên quan đến lĩnh vực này.
Muốn làm được điều đó cần sử dụng các công cụ linh hoạt như thuế, phí, lệ
phí… Một số hình thức của công cụ khuyến khích kinh tế chủ yếu là:

- Thu tiền phạt với các hoạt động gây ô nhiễm. Các phí này trực tiếp
đánh vào chủ thể có chất thải y tế tại điểm sinh ra hoặc tại nơi tiêu hủy.
- Có thể tiến hành thu thuế nguyên liệu đã qua sơ chế, đánh thuế trực tiếp
vào các sản phẩm có khả năng gây nguy hại đối với môi trường, đánh thuế vào
10


những mặt hàng xuất nhập khẩu có khả năng gây ô nhiễm môi trường chứa
nhiều chất thải y tế độc hại ví dụ như các loại thuốc gây độc tế bào…
Ngoài những công cụ kinh tế nêu trên, có thể tận dụng nguồn vốn thông
qua chính sách ưu tiên và sự phân bố hợp lý ngân sách, vốn nước ngoài, vốn
vay với lãi suất ưu đãi để đầu tư trang thiết bị và xây dựng các khu xử lý chất
thải y tế. Hoạt động này sẽ thúc đẩy các hoạt động đầu tư vào những dự án xử
lý chất thải y tế thông quan sự hỗ trợ của các nguồn vốn vay.
Thứ ba, đưa ra các giải pháp khoa học công nghệ
- Tăng khả năng thu gom chất thải bằng cách tăng cường và đổi mới
trang thiết bị để theo kịp lượng chất thải y tế gia tăng, đồng thời cải thiện mức
độ phục vụ và mở rộng phạm vi thu gom như trang bị các xe tải nhỏ để phục vụ
các đường phố hẹp. Cần khuyến khích các nhà đầu tư sử dụng công nghệ sạch.
- Cần chú trọng các giải pháp sử dụng tối đa nguyên liệu, thay đổi công
thức sản phẩm, giảm các vật liệu bao bì và đóng gói sản phẩm, thay đổi thói
quen trong tiêu dùng để giảm thiểu chất thải rắn y tế ngay từ nguồn. Mặt khác
cần quan tâm đến việc tái sử dụng và tái chế các chất thải rắn y tế. Khuyến
khích các cơ sở tái chế tái chế chất thải y tế bằng cách thu hồi sản phẩm đã qua
sử dụng, xử lý hoặc chế biến lại để đưa vào sản xuất dưới dạng nguyên liệu ban
đầu hoặc sản phẩm mới.
KẾT THÚC VẤN ĐÊ
Có thể nói việc bảo vệ môi trường đối với bệnh viện, cơ sở y tế là một
vấn đề cấp bách, đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ hơn nữa của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Bên cạnh đó, điều chỉnh việc quản lý chất thải y tế

một cách hiệu quả cũng là một đòi hỏi thiết yếu nhằm hạn chế một cách tối đa
những tác hại của nó tới môi trường và đời sống người dân.

11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật môi trường,
Nxb.CAND – HN 2011
2. Giáo trình luật môi trường, Nxb.CAND – HN 2007
3. Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007
4. Khóa luận tốt nghiệp: Một số vấn đề pháp lý về quản lý chất thải
y tế tại Hà Nội – Phạm Kim Thoa 2004.
5. Khóa luận tốt nghiêp Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại tại
Việt Nam – Lê Thị Thúy Hắng, 2011.
6. Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT ngày 30/11/2007 của Bộ Y tế về
quy chế quản lý chất thải y tế.
7. Một số website:
• />• />• />
12



×