Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

BTHK thương mại 2 bình luận quy định của pháp luật việt nam hiện hành về thỏa thuận trọng tài thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.37 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong điều kiện kinh tế - xã hội phát triển như hiện nay, các tranh chấp kinh
tế ngày càng phát sinh đa dạng và phức tạp. Khi đó, doanh nghiệp cần tìm đến tổ
chức nào để giải quyết một cách có hiệu quả, nhanh gọn và tránh những tổn thất
quá lớn cho doanh nghiệp? Trọng tài thương mại đang là một phương thức giải
quyết tranh chấp thương mại được các thương nhân sử dụng một cách phổ biến
nhất. Đây là một tổ chức phi chính phủ, chỉ nhận giải quyết tranh chấp khi các bên
có thỏa thuận về việc chọn trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh
chấp. Thỏa thuận trọng tài là yếu tố cơ bản cần thiết, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn
bộ hoạt động trọng tài kể từ lúc khởi đầu trọng tài cho đến khi công nhận và thi
hành phán quyết trọng tài. Hiệu quả của hoạt động tố tụng trọng tài phụ thuộc một
phần không nhỏ vào thỏa thuận trọng tài. Sự cần thiết hoàn thiện các chế định pháp
lý về thỏa thuận trọng tài do đó cũng là một yêu cầu tất yếu và là hạt nhân quan
trọng về việc hoàn thiện hành lang pháp lý về trọng tài thương mại. Thực tiễn pháp
luật và áp dụng pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam cho thấy, nhiều
doanh nghiệp còn chưa đánh giá đúng vai trò của thỏa thuận trọng tài nên trong
quá trình soạn thảo, ký kết thỏa thuận trọng tài còn nhiều thiếu sót dẫn đến những
tranh chấp không đáng có về thỏa thuận trọng tài. Bên cạnh đó, pháp luật hiện hành
về thỏa thuận trọng tài còn có nhiều hạn chế, bất cập nên đã gây nhiều cản trở cho
hoạt động đưa tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài thương mại và là giảm tính hấp
dẫn của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại. Chính vì
vậy, bài viết này sẽ nghiên cứu và “bình luận quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành về thỏa thuận trọng tài thương mại”.

NỘI DUNG
Khái quát chung về trọng tài thương mại
1. Khái niệm trọng tài thương mại
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong
hoạt động thương mại tiến hành theo trình tự, thủ tục do các bên thỏa thuận hoặc
theo quy định của pháp luật. Việc giải quyết tranh chấp được tiến hành bởi Hội
đồng trọng tài thuộc một trung tâm trọng tài nhất định hoặc bởi Hội đồng trọng tài


do các bên thành lập, tùy thuộc vào quyền lựa chọn của các bên. Các bên có thể
tìm hiểu trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp thông qua quy tắc tố tụng trọng tài
của các trung tâm trọng tài thương mại hoặc các văn bản pháp luật của nhà nước về
trọng tài thương mại.
Có hai loại trọng tài là trọng tài vụ việc (ad – hoc) và trọng tài thường
trực. Điểm khác biệt cơ bản giữa hai mô hình này là ở chỗ, trọng tài vụ việc chỉ
I.

1


được thành lập khi phát sinh tranh chấp và sẽ tự giải thể khi tranh chấp được giải
quyết xong. Trong khi đó, trọng tài thường trực – như chính tên gọi của nó – tồn tại
có tính chất ổn định, có trọng tài viên riêng, có điều lệ và quy tắc tố tụng riêng.
Trọng tài thường trực là một thực thể pháp lý độc lập với đầy đủ các dấu hiệu của
một pháp nhân, trong đó dấu hiệu quan trọng nhất là có tài sản riêng và tự chịu
trách nhiệm bằng tài sản của mình. Việc lựa chọn hình thức trọng tài nào để giải
quyết tranh chấp hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các bên. Tuy nhiên, dù là trọng
tài thường trực hay trọng tài vụ việc thì đều không phải là cơ quan thuộc bộ máy
nhà nước, do vậy trong hoạt động xét xử, trọng tài không được sử dụng quyền lực
công như tòa án. Chính vì hoạt động xét xử của trọng tài không gắn với quyền lực
công nên trọng tài được coi là cơ quan tài phán tư.
Xét về bản chất, trọng tài là một tổ chức kinh tế được lập ra để kinh doanh
dịch vụ xét xử. Với quan điểm này thì rõ ràng trọng tài hoạt động vì mục đích lợi
nhuận, tức là đổi lại việc thu phí từ khách hàng – là các bên tranh chấp, trọng tài
cung cấp dịch vụ xét xử và bảo đảm cho chất lượng của dịch vụ ấy tốt nhất thông
qua việc bảo đảm tính khách quan, công bằng, vô tư với chi phí thấp, thủ tục đơn
giản và độ bảo mật cao khi tiến hành xét xử. Vì vậy, có thể coi tổ chức trọng tài
chính là một chủ thể kinh doanh tồn tại dưới dạng doanh nghiệp cung ứng dịch vụ
xét xử. Nhận diện đúng yếu tố này sẽ giúp cho việc quản lý nhà nước đối với trọng

tài trở nên phù hợp và hiệu quả hơn. Hơn nữa, trọng tài là một phương thức giải
quyết tranh chấp lựa chọn dựa trên sự thống nhất thỏa thuận của các bên nên cơ
chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thực hiện theo nguyên tắc bình đẳng, thỏa
thuận giữa các bên tranh chấp. Nguyên tắc này làm phát sinh hai yêu cầu: Thứ
nhất, ở chừng mực mà các thỏa thuận không trái pháp luật và đạo đức xã hội thì
Nhà nước phải thừa nhận những thỏa thuận đó. Thứ hai, pháp luật phải bảo đảm
đến mức tối đa cơ hội cho các bên thỏa thuận về phương thức giải quyết tranh
chấp. Bảo đảm hai yêu cầu này chính là sử dụng phương pháp điều chỉnh bình
đẳng, thỏa thuận của ngành luật dân sự và luật kinh tế – một tiêu chí đã và đang
được sử dụng để xác định ngành luật theo lý thuyết về phân định ngành luật ở Việt
Nam hiện nay.
Những ưu điểm và hạn chế của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại
2.1.
Ưu điểm
Thứ nhất, tính chung thẩm và hiệu lực của quyết định trọng tài đối với việc
giải quyết tranh chấp. Việc giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài thương
mại có ưu điểm nổi bật so với Tòa án ở chỗ nhanh gọn, kín đáo và phán quyết của
2.

2


trọng tài là có giá trị chung thẩm, tức có hiệu lực cuối cùng. Trong khi Tòa án xử
thì phải 2-3 lần, từ sơ thẩm đến phúc thẩm, rồi còn thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm, rồi còn khiếu nại, khiếu kiện và còn có sự tham gia của nhiều cơ quan khác
(như Viện kiểm sát…). Còn cách thức giải quyết bằng trọng tài lại hết sức đơn giản
và linh động. Tính chung thẩm của quyết định trọng tài không chỉ có giá trị bắt
buộc đối với các bên đương sự mà nó còn khiến các bên không thể chống án hay
kháng cáo. Xét xử tại trọng tài chỉ có một cấp xét xử. Khi tuyên phán quyết xong,

Uỷ ban Trọng tài (Hội đồng trọng tài) hoàn thành nhiệm vụ và chấm dứt sự tồn tại
của mình. Những ưu điểm này đặc biệt quan trọng đối với hoạt động đầu tư thương
mại. Chính những ưu điểm đó bảo đảm rằng nếu các bên ưu tiên giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài thì các nhà đầu tư sẽ giảm rủi ro cho bên nước ngoài khi quyết
định tham gia đầu tư thương mại tại Việt Nam; tạo thuận lợi cho các bên nước
ngoài và cả bên Việt Nam thông qua việc giải quyết tranh chấp tại Việt Nam.
Thứ hai, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp bí mật. Trọng tài là một
tiến trình giải quyết tranh chấp có tính riêng biệt. Hầu hết pháp luật về trọng tài của
các nước đều thừa nhận nguyên tắc trọng tài xử kín (in camera) nếu các bên không
quy định khác. Tính bí mật thể hiện rõ ở nội dung tranh chấp và danh tính của các
bên được giữ kín, đáp ứng nhu cầu tin cậy trong quan hệ thương mại. Điều đó có ý
nghĩa lớn trong điều kiện cạnh tranh. Đây là ưu điểm đối với những doanh nghiệp
không muốn các chi tiết trong vụ tranh chấp của mình bị đem ra công khai, tiết lộ
trước Tòa án (hoặc công chúng) – điều mà các doanh nghiệp luôn coi là tối kỵ
trong hoạt động kinh doanh của mình.
Thứ ba, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp mềm dẻo, nhanh chóng,
linh hoạt cho các bên. Tòa án, khi xét xử các bên hoàn toàn phụ thuộc vào sự chỉ
đạo của Toà án về thủ tục, thời gian, địa điểm, cách thức xét xử… được quy định
trước đó. Trong khi đó, với trọng tài, các bên thông thường được tự do lựa chọn
thủ tục, thời gian, địa điểm phương thức giải quyết tranh chấp theo phương thức
tiện lợi, nhanh chóng, hiệu quả nhất cho các bên trong khuôn khổ pháp luật cho
phép. Điều này có thể làm giảm chi phí, thời gian và tăng hiệu quả cho quá trình
giải quyết tranh chấp.
Thứ tư, tiết kiệm thời gian. Tính liên tục, đặc biệt trong hoạt động kinh doanh
quốc tế đòi hỏi các bên không thể lãng phí thời gian, điều mà các Tòa án sẽ rất khó
đáp ứng được do luôn phải giải quyết nhiều tranh chấp cùng một lúc, gây ra khả
năng ách tắc hồ sơ. Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án cho phép các bên được
quyền kháng án cũng làm cho tiến độ bị kéo dài. Trong thực tế, giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài, ví dụ như giải quyết tranh chấp bằng VIAC thường kéo dài tối
đa là 6 tháng, còn tại Tòa án có thể kéo dài hàng năm trời.

3


Thứ năm, duy trì được quan hệ đối tác. Việc thắng, thua trong tố tụng tại trọng
tài kinh tế vẫn giữ được mối hoà khí lâu dài giữa các bên tranh chấp. Đây là điều
kiện không làm mất đi quan hệ hợp tác kinh doanh giữa các đối tác. Bởi lẽ tố tụng
tại trọng tài là tự nguyện. Xét xử bằng trọng tài sẽ làm giảm mức độ xung đột căng
thẳng của những bất đồng trên cơ sở những câu hỏi gợi mở, trong một không gian
kín đáo, nhẹ nhàng… Đó là những yếu tố tạo điều kiện để các bên duy trì được
quan hệ đối tác, quan hệ thiện chí đối với nhau và đặc biệt, sự tự nguyện thi hành
quyết định trọng tài của một bên sẽ làm cho bên kia có sự tin tưởng tốt hơn trong
quan hệ làm ăn trong tương lai.
Thứ sáu, trọng tài cho phép các bên sử dụng được kinh nghiệm của các
chuyên gia. Ưu điểm này thể hiện ở quyền được chọn trọng tài viên của các bên
đương sự, điều mà không tồn tại ở Tòa án. Các bên có thể chọn một Hội đồng
trọng tài dựa trên năng lực, sự hiểu biết vững vàng của họ về pháp luật thương mại
quốc tế, về các lĩnh vực chuyên ngành có tính chuyên sâu như chứng khoán,
licensing, leasing, xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, sở hữu trí tuệ…
Thứ bảy, tuy là giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài – một tổ chức
phi chính phủ, nhưng được hỗ trợ, bảo đảm về pháp lý của Toà án trên các mặt sau:
xác định giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tài; giải quyết khiếu nại về thẩm
quyền của Hội đồng trọng tài; ra lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; xét
đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài; công nhận và thi hành quyết định trọng tài.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu quyền và lợi ích của một bên bị xâm hại
hoặc có nguy cơ xâm hại thì có quyền làm đơn yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời, nhằm: bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng cứ bị tiêu huỷ
hoặc có nguy cơ bị tiêu huỷ; kê biên tài sản tranh chấp để ngăn ngừa việc tẩu tán
tài sản; cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp; cấm thay đổi hiện trạng của tài sản
tranh chấp; kê biên và niêm phong tài sản ở nơi gửi giữ; phong toả tài khoản tại
ngân hàng.

Hạn chế
Thứ nhất, phán quyết của trọng tài mang tính chung thẩm là một ưu thế lớn
nhưng mặt nào đó cũng chính là nhược điểm của phương thức này vì việc không
cho các bên kháng cáo, kháng nghị có thể dẫn tới khó khăn trong việc phát hiện và
sửa chữa sai phạm trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, chi phí cho việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài thường được ấn
định trước và thường cao hơn rất nhiều so với các phương thức giải quyết tranh
chấp khác. Đây là một trở ngại không nhỏ cho các bên tranh chấp muốn tìm đến
các trung tâm trọng tài.
2.2.

4


Thứ ba, phạm vi các tranh chấp có thể giải quyết bằng trọng tài còn hạn chế,
chỉ giới hạn trong các tranh chấp thương mại.
Ngoài ra còn có một số nhược điểm khác có thể đề cập đến như: thẩm quyền
hạn chế của Hội đồng trọng tài trong việc sử dụng các biện pháp cưỡng chế, sự
cứng nhắc của việc giải quyết khiếu kiện trong mối quan hệ với các khiếu kiện
khác hoặc với bên thứ ba…
Khái quát chung về thỏa thuận thương mại
1. Khái niệm thỏa thuận thương mại
Thỏa thuận trọng tài thương mại là một thỏa thuận bằng văn bản mà theo đó
các bên kí kết nhất trí đưa ra tất cả hoặc một số tranh chấp đã hoặc sẽ có thể phát
sinh từ giao dịch thương mại có khả năng được áp dụng trọng tài ra giải quyết bằng
con đường trọng tài. Bản chất của trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp
dựa trên sự thỏa thuận của các bên trnah chấp. Điều này khác với việc các bên
tranh chấp yêu cầu giải quyết tranh chấp tại tòa án, cơ quan đương nhiên có thẩm
quyền xét xử bất kỳ tranh chấp trong nước nào (chỉ trừ khi các bên có thỏa thuận
khác). Trọng tài chỉ có thẩm quyền xét xử khi các bên tranh chấp có thỏa thuận

chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp, điều này đồng nghĩa với việc thỏa thuận
trọng tài là điều kiện tiên quyết để tiến hành tố tụng trọng tài.
II.

Ý nghĩa của thỏa thuận trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại
Với những đặc điểm đã trình bày ở trên, có thể khẳng định thỏa thuận trọng
tài là yếu tố không thể thiếu trong tố tụng trọng tài thương mại, vai trò quan trọng
này của thỏa thuận trọng tài được thể hiện ở các phương diện sau:
Thứ nhất, thỏa thuận trọng tài có tác dụng ràng buộc các bên, bởi nó được
xác lập trên cơ sở ý chí tự nguyện và bình đẳng của chính các bên. Một khi đã xác
lập thỏa thuận trọng tài thì không bên nào được thoái thác việc giải quyết tranh
chấp tại trọng tài. Qua đó, cũng giúp các bên nâng cao ý thức trong việc thực hiện
những nghĩa vụ đã cam kết, là một biện pháp tích cực để phòng ngừa các tranh
chấp.
Thứ hai, thỏa thuận trọng tài loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với
tranh chấp. Tuy nhiên điều này không loại trừ sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt
động giải quyết tranh chấp của trọng tài khi: có khiếu kiện nại liên quan đến thỏa
thuận trọng tài vô hiệu, yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, chỉ định
trọng tài viên (trong trường hợp trọng tài vụ việc) và khi có căn cứ pháp luật để đề
nghị Tòa án hủy quyết định trọng tài.
Thứ ba, thỏa thuận trọng tài là yếu tố quan trọng nhất, luôn được đặt lên
hàng đầu từ khi đưa tranh chấp thương mại ra trọng tài cho tới khi phán quyết cuối
2.

5


cùng được đưa ra. Việc xác định thẩm quyền, phạm vi thẩm quyền của Hội đồng
trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp phụ thuộc vào các giới hạn đặt ra trong
thỏa thuận trọng tài trọng tài. Đặc biệt với những tranh chấp có yếu tố nước ngoài

thỏa thuận trọng tài còn cho phép lựa chọn nơi tiến hành tố tụng trọng tài, luật áp
dụng và ngôn ngữ trọng tài trong điều kiện phù hợp nhất. Thỏa thuận trọng tài với
nội dung chính là quyền lựa chọn của các bên về các yếu tố của luật tố tụng trọng
tài sao cho phù hợp nhất với mình nên sẽ giúp hình thành những điều kiện tốt nhất
để tiến hành trọng tài và thi hành quyết định trọng tài.
Từ phân tích trên đây, có thể khẳng định rằng, thỏa thuận trọng tài được xem
là vấn đề then chốt và có vai trò quyết định đối với việc áp dụng Trọng tài như một
phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh. Có thể nói, không có thỏa
thuận trọng tài thì không có việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài. Nhưng trên
thực tế hiện nay thỏa thuận trọng tài vẫn chưa phát huy được hết vai trò to lớn của
mình, vẫn còn nhiều những vướng mắc liên quan tới thỏa thuận trọng tài làm cản
trở quá trình tố tụng trọng tài.
Các quy định pháp luật về thỏa thuận trọng tài – những vấn đề cần bàn
luận
Các quy định về Thỏa thuận trọng tài được quy định cụ thể tại Chương I và
Chương II của Luật trọng tài thương mại 2010. Văn bản pháp luật này đã làm rõ
được khái niệm hình thức và giá trị của Thỏa thuận trọng tài cũng như tính độc lập
của điều khoản trọng tài so với hợp đồng. Về cơ bản, những quy định này tương
thích với các quy định của Luật Mẫu về Trọng tài Thương mại quốc tế của
UNCITRAL (Luật Mẫu) và pháp luật trọng tài của nhiều nước trên thế giới. Tuy
nhiên, pháp lệnh chưa bao quát được một cách đầy đủ về tính đồng bộ và hệ thống
các quy định về Thỏa thuận trọng tài. Cụ thể:
III.

1.

Quy định về khái niệm thỏa thuận trọng tài - vấn đề tranh chấp phát sinh
từ quan hệ ngoài hợp đồng

Trong phần định nghĩa về Thỏa thuận trọng tài (Khoản 2 Điều 3), Luật chưa

làm rõ được vấn đề tranh chấp phát sinh từ quan hệ ngoài hợp đồng có được giải
quyết bằng Trọng tài hay không. Vấn đề này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác
định thẩm quyền của Trọng tài cũng như việc công nhận và cho thi hành phán
quyết trọng tài. Theo Khoản 2 Điều 3 Luật trọng tài thương mại 2010 thì: Thoả
thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh
chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh. Như chúng ta đều biết, quan hệ thương
mại rất đa dạng và phong phú. Nhiều quan hệ có thể xác định bằng hợp đồng cụ
6


thể được ký kết giữa các bên. Tuy nhiên, cũng có nhiều tranh chấp không phát sinh
từ quan hệ hợp đồng, ví dụ tranh chấp phát sinh do việc đòi bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng như tàu đâm va cầu cảng, tàu đâm va nhau…
Theo định nghĩa trên thì mặc định hiểu là các tranh chấp không có quan hệ
hợp đồng cũng có thể được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thỏa thuận
đưa tranh chấp ra giải quyết tại Trọng tài. Do đó, để hạn chế tối đa những rủi ro
trong việc áp dụng luật, Pháp lệnh cần cụ thể hóa việc xác định thẩm quyền của
Trọng tài tương thích với Luật Mẫu. “Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận mà các
bên đưa ra Trọng tài mọi tranh chấp nhất định phát sinh hoặc có thể phát sinh
giữa các bên về quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không phải
là quan hệ hợp đồng …” (Điều 7 Khoản 1). Công ước New York 1958 về công
nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài cũng quy định rất rõ về vấn
đề này “Mỗi quốc gia thành viên sẽ công nhận một thỏa thuận bằng văn bản, theo
đó các bên cam kết đưa ra trọng tài xét xử mọi tranh chấp đã hoặc có thể phát
sinh giữa các bên từ một quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay
không, liên quan đến một đối tượng có khả năng giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài” (Điều II). Luật Trọng tài của hầu hết các nước trên thế giới như Luật Trọng tài
Anh, Luật Trọng tài Đức, Luật Trọng tài Hàn Quốc, Luật Trọng tài Nga, Luật
Trọng tài Nhật Bản v.v… đều quy định các tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp
đồng hoặc ngoài hợp đồng đều được giải quyết bằng Trọng tài.

2.

Quy định về hình thức thỏa thuận trọng tài

Hình thức của thỏa thuận trọng tài là sự thể hiện ra bên ngoài sự thống nhất ý
chí của các bên tham gia quan hệ thương mại. Pháp luật Việt Nam cũng giống như
pháp luật của hầu hết các quốc gia khác đều quy định thỏa thuận trọng tài phải
được thể hiện dưới dạng văn bản quy định tại Khoản 2 Điều 16 Luật trọng tài
thương mại 2010. So với qui định của Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 thì nội
hàm khái niệm “văn bản” cũng được Luật trọng tài thương mại mở rộng hơn nhiều
gồm các dạng như: Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng
telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật;
Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên;
Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại
bằng văn bản theo yêu cầu của các bên; Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến
một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công
ty và những tài liệu tương tự khác; Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà
trong đó thể hiện sự tồn tại của thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ
7


nhận. Quy định trên đã trở thành một tập quán quốc tế chung bởi chỉ có thể xác lập
bằng văn bản mới tạo sự tin tưởng cho các bên, đồng thời là cơ sở ràng buộc trách
nhiệm của các bên khi phát sinh tranh chấp. Có hai hình thức tồn tại của thỏa thuận
trọng tài được ghi nhận tại Khoản 1, Điều 16 LTTTM 2010 như sau:
Một là, các bên dự đoán trước và thỏa thuận ngay từ khi bắt đầu quan hệ
thương mại việc sẽ đưa ra trọng tài giải quyết các tranh chấp phát sinh trong tương
lai. Sự thỏa thuận này thường được thể hiện thành một điều khoản trọng tài trong
hợp đồng xác lập quan hệ thương mại giữa hai bên. Điều khoản này thường nằm
cuối hợp đồng sau khi các bên đã thỏa thuận xong các điều khoản chính. Điều

khoản trọng tài chỉ mang tính dự liệu, chưa chắc chắn hoặc không bao giờ xảy ra
nên thường ngắn gọn.
Hai là, sau khi tranh chấp phát sinh, các bên mới thỏa thuận đưa tranh chấp
ra giải quyết bằng trọng tài. Thỏa thuận này thường dưới hình thức một văn bản
thỏa thuận riêng và được coi như gắn liền với hợp đồng chính hay còn gọi là thỏa
thuận đưa các tranh chấp hiện thời ra giải quyết theo phương thức trọng tài.
3. Quy định về thỏa thuận trọng tài vô hiệu

Vấn đề thỏa thuận trọng tài đóng một vai trò quan trọng mang tính quyết
định đối với sự tồn tại của phương thức trọng tài. Các mâu thuẫn phát sinh trong
hoạt động thương mại không thể được giải quyết bằng trọng tài nếu như thỏa thuận
trọng tài vô hiệu. Dấu hiệu và cách thức giải quyết thỏa thuận trọng tài vô hiệu
được quy định trong pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới, ở Việt Nam,
tại Điều 18 LTTTM 2010 có quy định cụ thể các trường hợp vô hiệu của thỏa thuận
trọng tài như sau:
Tranh chấp phát sinh không thuộc thẩm quyền của Trọng tài
Pháp luật luôn tôn trọng sự tự do thỏa hiệp giữa các bên về việc đưa tranh chấp
trong quan hệ thương mại ra giải quyết bằng trọng tài. Tuy nhiên, dù giữa các bên
có tồn tại thỏa thuận trọng tài xuất phát từ sự tự do thỏa thuận nhưng tranh chấp
giữa họ không thuộc phạm vi thẩm quyền của Trọng tài thì thỏa thuận trọng tài
cũng vô hiệu và dẫn đến hậu quả là trọng tài không có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp. Vấn đề thỏa thuận trọng tài vô hiệu do “tranh chấp phát sinh không thuộc
thẩm quyền của Trọng tài” được quy định tại Khoản 1, Điều 18 LTTTM 2010. Để
có cách hiểu thống nhất về tranh chấp thuộc thẩm quyền của trọng tài, Tại Điều 2
PLTTTM 2003 đã quy định cụ thể Trọng tài có thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp sau: “Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; Tranh
chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại;
-

8



Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng
tài”. Luật đã khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm
2003, khắc phục việc phân định không rõ ràng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài
đối với các tranh chấp thương mại, trên cơ sở đó bảo đảm sự tương thích giữa các
văn bản pháp luật hiện hành như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật
thương mại, Luật Đầu tư và các luật chuyên ngành. Như vậy, ngoài việc có thẩm
quyền đối với các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại, Luật còn để mở
khả năng trọng tài có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp không phát sinh từ hoạt
động thương mại nhưng được pháp luật có liên quan quy định sẽ được giải quyết
bằng trọng tài.
Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật
Theo Khoản 2, Điều 18 LTTTM 2010 thì người không có thẩm quyền ký kết
thỏa thuận trọng tài được hiểu là người không có quyền theo luật định để ký kết
thỏa thuận trọng tài, ví dụ như người không được ủy quyền hợp pháp, người được
ủy quyền vượt quá phạm vi ủy quyền...
Tuy nhiên, không phải trường hợp nào thỏa thuận trọng tài cũng vô hiệu do
được ký kết bởi người không có thẩm quyền. Hiện nay, những văn bản PL qui định
về vấn đề này vẫn chưa có hiệu lực hoặc đã hết hiệu lực. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu
qua 2 dạng văn bản này. Với qui định cụ thể Theo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm
phán TANDTC số 05/2003/NQ-HĐTP ngày 31/7/2003 hướng dẫn thi hành một số
quy định của PLTTTM 2003 quy định: Đối với trường hợp quy định tại Khoản 2,
Điều 10 PLTTTM 2003 về nguyên tắc chung nếu người ký thỏa thuận trọng tài
không có thẩm quyền ký kết theo quy định của pháp luật thì thỏa thuận trọng tài đó
vô hiệu. Tuy nhiên, khi phát sinh tranh chấp mà một bên có yêu cầu tòa án giải
quyết thì tòa án yêu cầu người có thẩm quyền ký kết thoả thuận trọng tài cho biết ý
kiến bằng văn bản có chấp nhận thỏa thuận trọng tài do người không có thẩm
quyền ký kết trước đó hay không. Nếu họ chấp nhận thì trong trường hợp này thỏa

thuận trọng tài không vô hiệu và vụ tranh chấp thuộc thẩm quyền của Hội đồng
trọng tài theo thủ tục chung. Cùng quan điểm này, mới đây nhất là Dự thảo Nghị
quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của
LTTTM 2010 ngày 22-4-2013 có qui định: Trường hợp quy định tại khoản 2 Điều
18 Luật TTTM, về nguyên tắc chung nếu người ký thoả thuận trọng tài không có
thẩm quyền ký kết, hoặc tuy có quyền ký kết nhưng ký kết vượt quá thẩm quyền
theo quy định của pháp luật thì thoả thuận trọng tài đó vô hiệu. Tuy nhiên, trong
quá trình ký kết, thực hiện thỏa thuận trọng tài mà người có thẩm quyền ký kết đã
-

9


biết thỏa thuận trọng tài được ký kết mà không phản đối hoặc khi phát sinh tranh
chấp mà một bên có yêu cầu Toà án giải quyết, thì Toà án yêu cầu người có thẩm
quyền ký kết thoả thuận trọng tài cho biết ý kiến bằng văn bản có chấp nhận thoả
thuận trọng tài do người không có thẩm quyền ký kết trước đó hay không. Nếu họ
chấp nhận thì trong trường hợp này thoả thuận trọng tài không vô hiệu và vụ tranh
chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài theo thủ tục chung. Trường hợp,
người ký thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền ký kết nhưng sau đó người có
thẩm quyền ký kết biết mà không phản đối thì thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực
và tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài.
Những quy định này của pháp luật thể hiện sự linh hoạt mềm đối với hoạt
động tố tụng trọng tài. Việc chủ thể hợp pháp cho biết ý kiến bằng văn bản chấp
nhận thỏa thuận trọng tài như một sự ủy quyền hợp pháp cho chủ thể không có
thẩm quyền ký kết, qua đó đảm bảo ý muốn giải quyết tranh chấp của chủ thể hợp
pháp.
Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo
qui đinh của Bộ luật dân sự
Thỏa thuận trọng tài là sự tự do thỏa thuận của các bên về việc đưa tranh

chấp ra giải quyết bằng trọng tài, nó là sự thể hiện ý chí của các bên trên cơ sở tự
nguyện. Chính vì vậy, chỉ có những chủ thể có đủ năng lực năng lực hành vi dân sự
mới thể hiện ý chí của mình cụ thể và chính xác nhất. Năng lực hành vi dân sự là
một yếu tố đóng vai trò quan trọng trong việc xác định hiệu lực của thỏa thuận
trọng tài. Việc các chủ thể xác lập không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ sẽ dẫn
đến sự vô hiệu của thỏa thuận trọng tài theo quy định tại Khoản 3, Điều 18 LTTTM
2010.
Đối với chủ thể ký kết thỏa thuận trọng tài là các cá nhân, theo quy định của
Bộ luật Dân sự 2005 người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự. Do đó, để chứng minh người ký thỏa thuận trọng tài không có năng
lực hành vi dân sự đầy đủ thì phải có giấy tờ tài liệu chứng minh ngày tháng năm
sinh hoặc kết luận của cơ quan có thẩm quyền hoặc quyết định của Tòa án tuyên bố
người đó mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Đối với chủ thể ký kết thỏa thuận trọng tài là pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia
đình...do đặc trưng việc tham gia vào quan hệ pháp luật của các chủ thể này phải
thông qua người đại diện hợp pháp nên khi xem xét năng lực hành vi dân sự của
các chủ thể này phải căn cứ vào năng lực hành vi dân sự của người đại diện hợp
-

10


pháp. Nếu người đại diện không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì thỏa thuận
trọng tài sẽ bị vô hiệu.
Thỏa thuận trọng tài vi phạm các quy định về hình thức
Pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quy định thỏa thuận
trọng tài phải được thể hiện bằng văn bản. Nghĩa là thỏa thuận trọng tài có giá trị
chứng cứ xác định ý chí của các bên khi muốn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Các hình thức khác của thỏa thuận trọng tài như lời nói hay hành vi đều dẫn tới hậu

quả pháp lý là thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu
do vi phạm quy định về hình thức được thể hiện tại Khoản 4, Điều 18 LTTTM
2010.
-

-

Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa thuận
trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu
Thỏa thuận trọng tài là hòn đá tảng của tố tụng trọng tài. Thỏa thuận trọng
tài là kết quả của sự thống nhất ý chí giữa các bên dựa trên nguyên tắc tự do, bình
đẳng. Sự thống nhất ý chí ấy không thể bị ràng buộc, tác động hay áp đặt bởi pháp
luật hay bất kỳ cá nhân, tổ chức, cơ quan nào. Chính vì thế sự lừa dối, đe dọa hay
cưỡng ép giữa các bên tham gia ký kết thỏa thuận trọng tài là những hành động đi
ngược lại với nguyên tắc tự do thỏa thuận và hệ quả tất yếu sẽ dẫn tới thỏa thuận
trọng tài vô hiệu.
Một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả
thuận trọng tài là trường hợp bị lừa dối, đe dọa quy định tại khoản 5 Điều 18 Luật
TTTM, Điều 4 và Điều 132 của Bộ luật dân sự. Khi một trong các bên cho rằng
mình bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép và có đơn yêu cầu Tòa án, Trọng tài tuyên bố
thoả thuận trọng tài đó vô hiệu thì Tòa án thụ lý, xem xét thỏa thuận trọng tài đó.
Như vậy, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bên ký kết bị lừa gạt, đe
dọa hay cưỡng ép, pháp luật đã trao cho họ quyền yêu cầu tuyên bố thỏa thuận
trọng tài vô hiệu.
Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật
Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật là thỏa thuận vi phạm
quy định tại Điều 128 của Bộ luật dân sự. Cụ thể là Giao dịch dân sự có mục đích
và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu. Ðiều
cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực
hiện những hành vi nhất định.

-

11


Quy định về nguyên tắc “thẩm quyền của thẩm quyền”
Ý nghĩa của nguyên tắc này là Hội đồng Trọng tài có quyền xem xét, xác
định thẩm quyền của chính mình, về sự tồn tại hoặc hiệu lực của thỏa thuận trọng
tài. Tại LTTTM 2010 nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 19 và Điều 43 như
sau:
Tại Điều 19 quy định: “Thoả thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp
đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể
thực hiện được không làm mất hiệu lực của thoả thuận trọng tài”. Như vậy,
LTTTM 2010 đã đưa ra một nguyên tắc rất quan trọng, đảm bảo mọi tranh chấp
phát sinh đều được giải quyết kể cả khi hợp đồng vô hiệu. Khác với tòa án, cơ quan
có thẩm quyền đương nhiên để giải quyết tranh chấp nếu các bên tranh chấp không
có thỏa thuận khác, Trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp nếu được
các bên thỏa thuận. Tuy nhiên, với việc lựa chọn trọng tài, các bên đã loại trừ sự
can thiệp của tòa án. Do đó, việc xác định điều khoản trọng tài độc lập với hợp
đồng có ý nghĩa quan trọng, bởi vì đây là cơ sở duy nhất để Hội đồng Trọng tài
được thành lập xem xét và quyết định hợp đồng có hiệu lực hay không.
4.

Điều 43 quy định: “Trước khi xem xét nội dung vụ tranh chấp, Hội đồng
trọng tài phải xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài; thỏa thuận trọng tài có
thể thực hiện được hay không và xem xét thẩm quyền của mình. Trong trường hợp
vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì Hội đồng trọng tài tiến hành giải
quyết tranh chấp theo quy định của Luật này. Trường hợp không thuộc thẩm quyền
giải quyết của mình, thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc xác định rõ thỏa thuận
trọng tài không thể thực hiện được thì Hội đồng trọng tài quyết định đình chỉ việc

giải quyết và thông báo ngay cho các bên biết. Trong quá trình giải quyết tranh
chấp, nếu phát hiện Hội đồng trọng tài vượt quá thẩm quyền, các bên có thể khiếu
nại với Hội đồng trọng tài. Hội đồng trọng tài có trách nhiệm xem xét, quyết
định...”. Mục đích của nguyên tắc này chính là đảm bảo các tranh chấp đều được
xem xét và giải quyết. Nếu công nhận hợp đồng vô hiệu mặc nhiên kéo theo điều
khoản trọng tài vô hiệu và dẫn đến Hội đồng Trọng tài không thẩm quyền giải
quyết vụ tranh chấp thì vụ tranh chấp sẽ không được giải quyết.
Quy định này đã khắc phục được điểm hạn chế trong Pháp lệnh TTTM 2003
là vẫn chưa thể hiện được một cách tuyệt đối nguyên tắc “thẩm quyền của thẩm
quyền” vì chỉ mới dừng lại ở chỗ Hội đồng trọng tài chỉ có quyền xem xét, xác
định về thẩm quyền của chính mình, về sự tồn tại hoặc hiệu lực của thỏa thuận
trọng tài khi có đơn khiếu nại về chúng. Còn khi không có đơn khiếu nại thì Hội

12


đồng trọng tài có hay không quyền xem xét các vấn đề trên lại chưa được ghi nhận
cụ thể trong pháp luật trọng tài.
Qui định về quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của người
tiêu dùng
Lần đầu tiên Luật có quy định về tranh chấp liên quan đến một bên là người
tiêu dùng. Theo Luật Trọng tài thương mại (Điều 17), đối với các tranh chấp giữa
nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng, dù điều khoản trọng tài đã
được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do nhà
cung cấp soạn sẵn thỏa thuận trọng tài thì người tiêu dùng vẫn được quyền lựa
chọn Trọng tài hoặc Tòa án để giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch
vụ chỉ được quyền khởi kiện tại Trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận.
Quy định này dựa trên một thực tế là thông thường người tiêu dùng bị đặt ở một vị
thế có nhiều nguy cơ bị lạm dụng bởi các điều kiện và điều khoản trong hợp đồng
in sẵn của người bán hàng hoặc người cung cấp dịch vụ, do vậy cần có quy định

bảo vệ họ trong các tình huống cần thiết.
6. Quy định về thỏa thuận trọng tài không thực hiện được hoặc không thể
thực hiện được
PLTTTM 2003 đã bỏ sót một quy định rất cơ bản là vấn đề “thỏa thuận
trọng tài không thực hiện được hoặc không thể thực hiện được”. Trong thực tế, có
rất nhiều điều khoản trọng tài có hiệu lực theo quy định của pháp luật, đáp ứng các
điều kiện như: phạm vi tranh chấp thuộc thẩm quyền của Trọng tài; người ký Thỏa
thuận trọng tài có đủ thẩm quyền, đủ năng lực hành vi, quy định rõ đối tượng tranh
chấp và tổ chức trọng tài có thẩm quyền nhưng vẫn không thể giải quyết được bằng
Trọng tài. Ví dụ, có một số điều khoản trọng tài quy định như sau: “Mọi tranh
chấp phát sinh từ hợp đồng này sẽ được giải quyết trước tiên tại Trung tâm Trọng
tài Quốc tế Việt Nam sau đó sẽ được giải quyết chung thẩm tại Tòa án”; hoặc “Mọi
tranh chấp phát sinh từ hoặc có liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải quyết tại
Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án
kinh tế ”; hoặc “Tranh chấp nếu có sẽ được giải quyết tại Trung tâm Trọng tài
Quốc tế Việt Nam và Tòa án Trọng tài Quốc tế ICC” …
Theo quy định của PLTTTM 2003, các điều khoản trọng tài nêu trên không
thuộc trường hợp vô hiệu vì đã chỉ rõ tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ
tranh chấp. Tuy nhiên, những điều khoản trọng tài này không thể thực hiện được
trong thực tiễn bởi thỏa thuận có sự mâu thuẫn giữa tổ chức trọng tài và quy tắc tố
tụng được lựa chọn; các bên không thừa nhận tính chung thẩm của phán quyết
trọng tài...
5.

13


Bên cạnh đó, nguyên nhân dẫn tới điều khoản trọng tài không thực hiện
được hoặc không thể thực hiện được còn xuất phát từ một lý do khách quan là
trọng tài được lựa chọn lại từ chối thụ lý giải quyết tranh chấp. Đó là trường hợp

thỏa thuận trọng tài đáp ứng đầy đủ các điều kiện có hiệu lực, làm phát sinh thẩm
quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài, nhưng vì một lý do chủ quan nào đó
trọng tài đã từ chối thụ lý giải quyết tranh chấp. Ví dụ như: các bên thỏa thuận lựa
chọn hình thức giải quyết tranh chấp là trọng tài vụ việc, lựa chọn đích danh một
trọng tài viên duy nhất. Nhưng trọng tài viên đó lại từ chối giải quyết tranh chấp do
không có đủ kiến thức chuyên môn đối với loại tranh chấp này. Hiện nay, pháp luật
không cấm trọng tài được các bên lựa chọn từ chối thụ lý giải quyết tranh chấp.
Mặc dù trọng tài được xác định là không hoạt động vì mục đích lợi nhuận, nhưng
vẫn nằm ngoài hệ thống các cơ quan xét xử mang quyền lực Nhà nước, vì vậy
trọng tài có quyền từ chối thụ lý vụ án tranh chấp. Vậy nên, khi bị trọng tài từ chối
giải quyết tranh chấp thì thỏa thuận trọng tài cũng không thể thực hiện được.
Với qui định của LTTTM 2010 đã trả lời được cho câu hỏi: khi các Trung
tâm trọng tài từ chối thụ lý tranh chấp vì thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện
được thì cơ quan nào sẽ giải quyết? Trong những trường hợp này thì Tòa án sẽ
đứng ra giải quyết khi một trong hai bên có khởi kiện vì theo Điều 6 LTTTM 2010
có quy định “trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài, nếu
một bên khởi kiện ra Tòa án thì Tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa
thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được”.
7.

Về vấn đề thỏa thuận trọng tài quốc tế

Ở Việt Nam hiện nay, số vụ tranh chấp có liên quan tới thương mại quốc tế
được xét xử bằng trọng tài không nhiều và tập chung chủ yếu tại Trung tâm Trọng
tài quốc tế Việt Nam (VIAC) bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam. Thực tiễn xét xử trọng tài thương mại quốc tế tại Việt Nam cho thấy, đối với
các vấn đề về thoả thuận trọng tài, các trọng tài viên Việt Nam thường chỉ phải giải
quyết sự mập mờ, không rõ nghĩa trong thoả thuận chọn trọng tài giải quyết tranh
chấp, mà hiếm khi phải xác định luật áp dụng cho thoả thuận trọng tài vì vấn đề
hiệu lực của nó, đặc biệt là trường hợp các bên tranh chấp không thoả thuận về luật

áp dụng cho thoả thuận trọng tài. Hiện chưa có một phương pháp xác định luật áp
dụng cho thoả thuận trọng tài có tính thống nhất trong xét xử trọng tài thương mại
quốc tế ở Việt Nam. Có nghĩa là, với mỗi vụ việc, trọng tài sẽ có cách hành xử
khác nhau. Điều này dễ tạo cảm giác tuỳ tiện trong xét xử và bất lợi trong việc phát
triển thị trường trọng tài Việt Nam trong điều kiện thị trường này đang hết sức nhỏ
14


bé và chưa nhận được nhiều sự quan tâm của giới kinh doanh trong và ngoài nước.
Về lâu dài, khiếm khuyết này cần được khắc phục, góp phần phát triển một thị
trường trọng tài Việt Nam ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới.

KẾT LUẬN
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, đặc biệt trong bối cảnh
Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại quốc tế WTO,
đòi hỏi về sự hoàn thiện hành lang pháp lý về trọng tài nhằm đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp cho các nhà kinh doanh là vô cùng cấp thiết. Luật TTTM là luật được
qui định khá chi tiết, kế thừa nhiều nội dung của pháp luật quốc tế và pháp luật
hiện hành còn phù hợp. Để có hiệu lực thi hành Luật được áp dụng dễ dàng và
thuận lợi, một số văn bản qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành cần được xây
dựng và ban hành. Bên cạnh đó, cần tuyên truyền nâng cao ý thức, hiểu biết của
các doanh nghiệp về phương thức trọng tài cũng như năng cao năng lực, kiến thức,
đạo đức của các trọng tài viên. Có như vậy, trọng tài mới có thể làm mới mình,
hoàn thiện mình để sớm trở thành một phương thức giải quyết tranh chấp thương
mại phổ biến, được các nhà kinh doanh tin dùng ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
kinh tế hiện nay.

15



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại tập II, Nxb. Công

2.

an nhân dân, Hà Nội, 2011.
ThS Nguyễn Thị Dung (chủ biên), Hỏi-đáp Luật Thương mại (hay Luật kinh

3.

doanh, Luật kinh tế).
Phạm Thị Xuyến, Một số vấn đề pháp lý về thoả thuận trọng tài theo pháp

4.

lệnh trọng tài thương mại 2003, Khoá luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2008.
Hoàng Linh, Tìm hiểu một số vấn đề pháp lý về thoả thuận trọng tài, khoá

5.

luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2009.
Nguyễn Thị Thu Thảo, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn thoả thuận trọng
tài đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại tại Việt Nam,

6.

khoá luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2010.
Dương Thùy Dung, Pháp luật về thoả thuận trọng tài và thực tiễn áp dụng


7.

tại trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, khoá luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2009.
/>
8.
9.

trong-tai.
.
.

MỤC LỤC

16



×