Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Bài tập nhóm tháng số 2 luật hôn nhân và gia đình chứng minh việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân là phù hợp với điều kiện ki

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.89 KB, 12 trang )

MỞ ĐẦU

MỞ ĐẦU..............................................................................................................2
NỘI DUNG...........................................................................................................2
I. Các khái niệm cơ bản..................................................................................2
1. Thời kì hôn nhân......................................................................................2
2. Tài sản chung của vợ chồng.....................................................................3
3. Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân........3
II. Những quy định của pháp luật hiện hành về chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kì hôn nhân............................................................................3
III. Chứng minh việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân là phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện nay.....................................3
1. Sự phù hợp về mặt lý luận ( Tương thích với chính sách và pháp luật
hiện hành).....................................................................................................3
2. Sự phù hợp về thực tiễn xã hội hiện nay..................................................3
KẾT LUẬN...........................................................................................................3

1


MỞ ĐẦU
Trong thời kì hôn nhân, hai người phải ràng buộc với nhau bởi rất nhiều
bổn phận,nghĩa vụvà quyền lợi. Lợi ích của họ vì thế đã hòa làm một để trở
thành một thứ có tên là lợi ích gia đình. Thời trước, khi xác lập, thay đổi, chấm
dứt một giao dịch,họ chỉ nhân danh lợi ích gia đình. Tài sản chung là thứ cần
có để tạo điều kiện cho việc nhân danh lợi ích gia đình khi tham gia các giao
dịch. Suy cho cùng, tài sản chung hay là tài sản riêng của vợ, chồng cũng phải
được khai thác để nhằm bảo đảm cho sự tồn tại, duy trì và phát triển của gia
đình. Ngày nay,trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, diện
mạo của gia đình đã thay đổi đáng kể, chức năng kinh tế của gia đình đã
chuyển từ sản xuất sang tiêu dùng. Quy định về chia tài sản chung của vợ


chồng trong thời kì hôn nhân là một giải pháp cho vấn đề đó trong bối cảnh
chế độ tài sản của vợ chồng trong Luật Hôn nhân và Gia đình hiện nay là chế
độ cộng đồng tạo sản. Để có một cái nhìn sâu sắc hơn về vấn đề này nhóm
chúng em xin chọn đề tài: “Chứng minh việc chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kì hôn nhân là phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện nay”.
NỘI DUNG
I.
Các khái niệm cơ bản
1.
Thời kì hôn nhân
Thời kì hôn nhân được hiểu là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ
chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân ( Điều 8 giải
thích luật ngữ).
Trong đó Khoản 6 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy
định: “ Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn”.
Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết
định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoặc của cả hai vợ chồng.
2.

Tài sản chung của vợ chồng
2


Có một số cách hiểu cho rằng tài sản chung của vợ chồng là tài sản
được hình thành trong thời kỳ hôm nhân. Cụ thể thì chưa có một khái niệm
nào lý giải rõ ràng khái niệm trên. Căn cứ vào Điều 27 Luật hôn nhân và gia
đình thì tài sản chung của vợ chồng được hiểu rằng: “Tài sản chung của vợ
chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhận; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tăng cho

chung và những tài sản khác mà vơ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa
kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng thỏa thuận. Tái sản chung của vợ
chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất”.
Theo quy định này, thì cơ sở pháp lý quan trọng nhất khi xác định tài
sản chung của vợ chồng là để trong thực tế áp dụng khi Toà án giải quyết các
tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng với nhau và với người khác là theo
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Bên cạnh đó, cơ sở pháp lý thức hai là
các quy định trong Luật dân sự liên quan đến vấn đề sở hữu. Và trong phạm
vi điều chỉnh của mình thì quy định trong Luật hiến pháp cũng là một cơ sở
không thể thiếu.
Tài sản chung của vợ chồng được dùng vào việc phục vụ nhu cầu sinh
hoạt, tiêu dùng hoặc sản xuất kinh doanh của cá nhân gia đình. Vợ chồng đều
có quyền ngang nhau đối với khối tài sản chung. Vợ chồng cùng bàn bạc,
thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
chung. Pháp luật quy định như vậy nhằm bảo đảm cho vợ chồng được bình
đẳng trong quan hệ gia đình, xóa bỏ chế độ gia trưởng trong gia đình.
3. Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân.
Bên cạnh chế định tài sản chung của vợ chồng, pháp luật hôn nhân và
gia đình việt nam còn đề cập đến vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân. Mặc dù pháp luật đã đề cập tới chế định chia tài sản của vợ
3


chồng trong thời kỳ hôn nhân, thế nhưng cho tới nay vẫn chưa có một quy định
nào của pháp luật đưa ra quy định cụ thể về khái niệm chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Có thể tạm định nghĩa việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
như là việc chuyển một hoặc nhiều tài sản vốn thuộc khối tài sản chung vào
khối tài sản riêng của vợ hoặc của chồng. Đây không phải là phân chia hiểu

theo nghĩa thông thường, tức là việc chấm dứt tình trạng sở hữu chung theo
phần bằng cách phân hẳn cho người này hay người nọ một hoặc nhiều tài sản
vốn thuộc sở hữu chung, như thế nào để tổng giá trị các tài sản chia cho một
người ngang với giá trị phần quyền của người đó trong khối tài sản chung
được đem chia. Khi tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, vợ và
chồng có thể thoả thuận rằng người này hoặc người kia nhận nhiều tài sản, dù
trên thực tế, công sức đóng góp của người nhận nhiều tài sản vào việc tạo lập,
phát triển khối tài sản chung không tương xứng với giá trị của số tài sản nhận
được.
Dựa trên bản chất của vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân được quy định trong luật hôn nhân gia đình và Nghị định số
70/2001 NĐ-CP ngày 03/10/2001 tác giả xin đưa ra khái niệm khái quát về
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân như sau: “Chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là việc vợ chồng cùng nhau thỏa
thuận hoặc thông qua cơ chế Tòa án để chia một phần hoặc toàn bộ tài sản
chung của mình trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện
nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác. Việc chia tài sản chung
của vợ chồng được thực hiện trong thời kỳ hôn nhân và hậu quả của việc này
không làm chấm dứt quan hệ nhân thân, không dẫn tới việc vợ chồng ly hôn”.
II.

Những quy định của pháp luật hiện hành về chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân

4


Theo quy định tại Điều 219 Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 27 Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000 thì tài sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc
sở hữu chung hợp nhất. Bình thường chúng ta không xác định được phần tài

sản nào là của vợ, phần tài sản nào là của chồng trong khối tài sản chung hợp
nhất mà chỉ khi nào có sự phân chia tài sản chung của vợ chồng thì mới xác
định được phần tài sản của từng người trong đó. Xuất phát từ tình hình thực tế
các quan hệ hôn nhân và gia đình, đồng thời nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng
của vợ chồng về vấn đề tài sản, luật hôn nhân và gia đình quy định về các
trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân. So với các
luật hôn nhân và gia đình trước đây, chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn
nhân còn tồn tại là quy định mới của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Sở
dĩ pháp luật quy định như vậy là do, trong thực tế có nhiều trường hợp vợ
chồng không muốn li hôn mà chỉ yêu cầu chia tài sản chung vì một lí do nào
đó như: để ở riêng, kinh doanh …Việc hcia tài sản chung giữa của vợ chồng
được quy định tại Điều 29 Luật hôn nhân gia đình năm 2000.
Tại khoản 1 Điều 29 quy định: “Khi hôn nhân tồn tại, trong trường
hợp vợ, chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc
có lí do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung;
việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thỏa thuận được thì
có quyền yêu cầu tòa án giải quyết”.
Theo quy định này thì tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại
được tiến hành trong các trường hợp thực sự cần thiết vì lợi ích của gia đình
hoặc của người thứ ba. Đó là các trường hợp:
- Trường hợp vợ, chồng đầu tư kinh doanh riêng: nếu có một trong hai
vợ, chồng muốn đầu tư kinh doanh riêng thì có thể chia tài sản chung làm vốn
đầu tư kinh doanh. Quy định này xuất phát từ việc tôn trọng quyền tự do kinh
doanh của cá nhân, đồng thời còn nhằm bảo vệ lợi ích của gia đình, bảo đảm

5


cuộc sống ổn định của các thành viên trong gia đình tránh khỏi những rủi ro từ
hoạt động kinh doanh.

- Trường hợp vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng: nếu vợ
hoặc chồng phải thực hiện các nghĩa vụ riêng mà họ không có tài sản riêng
hoặc không đủ để thực hiện nghĩa vụ thì vợ chồng có thể chia tài sản chung để
giúp người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của mình.
- Trường hợp có lí do chính đáng khác: việc xác định có lí do chính đáng
để chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại xuất phát từ lợi ích của
gia đình, lợi ích vợ chồng hoặc của người thứ ba. Vì vậy, lí do chính đáng khác
để chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại tùy từng trường hợp
có khác nhau.
Về phương thức chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân còn tồn
tại, Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định giống như chia tài sản chung
khi vợ chồng li hôn. Khác với Luật hôn nhân và gia đình hôn nhân và gia đình
năm 1986, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 không quy định cụ thể phương
thức chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân mà chỉ quy định
“vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung”, nếu thảo thuận được thì việc
chia tài sản chung so tự thảo thuận phải được lập thành văn bản. Trong trường
hợp “không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu tòa án giải quyết”.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân là trường hợp
chia tài sản đặc biệt. Do vậy, vợ, chồng có thể thỏa thuận hoặc yêu cầu tòa án
chia toàn bộ hoặc một phần tài sản chung. Nếu chia toàn bộ tài sản chung thì
phần của mỗi người sau khi chia và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được
chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người. Nếu chia một phần tài sản trong khối
tài sản chung thì chỉ có một phần tài sản được chia đó và hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ phần tài sản được chia mới là tài sản riêng của mỗi người. Sau khi chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân thì những thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất kihn doanh của mỗi bên là tài sản riêng của mình.
6


Bên cạnh việc tôn trọng quyền định đoạt tài sản chung của vợ, chồng

khi hôn nhân còn tồn tại, tại khoản 2 Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình năm
2000 quy định: “Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực
hiện nghĩa vụ về tài sản không được pháp luật công nhận” để tránh trường hợp
vợ, chồng lạm dụng quyền chia tài ản của mình để gây ra hậu quả xấu, xâm
phạm đến các lợi ích hợp pháp khác được pháp luật bảo vệ. Như vậy, nếu vợ
chồng đã thỏa thuận hoặc yêu cầu tòa án chia tài sản chung nhưng sau đó có
chứng cứ cho rằng việc chia tài sản đó là nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ
về tài sản thì việc chia tài sản đó không được pháp luật công nhận.
III. Chứng minh việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân là phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện nay
1. Sự phù hợp về mặt lý luận ( Tương thích với chính sách và pháp luật hiện
hành)
Trước đây trong hệ thống pháp luật Hôn nhân và Luật đình của nhà
nước ta, trường hợp chia tài sản chung của vợ và chồng trong thời kì hôn nhân
được quy định lần đầu tiên tại điều 18 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986.
Kế thừa và phát triển quy định này của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986,
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 tiếp tục quy định trường hợp chia tài sản
chung của vợ, chồng trong thời kì hôn nhân tại điều 29, điều 30 và Nghị định
số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật
Hôn nhân và Gia đình. Việc quy định như vậy là rất phù hợp với chính sách và
pháp luật ở nước ta hiện nay:
Trong thời đại nền kinh tế hàng hóa, thị trường phát triển như hiện nay.
Nhà Nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm tạo điều kiện để thúc
đẩy nền kinh tế nước nhà phát triển, nội dung này được thể hiện rõ trong các
nghị quyết đại hội của Đảng, các chính sách của Chính phủ. Để nền kinh tế
quốc gia phát triển, nhà nước khuyến khích và kêu gọi các cá nhân, hộ gia
đình, các doanh nghiệp tham gia vào việc mở rộng đầu tư, kinh doanh. Thế
7



nhưng, việc thực hiện được chủ trương này của Đảng đối với các cá nhân trong
một hộ gia đình là điều rất khó khăn. Bởi lẽ, trong gia đình tài sản của vợ và
chồng vốn là tài sản chung, vì vậy khi sử dụng số tài sản này vào việc đầu tư
kinh doanh sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chung của các thành viên trong
gia đình, nếu như việc đầu tư, kinh doanh đó gặp rủi ro. Để bảo vệ quyền và
lợi ích chung của các thành viên trong gia đình cũng như để tạo điều kiện cho
việc thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế mà Nhà nước đã đề
ra, thì việc quy định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân
được quy định trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 là điều cần thiết.
Luật Hiến pháp năm 1992 của nước ta quy định: Tất cả công dân Việt
Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa (điều
6); Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện (điều 9); Quyền tư
hữu tài sản của công dân Việt Nam được đảm bảo (điều 12). Như vậy ngay từ
đạo luật gốc của nước ta cũng đã khẳng định sự bình đẳng giữa các công dân
với nhau trong phương diện kinh tế và khẳng định quyền tự do tư hữu của
công dân là bất khả xâm phạm. Để các quy định trên của Hiến pháp được thực
hiện trong đời sống, Pháp luật Hôn nhân và Gia đình đã cụ thể hóa vấn đề này
tại Luật Hôn nhân và Gia đình Bình và các văn bản pháp luật thuộc lĩnh vực
hôn nhân và gia đình, cụ thể là tại Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày
03/10/2001 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình .
Các văn bản pháp luật này đều nêu rõ sự bình đẳng về phương diện kinh tế
trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, thể hiện ở chỗ vợ hoặc chồng tạo điều
kiện cho nhau tham gia vào các lĩnh vực của kinh tế. Như vậy, việc pháp luật
quy định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân là phù hợp
với Hiến pháp - đạo luật tối cao hiện hành.
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 cũng như Luật Hôn nhân và Gia
đình trong các thời kì trước đây ra đời, đều nhằm mục đích là để xây dựng một
gia đình ấm êm, hạnh phúc và nhằm góp phần ổn định các quan hệ xã hội. Thế
nhưng cuộc sống của vợ, chồng khó tránh được mâu thuẫn xung đột, nhiều
8



trường hợp chỉ muốn chia tài sản chung của vợ chồng nhưng lại không muốn li
hôn mà chỉ muốn sử dụng tài sản đó vào mục đích khác. Nếu pháp luật không
quy định việc chia tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp này, thì sẽ rất
khó để có thể tạo được sự hài hòa trong mối quan hệ gia đình, tạo được sự
hạnh phúc cho gia đình. Như vậy, việc quy định chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kì hôn nhân là điều cần thiết để thực hiện được mục đích cao
đẹp của Luật Hôn nhân và Gia đình.
Theo Điều 50 BLDS 2005 có quy định " cá nhân có quyền lựa chọn
hình thức, lĩnh vực, nghành nghề kinh doanh, tự do giao kết hợp đồng và các
quyền khác phù hợp với quy định của pháp luật" . Cá nhân ở đây tức không
phân biệt là nam hay nữ, già hay trẻ, vợ hay chồng...họ đều có quyền tham gia
vào các lĩnh vực kinh tế. Và nếu vợ, chồng muốn đầu tư kinh doanh riêng mà
cần tới tài sản để đầu tư mà không ảnh hưởng tới lợi ích của những thành viên
khác trong gia đình thì vợ, chồng có thể chia tài sản chung của vợ chồng.
Ngoài ra tại điều 280 của BLDS 2005 với mục đích để bảo vệ quyền lợi
cho bên thứ ba thì vợ chồng ở đây cũng được hiểu là cá nhân có thể phải thực
hiện nghĩa vụ dân sự riêng (những món nợ mà vợ, chồng mắc từ trước khi kết
hôn hoặc trong thời kì hôn nhân mà sử dụng vào mục đích riêng). Trong
trường hợp nếu vợ, chồng không có hoặc có nhưng không đủ để trả nợ riêng
cho bên kia thì vợ, chồng có quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời kì
hôn nhân để vợ, chồng lấy phần tài sản của mình trong khối tài sản chung của
vợ chồng nhằm thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng. Như vậy, việc thực hiện
nghĩa vụ dân sự riêng và các giao dịch dân sự là một lý do cho ta thấy việc quy
định chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân là hoàn toàn tương thích với
pháp luật. Như đã nêu ở trên, vợ, chồng bình đẳng với nhau khi tham gia vào
các giao dịch dân sự, và khi tham gia vào giao dịch dân sự sẽ làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ dân sự cho vợ hoặc chồng.


9


Mặt khác nguyên tắc chủ đạo hình thành lên BLDS chính là nguyên tắc
chịu trách nhiệm dân sự, cụ thể " Các bên phải nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa
vụ dân và và phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ". Các bên ở đây chính là những chủ thể tham gia vào
giao dịch dân sự, hay chính là vợ hoặc chồng nếu họ tham gia riêng vào giao
dịch dân sự. Và để đảm bảo việc "nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ dân sự" thì
Luật hôn nhân và gia đình phải quy định chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kì hôn nhằm giúp cho vợ, chồng thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng mà
không ảnh hưởng tới lợi ích của những người trong gia đình.
Từ những căn cứ nêu trên ta thấy, quy định chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân hoàn toàn tương thích với chính sách và pháp
luật hiện hành của Việt Nam ta hiện nay.
2. Sự phù hợp về thực tiễn xã hội hiện nay
Sự phù hợp về mặt thực tiễn Quy định về chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kì hôn nhân là điều cần thiết, phù hợp với thực tiễn đời sống
xã hội hiện nay, đáp ứng được ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Khẳng định
này xuất phát từ những lý do sau:
1. Việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân có ý nghĩa như một
cách thức bảo đảm quyền lợi cho vợ hoặc chồng khi người kia được xác định
là mất tích, bị tịch thu tài sản do phạm tội hoặc có hành vi tẩu tán tài sản
chung, tiêu xài hoang phí,…
2. Trong cuộc sống gia đình nhiều khi không thể tránh khỏi những căng
thẳng, bất hòa giữa vợ chồng, dẫn đến tình trạng không muốn chung sống cùng
nhau. Nhưng vì nhiều lý do, trong đó chủ yếu vì con cái nên họ không muốn ly
hôn. Quy định chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân là một giải pháp hợp
lý nhằm tối thiểu hóa những xung đột, mâu thuẫn của vợ chồng trước hết trong
quan hệ tài sản, sau đó là những quan hệ nhân thân khác; đồng thời giữ được


10


hòa khí cũng như tạo ra sự ổn định nhất định giữa các thành viên khác trong
gia đình.
2. Quy định này nhằm đảm bảo quyền tự chủ của vợ chồng khi tham gia
vào các quan hệ kinh tế xã hội nhất định. Trong nhiều trường hợp, vợ hoặc
chồng có nhu cầu đầu tư, kinh doanh hay thực hiện các giao dịch dân sự với tư
cách cá nhân. Để tạo điều kiện thuận lợi cho vợ , chồng được tự do thực hiện
các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình, cũng như tránh những hậu quả
không tốt có thể xảy ra, ảnh hưởng đến kinh tế chung của gia đình thì pháp luật
quy định vợ, chồng có quyền yêu cầu Tòa án chia tài sản chung ngay trong
thời kì hôn nhân.
3. Quy định này còn có ý nghĩa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
những người có liên quan. Thực tế, vợ hoặc chồng có thể có những nghĩa vụ
dân sự riêng, với tư cách cá nhân như nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ
cấp dưỡng, …Việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân tạo điều kiện cho
vợ hoặc chồng đủ khả năng tài chính thực hiện nghĩa vụ của mình, nhờ đó mà
quyền và lợi ích của những người liên quan được đảm bảo.
KẾT LUẬN
Gia đình là tế bào của xã hội, sự ổn định và phát triển lành mạnh của gia
đình sẽ góp phần vào sự phát triển chung của toàn bộ xã hội. Xuất phát từ bản
chất không thể tách rời, sự ràng buộc giữa vợ và chồng nên việc chia tài sản
chung của vợ và chồng là một vấn đề đang được xem xét và quan tâm đúng
mức. Kể từ khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực, các quy định
về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đã từng bước đi vào
cuộc sống, phát huy được hiệu quả điều chỉnh, góp phần xây dựng củng cố chế
độ hôn nhân và gia đình Việt Nam trong nền kinh tế thị trường hiện nay.


11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2007
3. Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ hướng
dẫn thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình

12



×