Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

nhà văn hiện đại Việt Nam- những giớ hạn và sứ mện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.85 KB, 11 trang )

NHÀ VĂN HIỆN ĐẠI VIỆT NAM- NHỮNG GIỚI HẠN VÀ SỨ MỆNH (Suy nghĩ từ
những sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp)
Trần Văn Toàn
Nhà văn - anh ta là ai? Anh ta và những tác phẩm của mình đảm nhận những sứ mệnh
nào? đâu là những giới hạn? Đấy là những câu hỏi mà người cầm bút không thể né tránh.
Tuy nhiên, không chỉ có người cầm bút tham gia vào câu trả lời này. Có những câu trả lời
được đề xuất từ phía đại chúng, lại có những câu trả lời đến từ phía những nhà đạo đức,
những nhà chính trị. Có những câu trả lời đến từ những chuẩn mực truyền thống, lại có
những câu trả lời đến từ những áp lực của hiện tại và tương lai... Tất cả những câu trả lời
này, trong đích hướng của chúng, đều có tham vọng thay nhà văn đưa ra câu trả lời cho
chính anh ta. Chính vì thế, nhà văn, để đưa ra câu trả lời của mình, dù muốn hay không,
cũng phải tiến hành một sự đính chính, khước từ, đối thoại với những câu trả lời dội đến
anh ta từ nhiều hướng. Trên thực tế thì đây là điều bất khả đối với phần lớn những người
cầm bút ở một thời đại cụ thể. Họ, hoặc là thoả mãn với những câu trả lời có sẵn, hoặc bị
“méo”, bị lạc giọng trong tiếng ồn. Điều này giải thích vì sao chỉ ở những nhà văn hàng đầu
những câu hỏi trên mới trở thành sự cật vấn không khoan nhượng, trở thành một nội dung,
thậm chí là nội dung quan trọng nhất trong các tác phẩm của họ. Bằng cách trả lời những
câu hỏi này họ để lại trong tác phẩm chân dung tinh thần của mình, cái nhìn phản tỉnh về
chính mình. Một cách tự nhiên, đây sẽ là một tiêu chí để những người làm văn học sử nhận
diện về đặc điểm của một thời kỳ văn học nhất định.
Đi tìm chân dung của nhà văn hiện đại qua những sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp là
nhiệm vụ của bài viết này. Mặc dù tư liệu khảo sát chủ yếu là tác phẩm nhưng, trong trường
hợp cần thiết, một sự liên liên hệ đối chiếu với quan điểm về văn học được Nguyễn Huy
Thiệp phát biểu trực tiếp cũng sẽ được tiến hành và thao tác này theo chúng tôi là cần thiết.
1.1 Vì nhiều lý do, ở Việt Nam, chức năng nhận thức và phản ánh hiện thực mặc nhiên
được xem là một trong những chức năng quan trọng nhất của văn học. Nhà văn do đó gánh
vác sứ mệnh “thư ký trung thành của thời đại” như một sự tự nguyện với rất nhiều bận tâm
giành cho nó. Với không ít người, đấy là băn khoăn duy nhất và quan trọng nhất khi cầm
bút. Đây là một quan niệm cần nhận được sự phản biện. Không phải ngẫu nhiên trong triết
học phương Tây hình thành cả một truyền thống từ Lock qua Hume, kết tinh ở Kant, nối dài
đến Popper. Tất cả các nhà triết học này đều không ngừng đặt ra những câu hỏi về khả năng


nhận thức của con người. Con người dùng những phạm trù tri thức của mình để nhận biết
về thế giới, thiết lập mối quan hệ nhân quả, tương tác giữa các sự kiện mà nó nắm bắt
được... Tuy nhiên, tất cả những lý thuyết, những luận giải đó chỉ là sản phẩm của trí tuệ -
một quy ước mà con người tạo ra hơn là đặc điểm của thế giới khách quan. Ngay như ngôn
ngữ - chất liệu của văn học – cũng là một hệ thống quy ước, nó cung cấp một và chỉ một
mà thôi về cái nhìn thế giới. Bức tranh thế giới trong tác phẩm văn học vì thế thật èo uột và
chẳng có gì là xác tín. Kỳ vọng vào khả năng nhận thức của văn học, do thế, là một nhầm
lẫn to lớn. Nhà văn họ Vũ trong Bài học tiếng Việt đã cay đắng nhận thấy: vũ trụ là “hỗn
độn vô minh... Văn học không phải là tất cả. Không nên quá coi trọng văn học. Văn học chỉ
là từ ngữ. Như những ngọn gió...”
(1)
. Những gì dấu vết đời sống mà văn học tải chở vào
trong tác phẩm đôi khi thật vụn vặt, vô nghĩa, ấm ớ, kiểu như: “Cậu Cấn chồng cô Sinh là
thương binh. Họ quen biết nhau trong dịp tình cờ. Hai người cùng trú dưới hiên nhà trong
một trận mưa. Chuyện này đã có người viết (thế mới biết nhà văn ở ta xông xáo!). Theo
đồn đại, đại để đấy là một “xen” (scene) về tình yêu giản dị, trong sáng, không vụ lợi, cuộc
sống là duy vật biện chứng, hài hòa, đẹp, đáng yêu, v.v...”
(2)
. Không mấy khó khăn để nhận
ra giọng giễu nhại trong đoạn văn trên. Cũng xin lưu ý: sự lạm phát rất nhiều những tính từ
ở câu kết trong đoạn văn trên không đưa lại một sự chân thực nào cho lời kể nếu không
muốn nói là khiến cho những gì được nói tới càng trở nên tù mù. Dưới dạng trực tiếp, trong
tiểu luận Thời của tiểu thuyết, Nguyễn Huy Thiệp công khai bày tỏ sự nghi ngờ trong năng
lực nhận thức hiện thực của văn học: tiểu thuyết “không phải là tấm gương soi của thời đại
gì hết: nó kể chuyện và nhầm lẫn lung tung ”
(3)
. Có lẽ chính vì thế mà Nguyễn Huy Thiệp
trong phần lớn những tác phẩm của mình hoàn toàn gạt bỏ vai trò của miêu tả. Thay vào đó,
lối kể theo kiểu liệt kê các sự kiện, các cảm giác (thuần túy chỉ là những cảm giác) được
nhà văn này đặc biệt ưa thích. Miêu tả bao giờ cũng hàm trong nó một sự lý giải và cắt

nghĩa nào đó về đối tượng. Kể cho phép nhà văn có thể giấu đi mọi sự cắt nghĩa - mà thuộc
tính của chúng là sự phiến diện và sai lạc. Trên văn bản chỉ là những chuỗi sự kiện được tái
hiện trần trụi với giọng văn lạnh.
Lý giải, cắt nghĩa về hiện thực, như thế, là một nhầm lẫn to lớn, một sứ mệnh bất khả
mà người ta đã bắt văn học phải mang vác. Với một nhà văn hiện đại đó là điểm đầu tiên
phải khước từ.
1.2. Các nhà văn trong những tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp là những người có thể
tạng mẫn cảm. Họ hiểu và cảm nhận một cách tinh tế sức ép của cuộc đời lên tồn tại của
một cá thể. Có khi họ còn được miêu tả như một nhà tiên tri thấu thị. Rất tinh tế nhưng bất
lực. Tất cả họ đều bị lún sâu trong đám bùng nhùng của hiện thực đời sống, hoàn toàn
không có khả năng tác động đến hiện thực. Nhân vật thi sĩ trong Sang sông là như thế (sức
mạnh hành động trong tác phẩm này là tên buôn đồ cổ, anh thanh niên, và đáng kể nhất là
tên cướp), Nguyễn Du khi đặt bên cạnh chân dung của Gia Long (Vàng lửa) là như thế. Với
tất cả sự tàn nhẫn của mình, vua Gia Long vẫn có năng lực: “làm cho lịch sử sinh động hẳn
lên”, đem tới “sức đẩy.. .với khối cộng đồng” - điều mà Nguyễn Du không bao giờ có
được. Trong Mưa Nhã Nam, Đồ Ngạn khi đứng trước một nhân vật mạnh mẽ như Hoàng
Hoa Thám đã nhận thấy chuyện làm thơ của mình là một hành vi “đê tiện”. Đồ Ngạn nói
với Hoàng Hoa Thám bằng tất của sự mặc cảm của những kẻ cầm bút: “Anh là một thi sĩ
ma vương...Anh đã làm những điều mà bọn văn chương suốt đời thèm muốn. Chúng không
làm sao biến được ngọn bút của chúng thành ngọn giáo hay cái câu liêm”
(4)
.
Những trình bày ở trên đặt ta trước một thức nhận: người nghệ sĩ - trong hành trình
nhận thức về mình - phải thoát ra khỏi những nhầm lẫn “vương giả” - những nhầm lẫn gắn
liền với những danh xưng đẹp đẽ, cao quý: người thư ký của thời đại, nhà cách mạng,
người dự báo hiện thực... Thoát khỏi những nhầm lẫn này không hề đơn giản và dễ dàng vì
như thế nó khiến nhà văn phải đối lập mình với những kỳ vọng, những hình ảnh đẹp đẽ của
họ trong nhận thức truyền thống của cộng đồng. Nếu như ở đây cần một so sánh thì có lẽ là:
trong quá khứ Nam Cao, Nguyễn Minh Châu tự đấu tranh và mổ xẻ chính mình để vươn tới
những thiên chức mà cộng đồng đã kỳ vọng về họ thì trong hiện tại Nguyễn Huy Thiệp

hiệu đính lại để chỉ ra những bất khả, những giới hạn mà nhà văn và tác phẩm của mình
chẳng thể vượt qua. Nhà văn và tác phẩm của họ không có nhiều sức mạnh như đã từng bị
ngộ nhận. Và việc chấp nhận những giới hạn này như một thực tế là một sự dũng cảm tê tái
đối với người cầm bút. Hiểu thế mới thấy hết sự dũng cảm của nhân vật Tú Xương khi ông
giữ khoảng cách với tiếng gọi Đông Du đầy thống thiết. Ông có con đường của riêng mình.
Những dòng cuối cùng của truyện ngắn này là hình ảnh: “Tú Xương đi. Kìa Tú Xương
đang đi... Ông “thõng tay vào chợ”
(5)
. Ông Tú, rốt cục, đã đi theo con đường của mình - một
nhà thơ. Ông biết rõ, và dũng cảm chấp nhận những giới hạn của mình. Cách đặt vấn đề
này thực sự là sự giải thiêng đối với những huyền thoại về nhà văn và văn học. Những
huyền thoại thật đẹp (và đã từng đảm nhận những sứ mệnh trọng đại ở những thời kỳ nhất
định) nhưng giờ đây cần phải được gỡ bỏ để đảm nhận những sứ mệnh (cũng là những huyền
thoại?) mới.
2. Sứ mệnh của một nhà văn hiện đại được thực hiện trong sự cô đơn tuyệt đối.
2.1 Sứ mệnh duy nhất của nhà văn, không gì khác đó là hướng đến những giá trị nhân
văn. Thoạt nhìn đấy là một mệnh đề cũ kỹ. Điểm khác biệt là ở chỗ các nhà văn trước
Nguyễn Huy Thiệp nói đến nó với sự hân hoan, với niềm tin về nhân văn như là một hằng
số của tồn tại người - những hạt ngọc ẩn giấu trong cuộc đời mà nhà văn là kẻ kiếm tìm.
Một cuộc kiếm tìm mà dù nhọc lòng đến đâu, lầm lạc đến đâu thì rồi cũng sẽ được đền đáp
một cách xứng đáng. Nguyễn Huy Thiệp nói về sứ mệnh này một cách căng thẳng, bi phẫn:
“Điều khốn nạn, trớ trêu và cũng là điểm yếu của một nhà văn là dù hiểu đời, lịch lãm đến
đâu cuối cùng anh ta vẫn phải hành xử và biết trình bày tư tưởng nhân đạo một cách nghệ
thuật. Giá trị nhân đạo là lý do duy nhất để cho văn học tồn tại”. Tại sao lại là “khốn nạn”,
“trớ trêu”, “điểm yếu ”? Trong cách nói này, giá trị nhân đạo dường như là một tương phản
với kinh nghiệm đời sống của nhà văn. Nói cách khác: nhân đạo đó không phải là một giá
trị hiện tồn, trong logic của thực tại đời sống nó lầm lạc và yếu đuối. Giá trị nhân đạo là
một logic khác với logic của thực tế đời sống. Đây là một vấn nạn của xã hội hiện đại ở đó
sự thành công là biện minh cao nhất cho mọi hành xử của con người. Ngay từ những năm
1918, Spengler đã viết cuốn sách Hoàng hôn của phương Tây tiên tri cho hậu thế với một

cảm nhận chua chát: “Bộ não lên ngôi vua bởi vì tâm hồn đã về hưu”. Ở Việt Nam, tác
phẩm đầu tiên cho thấy sự đồng điệu với cảm nhận này của Spengler, có lẽ là Sông Côn
mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác (được viết vào những năm 1978 - 1981) khi để cho nhân
vật Nguyễn Hữu Chỉnh thuyết lý: “phân chia thiện ác là điều không hợp với luật tự
nhiên.. .Thiện là thành, ác là bại. Hễ thành công thì tự nhiên thiện. Cho nên điều quan trọng

×