Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Quy định về học nghề theo pháp luật lao động hiện hành. Thực trạng vấn đề học nghề ở Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.95 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
A. Lời nói đầu......................................................................................................1
B. Nội dung..........................................................................................................2
1. Khái quát chung về học nghề theo pháp luật Việt Nam hiện hành.........2
1.1. Khái niệm..............................................................................................2
1.2. Nội dung của hợp đồng học nghề.........................................................2
1.3. Giao kết hợp đồng học nghề.................................................................3
1.4. Thực hiện hợp đồng học nghề..............................................................4
1.5. Chấm dứt hợp đồng học nghề..............................................................4
2. Thực trạng học nghề của Việt Nam hiện nay............................................5
2.1. Những kết quả đạt được.......................................................................5
2.2. Những điểm hạn chế và nguyên nhân..................................................6
3. Sự cần thiết của việc gắn kết bền vững giữa các cơ sở dạy nghề và
Doanh nghiệp...................................................................................................9
3.1. Những lợi ích cơ bản.............................................................................9
3.2 Các hình thức liên kết............................................................................9
3.3. Giải pháp..............................................................................................10
C. Kết Luận.......................................................................................................12
Danh mục tài liệu tham khảo:.........................................................................13

A. Lời nói đầu


Hiện nay, hướng đi của đất nước ta chính là phát triển nền kinh tế tri thức
chính vì vậy nên bằng cấp cũng được coi như một sự đảm bảo về công ăn việc
làm sau này cho mỗi người. Tuy nhiên cũng chính từ việc xuất phát từ ý nghĩ
như vậy mà xảy ra tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” trong xã hội hiện nay.
Những người có trình độ chuyên môn thì không thiếu nhưng những số thợ trình
độ kỹ thuật cao thì lại đang không đủ để đáp ứng yêu cầu về nguồn lao động của
xã hội. Cánh cổng trường đại học đúng là một lựa chọn tuyệt vời để các bạn có
thể bước vào đời. Tuy nhiên nếu chẳng may cánh cổng ấy không dành cho bạn


thì bạn vẫn có những lựa chọn khác trong cuộc sống và học nghề là một trong
số đó. Lựa chọn con đường học vấn phù hợp với năng lực của bản thân, điều
kiện kinh tế của gia đình sẽ là bước đi đúng đắn cho bản thân mỗi người. Và
học nghề là cách tạo dựng những nền tảng nghề nghiệp một cách nhanh chóng
và chắc chắn nhất. Thông qua bài tiểu luận này ta sẽ khái quát về thực trạng vấn
đề học nghề ở Việt Nam hiện nay. Qua đó, giúp chúng ta có cái nhìn toàn cảnh
về việc học nghề cũng như có những định hướng cụ thể cho bản thân để phù
hợp với nhu cầu xã hội.
B. Nội dung
1. Khái quát chung về học nghề theo pháp luật Việt Nam hiện hành
1.1. Khái niệm
Hợp đồng học nghề lao động là sự thỏa thuận về quyền lợi và nghĩa vụ
giữa người đứng đầu cơ sở dạy nghề với người học nghề, hoặc giữa người sử
dụng lao động với người lao động trong trường hợp học nghề theo hình thức
kèm cặp tại doanh nghiệp.
Khoản 1 điều 62 Bộ luật lao động 2012 quy định : " Hai bên phải ký kết
hợp đồng đào tạo nghề trong trường hợp người lao động được đào tạo, nâng
cao trình độ, kỹ năng nghề, đào tạo lại ở trong nước hoặc nước ngoài từ kinh
phí của người sử dụng lao động, kể cả kinh phí do đối tác tài trợ cho người sử


dụng lao động. Hợp đồng đào tạo nghề phải làm thành 02 bản, mỗi bên giữ 01
bản. "
Như vậy, hợp đồng đào tạo nghề là bắt buộc trong trường hợp người lao
động học nghề từ kinh phí của người sử dụng lao động, kể cả là kinh phí do đối
tác tài trợ cho người sử dụng lao động.
1.2. Nội dung của hợp đồng học nghề
Khoản 2 Điều 62 Bộ luật lao động 2012 quy định:
" Hợp đồng đào tạo nghề phải có các nội dung chủ yếu sau đây:
a) Nghề đào tạo;

b) Địa điểm đào tạo, thời hạn đào tạo;
c) Chi phí đào tạo;
d) Thời hạn người lao động cam kết phải làm việc cho người sử dụng lao động
sau khi được đào tạo;
đ) Trách nhiệm hoàn trả chi phí đào tạo;
e) Trách nhiệm của người sử dụng lao động."
Bên cạnh đó, trong những trường hợp đặc biệt, nội dung chủ yếu của hợp
đồng học nghề có sự thay đổi cho phù hợp với điều kiện thực tế. Trường hợp
học nghề theo hình thức kèm cặp tại doanh nghiệp, ngoài những nội dung chủ
yếu nêu trên, trong hợp đồng học nghề phải thỏa thuận thêm nội dung về tiền
lương của người học, như: mức lương trả cho người học và thời điểm bắt đầu
trả lương. Khoản 2 Điều 61 Bộ luật lao động 2012: " Trong thời gian học nghề,
tập nghề, nếu người học nghề, tập nghề trực tiếp hoặc tham gia lao động làm ra
sản phẩm hợp quy cách, thì được người sử dụng lao động trả lương theo mức do
hai bên thoả thuận." Như vậy mức lương trả cho người học nghề do hai bên thỏa
thuận tùy thuộc vào mức độ làm lợi của người lao học cho doanh nghiệp, nhưng
không được thấp hơn 70% mức lương cấp bậc của công việc đó.
1.3. Giao kết hợp đồng học nghề
Điều kiện chủ thể giao kết hợp đồng học nghề:
+ Đối với người học nghề:


Thông thường người học nghề phải từ 14 tuổi trở lên, có đủ sức khỏe đáp
ứng yêu cầu của nghề theo học. Trong trường hợp người sử dụng lao động tuyển
người vào học nghề, tập nghề để làm việc cho mình, thì người học nghề, tập
nghề phải đủ 14 tuổi và phải có đủ sức khoẻ phù hợp với yêu cầu của nghề. Tuy
nhiên, ở một số ngành nghề nhất định, theo danh mục do nhà nước quy định,
tuổi học nghề có thể dưới 14.
Bên cạnh điều kiện trên, trong một số trường hợp cụ thể có phạm vi cấm
được đặt ra cho người học nghề. Ví dụ: người bị nhiễm HIV/AIDS không được

tham gia học nghề có khả năng lây nhiễm cho người khác nhắm bảo về sức
khỏe người học nghề, người dạy nghề và lợi ích chung của xã hội.
+ Đối với cơ sở dạy nghề:
Các cơ sở dạy nghề được phép thành lập khi đáp ứng các điều kiện nhất
định, bao gồm: điều kiện nội dung và điều kiện thủ tục. Điều kiện nội dung bao
gồm: có trường sở, khả năng tài chính, thiết bị dạy lí thuyết, thực hành phù hợp
với nghề, trình độ và quy mô đào tạo; có đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý đủ số
lượng,...Điều kiện về thủ tục được thể hiện ở việc thành lập, đăng ký hoạt động
của cơ sở... theo quy định của pháp luật.
Riêng đối với các doanh nghiệp, hợp tác xã, các cơ sở sản xuất, kinh
doanh dịch vụ khác ( không thành lập trung tâm dạy nghề ) khi tiến hành các
hoạt động dạy nghề sẽ dễ dàng được chấp nhận với những điều kiện linh hoạt.
Nguyên tắc giao kết hợp đồng:
Giống như các hợp đồng khác, việc giao kết hợp đồng học nghề phải tuân
thủ theo đúng nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và không trái pháp luật.
Trình tự giao kết hợp đồng:
Quá trình giao kết hợp đồng học nghề thường diễn ra theo 3 bước: Đề
nghị giao kết hợp đồng, thỏa thuận các nội dụng liên quan đến hợp đồng, giao
kết hợp đồng.
1.4. Thực hiện hợp đồng học nghề
Các bên thực hiện hợp đồng học nghề theo đúng quyền lời và nghĩa vụ đã
giao kết. Không được vi phạm hay làm trái, hợp đồng học nghề này chịu sự ràn


buộc của các quy phạm pháp luật, đảm bảo hợp đồng được thực hiện đúng như
các bên đã giao kết.
1.5. Chấm dứt hợp đồng học nghề
Hợp đồng học nghề có thể chấm dứt trong các trường hợp: hết hạn hợp
đồng, khóa học kết thúc, người học nghề đi thực hiện nghĩa vụ quân sự, hai bên
cùng thảo thuận chấm dứt hợp đồng hoặc một trong hai bên đơn phương chấm

dứt hợp đồng. Khi hợp đồng học nghề chấm dứt, cần xác định quyền lợi và
trách nhiệm các bên (phụ thuộc chủ yếu vào việc chấm dứt hợp đồng là hợp
pháp hay trái pháp luật).
2. Thực trạng học nghề của Việt Nam hiện nay
2.1. Những kết quả đạt được
Thứ nhất, về mạng lưới cơ sở dạy nghề: Nhìn chung, hệ thống cơ sở dạy
nghề công lập từng bước được nâng cấp và tăng dần về quy mô và chất lượng
đào tạo, đáp ứng nhu cầu học nghề của người lao động theo các cấp trình độ đào
tạo. Tính đến hết năm 2015 cả nước có 1.467 cơ sở dạy nghề, gồm 190 trường
Cao đẳng nghề, 280 trường Trung cấp nghề, 997 Trung tâm dạy nghề và hơn
1000 cơ sở khác có tham gia dạy nghề, tăng 3,5% so với năm 2010. Đã có 45
trường công lập được lựa chọn để ưu tiên, tập trung đầu tư thành trường chất
lượng cao vào năm 2020, đồng thời Bộ đã phê duyệt quy hoạch 26 nghề cấp độ
quốc tế, 34 nghề cấp độ ASEAN và hơn 130 nghề cấp độ quốc gia.
Thứ hai, Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên dạy nghề: Nhìn chung, các
giáo viên và người tham gia dạy nghề cơ bản đảm bảo về chuyên môn và nghiệp
vụ sư phạm dạy nghề.
Thứ ba, Số lượng học viên không ngừng tăng lên: Cùng với sự phát triển
các cơ sở dạy nghề, số lượng học viên học nghề cũng không ngừng tăng lên.
Kết quả tuyển sinh học nghề trong 5 năm (2011 - 2015) được 9.171.371 người,


trong đó Cao đẳng nghề và Trung cấp nghề chiếm 12,2 %; sơ cấp nghề và dạy
nghề dưới 3 tháng chiếm 87,8 %. Năm 2015, tuyển sinh đạt được 1.979.199
người, trong đó Cao đẳng nghề, Trung cấp nghề chiếm 10,6 %. Tỷ lệ này giảm
4,7 % so với năm 2014. Mặc dù kết quả tuyển sinh trong giai đoạn 2011 - 2015
chưa đạt mục tiêu Chiến lược phát triển dạy nghề đề ra, song kết quả tuyển sinh
của giai đoạn này tăng 18% so với giai đoạn 2006 - 2010 (tăng 7.773.887
người).
Thứ tư, Chất lượng học viên sau đào tạo nghê: Theo báo cáo của 63

tỉnh/thành phố, năm 2015, tỷ lệ học sinh học nghề tốt nghiệp có việc làm đạt
khoảng 70%. Nhiều trường có những nghề trên 90% học viên có việc làm ngay
sau khi tốt nghiệp. Một số nghề có số lượng học viên có việc làm ngay sau khi
tốt nghiệp chiếm tỷ lệ cao (đối với các nghề có số lượng học viên tốt nghiệp lớn
hơn 500 người) như: Kỹ thuật khai thác mỏ hầm lò (94%), Kỹ thuật cơ điện mỏ
hầm lò (94%), Hàn (91%), Công nghệ dệt (87%), Công nghệ hóa nhuộm (85%);
Kỹ thuật xây dựng (86%), Lâm sinh (82%); May thời trang (81%), Kỹ thuật
dược (81%); Nguội sửa chữa máy công cụ (79%); Nghiệp vụ nhà hàng (77%).
Nói chung, chất lượng đào tạo nghề cho các khu công nghiệp nói riêng từ bước
được nâng lên, thể hiện qua kết quả tốt nghiệp và tìm được việc làm sau đào tạo.
2.2. Những điểm hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù đạt được những kết quả nhất định nhưng chất lượng nguồn nhân
lực của nước ta vẫn còn tụt hậu so với nhiều nước trong khu vực, mất cân đối
nghiêm trọng về trình độ đào tạo, cơ cấu và giới; tình trạng thất nghiệp của lao
động có bằng cấp cao ngày càng nhiều.
Thứ nhất, chất lượng lao động còn yếu kém: Việt Nam đang trong quá
trình thực hiện chiến lược phát triển đất nước, từng bước đổi mới mô hình tăng
trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế và tăng cường sức cạnh tranh, nên đòi hỏi chất
lượng lao động phải cao với một cơ cấu hợp lý hơn. Trong khi đó, công tác đào


tạo nghề vẫn chưa đáp ứng yêu cầu, nhu cầu của các thành phần kinh tế để có
thể sẵn sàng tham gia hội nhập. Hằng năm, mặc dù với hơn 1 triệu lao động trẻ
ra nhập thị trường lao động, nhưng công tác đào tạo vẫn tồn tại nhiều yếu kém
kéo dài, dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực vẫn không được cải thiện đáng kể,
nhiều nghề xã hội có nhu cầu nhưng ít người học. Tỷ lệ thất nghiệp của lao
động qua đào tạo ở bậc đại học, cao đẳng vẫn tiếp tục gia tăng. Tỷ lệ lao động
có chuyên môn kỹ thuật đáp ứng yêu cầu xã hội, nhất là đối với các KCN, KCX
thấp.
Thứ hai, công tác phân luồng học sinh sau trung học nhiều năm qua vẫn

yếu kém, chưa khắc phục được tâm lý sính bằng cấp, coi nhẹ học nghề trong xã
hội; các trường đại học cao đẳng tuyển sinh và đào tạo ồ ạt, “vét” hầu hết học
sinh sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, làm cạn kiệt nguồn tuyển sinh học
nghề. Tình trạng thiếu hụt giáo viên dạy nghề có khả năng dạy cả lý thuyết và
thực hành vẫn phổ biến tại hầu hết các cơ sở dạy nghề, nhiều trường không
tuyển sinh được nên số giáo viên dôi dư khá nhiều. Thiết bị dạy nghề thiếu, lỗi
thời, thậm trí không sử dụng được trong đào tạo thực hành. Chất lượng đào tạo
trong nhiều cơ sở dạy nghề thấp, không đáp ứng yêu cầu các doanh nghiệp,
nhiều doanh nghiệp sau khi tuyển dụng lao động phải đào tạo lại gây tốn kém và
lãng phí cho xã hội và người dân.
Thứ ba, công tác dự báo về nhu cầu nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển
kinh tế - xã hội chưa tốt, chưa sát với nhu cầu nhân lực ở từng lĩnh vực, ngành,
các khu vực kinh tế và các địa phương; việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát
triển giáo dục và đào tạo thiếu tính khoa học.
Thứ tư, hệ thống giáo dục chưa thống nhất, chia cắt đã kéo dài nhiều năm
nhưng chưa được giải quyết. Quy mô phát triển quá nóng, dẫn đến tình trạng 5
năm gần đây không đủ nguồn tuyển vào các trường, nhiều cơ sở đào tạo nghề
không có người học.


Thứ năm, thiếu tính liên thông trong hệ thống giáo dục và đào tạo cũng
như trong việc công nhận trình độ; chưa có sự gắn kết hai chiều giữa các cơ sở
đào tạo với các KCN, KCX; giữa các cơ sở đào tạo nghề với các trường phổ
thông; giữa giảng dạy và nghiên cứu, phục vụ sản xuất; giữa các cơ sở đào tạo
với nhau.
Thứ sáu, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất còn rất nhiều hạn chế, yếu kém
không theo kịp yêu cầu của thực tế. Số lượng các chương trình mới còn quá ít,
nhất là những chương trình đạt chuẩn khu vực và thế giới; nhiều trường vẫn dạy
theo chương trình cũ chưa cập nhật kiến thức, nên không đáp ứng yêu cầu của
doanh nghiệp.

Thứ bảy, năng lực của các cơ quan quản lý còn yếu kém, thiếu cơ chế
tương tác giữa các cơ quan có chức năng kiểm soát, đánh giá, thẩm định chất
lượng với các cơ sở đào tạo. Công tác và cơ chế quản lý còn nhiều vướng mắc,
thiếu đồng bộ, chia cắt. Chưa kiên quyết đóng cửa các cơ sở đào tạo yếu kém và
vi phạm nghiêm trọng các quy định trong đào tạo.
Thứ tám, chưa có cơ chế và cơ quan chuyên trách kiểm định chất đào tạo,
cấp giấy phép hành nghề cho lao động qua đào tạo, làm cho thị trường lao động
hoạt động thiếu lành mạnh và khó kiểm soát chất lượng đào tạo. Chưa có khung
trình độ quốc gia theo tiêu chuẩn khu vực và quốc tế để yêu cầu các cơ sở đào
tạo phải từng bước thực hiện.
Thứ chín, chính sách tài chính đối với công tác đào tạo lạc hậu, kém hiệu
quả, lãng phí, không tạo được môi trường cạnh tranh lành mạnh thúc đẩy các cơ
sở đào tạo phải đổi mới toàn diện, mạnh mẽ để đáp ứng yêu cầu và nhu cầu của
xã hội.
Thứ mười, vai trò và trách nhiệm của tổ chức Công đoàn trong việc bảo
đảm quyền và nghĩa vụ của người lao động ở một số KCN, KCX còn hạn chế,
yếu kém, chưa thực sự bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của công nhân, dẫn đến


đời sống vật chất và tinh thần, việc làm của công nhân gặp nhiều khó khăn,
thiếu thốn, quan hệ lao động trong các doanh nghiệp nảy sinh những vấn đề
phức tạp.
Tất cả những yếu kém, bất cập nêu trên dẫn đến tỷ lệ học sinh được đào
tạo nghề vẫn còn thấp, chất lượng đào tạo nghề không bảo đảm, tỷ lệ thất
nghiệp cao. Chất lượng lao động trong các KCN, KCX vẫ còn thấp và bộc lộ
nhiều hạn chế, yếu kém.
3. Sự cần thiết của việc gắn kết bền vững giữa các cơ sở dạy nghề và Doanh
nghiệp
3.1. Những lợi ích cơ bản
Thứ nhất, đối với nhà trường (NT) NT được tổ chức tuyển dụng tư vấn về

việc sửa đổi và xây dựng nội dung chương trình đào tạo. Góp phần nâng cao
năng lực và trình độ chuyên môn cho người học. Tham gia các đề tài nghiên cứu
khoa học và tổ chức các buổi tọa đàm, hội thảo chung. Trao đổi các thông tin về
khoa học, công nghệ tiên tiến và nhu cầu về nguồn nhân lực trong thời điểm
hiện tại và tương lai. NT nâng cao được chất lượng đào tạo cũng như tìm được
đầu ra phong phú cho người học, từ đó nâng cao uy tín của NT trước những yêu
cầu của thhị trường lao động đa dạng và luôn biến động. NT tạo được tiếng
vang trong giáo dục và đào tạo, gây uy tín cũng như duy trì mối liên kết bền
vững giữa NT và DN. NT có thể tăng cường tính tự chủ về nguồn tài chính cũng
như cơ sở vật chất ở hiện tại và tương lai.
Thứ hai, đối với doanh nghiệp (DN) DN luôn yên tâm có một đội ngũ
nhân lực vững chắc hỗ trợ khi mình có nhu cầu. Đồng thời DN ít tốn chi phí
tuyển dụng, thử việc, vì qua thời gian thực tập chính là thời gian sinh viên thể
hiện năng lực, DN đánh giá khả năng, năng lực, phẩm chất của sinh viên. Nói
cách khác là DN có thêm quyền và cơ hội lựa chọn và sử dụng nguồn lao động
chất lượng, có trình độ, từ đó giải quyết được bài toán nan giải về nhân lực.


Được phép đánh giá chất lượng đào tạo (phát huy mặt mạnh khắc phục những
mặt yếu kém) và đóng góp ý kiến vào việc xây dựng chương trình đào tạo của
NT.
3.2 Các hình thức liên kết
Trong thời gian qua công tác đào tạo nghề đã bước đầu có sự gắn kết giữa
nhà trường và doanh nghiệp trong dạy nghề. Người học nghề được học những
nghề phù hợp với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp. Các kiến thức và kỹ năng
nghề mà người học tiếp thu được đáp ứng được lợi ích của cả người học và
người sử dụng lao động. Người học nghề ngoài việc học lý thuyết nghề, được
thực tập ngay trên các máy móc, thiết bị đang sử dụng tại doanh nghiệp, do đó
có thể vận dụng được những kiến thức đã học, đồng thời nâng cao được kỹ năng
nghề. Việc liên kết đào tạo này đã làm tăng mối quan hệ hiểu biết giữa nhà

trường và doanh nghiệp. Cơ sở đào tạo tiết kiệm được chi phí đầu tư cho việc
mua sắm trang thiết bị dạy thực hành và người học có thể tiếp thu bài học nhanh
hơn. Về phía doanh nghiệp có thể sử dụng được ngay lực lượng lao động này
sau khi tốt nghiệp.
Việc doanh nghiệp tổ chức đào tạo - dạy nghề cho lao động dưới các hình
thức khác nhau đang ngày càng trở nên phổ biến và có tác dụng tích cực nâng
cao trình độ tay nghề và chất lượng lao động. Các doanh nghiệp tổ chức dạy
nghề cho lao động theo 3 hình thức chủ yếu sau: kèm cặp tại doanh nghiệp, đào
tạo tập trung tại doanh nghiệp và đào tạo tập trung ngoài doanh nghiệp, trong đó
dạy nghề kèm cặp là phổ biến hơn cả (chiếm 63,6% tổng số lao động được đào
tạo). Rõ ràng hình thức này phù hợp với khả năng, điều kiện của doanh nghiệp.
Tuy nhiên ở một số lĩnh vực, các doanh nghiệp vẫn gắn chặt với cơ sở dạy nghề.
Nhiều doanh nghiệp rất quan tâm đầu tư nâng cấp cho các cơ sở dạy nghề nhằm
tạo điều kiện có đủ điều kiện vật chất, trang thiết bị, công nghệ ngày càng cao


cho các cơ sở dạy nghề nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, đáp ứng tốt hơn
nhu cầu lao động có chất lượng cho doanh nghiệp.
3.3. Giải pháp
Thứ nhất, Điều chỉnh nâng mức hỗ trợ chi phí ĐTN phù hợp với thị trường
hiện nay . Tăng cường cơ hội tiếp cận vốn vay tự tạo việc làm cho Lao động học
nghề, mở rộng nguồn vay bằng việc thành lập thêm các quỹ hỗ trợ tín dụng cho
Người lao động tự tạo việc làm; tiếp tục cải cách hành chính để đơn giản hóa
các thủ tục vay vốn, thiết lập các kênh hỗ trợ, tư vấn vay vốn cho lao động học
nghề.
Thứ hai, Áp dụng chuẩn Kỹ năng nghề quốc gia đối với GV dạy những
nghề đã được Tổng cục Dạy nghề ban hành bộ chuẩn, chỉ những GV cơ hữu tại
các CSDN đã được cấp chứng chỉ chuẩn Kỹ năng nghề quốc gia mới được tham
gia dạy thực hành. Áp dụng linh hoạt những quy định đối với GV dạy nghề là
thợ lành nghề, nghệ nhân để khuyến khích người giỏi nghề, có nhiều kinh

nghiệm thực tế tham gia; quy định bắt buộc người tham gia dạy nghề phải có
chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm như hiện nay gây khó khăn cho không ít trường
hợp là nghệ nhân cao tuổi có tâm huyết muốn tham gia để giúp lao động có
nghề. Với những trường hợp này nên xây dựng tiêu chí thay thế để đánh giá
năng lực sư phạm của họ như: số năm kinh nghiệm trong nghề hoặc số LĐ đã
được họ truyền nghề trong quá trình hành nghề…
Thứ ba, Các CSDN cần định kỳ điều chỉnh lại chương trình đào tạo theo
hướng xác định mục tiêu đào tạo phù hợp với yêu cầu thị trường lao động;
xácđịnh tỷ lệ phù hợp giữa lý thuyết và thực hành, đặc biệt ưu tiên nhiều thời
gian dạy thực hành để nâng cao kỹ năng nghề cho người học. Một số lĩnh vực
sản xuất (chủ yếu là nông nghiệp) mang tính thời vụ chỉ diễn ra ở thời điểm nhất
định trong năm hoặc chu kỳ sản xuất kéo dài… nên sẽ khó khăn cho việc thực
hiện các phần thực hành, thăm quan, trải nghiệm thực tế. Do đó, trong chương


trình đào tạo cần căn cứ đặc thù nghề để xác định thời gian, phương pháp và
hình thức đào tạo để quá trình đào tạo luôn gắn liên với thực tế lao động sản
xuất.
Thứ tư, Cần tiếp tục tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho
những CSDN còn thiếu theo hướng tập trung, tránh dàn trải như thời gian qua;
ưu tiên đầu tư hoàn thiện cho những CSDN mà tại địa phương có nhu cầu học
nghề lớn trước, nơi có nhu cầu học nghề ít hơn sau; yêu cầu các CSDN quy
hoạch nghề trọng điểm (từ 3 đến 5 nghề/CSDN) để tập trung đầu tư. Ngoài ra,
việc mua sắm thiết bị vật tư phục vụ thực hành thường có độ trễ giữa nhu cầu và
thời gian để thực hiện việc mua sắm; do đó cần xây dựng được định mức sử
dụng vật tư, xây dựng quy trình mua sắm vật tư để giảm thời gian trễ trong thực
hiện việc mua sắm đối với từng nghề nhằm đáp ứng kịp thời cho ĐTN cho lao
động. Tăng cường xã hội hóa hoạt động ĐTN cho lao động bằng việc huy động
các nguồn đầu tư từ XH cho các CSDN; hợp tác với DN trong ĐNT để tận dụng
cơ sở vật chất, máy móc thiết bị để vừa giảm chi phí đầu tư, vừa gắn đào tạo với

nhu cầu thực tế của bên sử dụng LĐ.
Thứ năm, tăng cường hoạt động tư vấn lựa chọn nghề học và coi hoạt
động này là yêu cầu bắt buộc trong quy trình tuyển sinh, đào tạo nghề cho lao
động; tuy nhiên các địa phương cần sớm có quy hoạch chi tiết kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội, cơ cấu kinh tế, cơ cấu LĐ để làm cơ sở tư vấn lựa chọn
nghề sát với thực tế. Đồng thời, tăng cường hoạt động thông tin TTLĐ và giới
thiệu việc làm.


C. Kết Luận
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, công nghiệp hoá hiện đại
hoá đất nước chúng ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng trong phát
triển kinh tế- xã hội. Đóng góp vào những thành công đó có vai trò to lớn của
các doanh nghiệp. Với xu thế mở cửa, hội nhập hiện nay để tăng sức cạnh tranh,
mở rộng thị trường thì một yêu cầu tất yếu đối với các doanh nghiệp là phải đầu
tư công nghệ, trang thiết bị hiện đại và điều đặc biệt quan trọng là phải nâng cao
chất lượng của lực lượng lao động, phải có đội ngũ công nhân kỹ thuật, công
nhân lành nghề đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển của doanh nghiệp.
Xuất phát từ những yêu cầu đó, công tác đào tạo nghề giữ vị trí quyết
định nhất, không chỉ đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp mà còn phục vụ
việc xuất khẩu lao động, nâng cao hiệu quả của công tác xuất khẩu lao động ở
nước ta. Để có nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần phải phát triển một hệ thống đào tạo
nghề có khả năng cung cấp cho xã hội một đội ngũ nhân lực đông đảo, có trình
độ cần thiết theo một cơ cấu thích hợp, có khả năng thích ứng nhanh với mọi
biến đổi của môi trường có trình độ toàn cầu hóa ngày càng cao. Đồng thời có
khả năng thường xuyên cập nhật các kiến thức và kỹ năng cần thiết cho đội ngũ
lao động của đất nước. Đào tạo nghề là một bộ phận quan trọng cấu thành hệ
thống đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.



Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Bộ luật lao động và các văn bản hướng dẫn kèm thi hành - NXB Lao
động.
2. Chỉ dẫn áp dụng Bộ luật lao động - PGS.TS Nguyễn Hữu Chí.
3. Bộ LĐTB&XH, Tổng cục Thống kê (2015), Bản tin cập nhật thị trường
lao động Việt Nam, số 6, Quý II, 2015.
4. Luật giáo dục nghề nghiệp năm 2014.
5. />
ta.htm
/>


×