Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.28 KB, 12 trang )

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
Khoa Luật
--------

BÀI TẬP
LUẬT DÂN SỰ
HỌ
VÀ TÊN: MAI THỊ HẢI YẾN
NGÀY THÁNG NĂM SINH: 19/08/1998

Đề tài: Phân tích các quy định của pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu
do không tuân thủ quy định về hình thức. Cho ví dụ minh họa

1


LỜI NÓI ĐẦU
Giao dịch dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu cho cá nhân, pháp nhân, hộ gia
đình, tổ hợp tác xác lập và thực hiện các quyền nghĩa vụ dân sự nhằm thỏa mãn các nhu cầu
trong sinh hoạt tiêu dùng và trong sản xuất kinh doanh. Giao dịch dân sự càng có ý nghĩa quan
trọng trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay. Thực tế cho thấy một giao dịch để được coi là có hiệu lực cần đảm bảo được các yếu
tố: người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; mục đích và nội dung giao dịch không
vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; người tham gia giao dịch hoàn toàn
tự nguyện. Bên cạnh đó, trong một số trường hợp pháp luật quy định thì hình thức giao dịch
cũng là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự . Tuy nhiên, phần lớn dân số Việt Nam đều
không trang bị cho mình đầy đủ kiến thức về luật pháp dấn đến tình trạng các giao dịch bị vô
hiệu vẫn thường xuyên xảy ra. Trong số đó, giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy
định về hình thức chiểm tỉ lệ không hề nhỏ. Mặc dù điều này được quy đinh rất rõ trong pháp
luật, nhưng do sự thiếu hiểu biết của mọi người đã dẫn đến các tranh chấp, kiện tụng, gây ảnh
hưởng về tài sản và cả tình cảm giữa các bên tham gia. Nhận thấy điều này, em đã quyết định


tìm hiểu đề tài: “Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức”
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN:
1. Giao dịch dân sự:
1.1. Khái niệm:
Theo điều 116 của BLDS ( 2015) : “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lí
đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.” Giao dịch dân sự là
một sư kiện pháp lí dưới dạng hành vi pháp lí ( hành vi pháp lí đơn phương hoặc đa phương –
một bên hoặc nhiều bên ) làm phát sinh hậu quả của pháp lí.
1.2 Đặc điểm của giao dịch dân sự:
Giao dịch dân sự có những đặc điểm sau:
- Giao dịch dân sự phải thể hiện được ý chí của các bên tham gia.
- Các bên tham gia giao dịch phải tự nguyện.
- Chế tài trong giao dịch dân sự mang tính chất bắt buộc nhưng cũng rất linh hoạt.- Nội dung
của giao dịch không được trái pháp luật và đạo đức xã hội.
1.3 Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự:.
2


Bên cạnh nguyên tắc tôn trọng quyền tự do thoả thuận của các bên trong giao dịch thì pháp
luật cũng đặt ra một số những yêu cầu tối thiểu buộc các chủ thể phải tuân thủ theo - đó là các
điều kiện có hiệu lực của giao dịch. Chỉ những giao dịch hợp pháp mới làm phát sinh quyền,
nghĩa vụ của chủ thể tham gia giao dịch. Mọi cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc
đối với các bên và được pháp luật bảo hộ. Các điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định
tại Điều 117 BLDS. Đó là:
- Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự
được xác lập.
- Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện
- Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo
đức xã hội.
- Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp

luật có quy định.
2. Giao dịch dân sự vô hiệu:
2.1. Khái niệm:
Điều 122 BLDS quy định: “Giao dịch dân sự vô hiệu là các giao dịch không có một trong
các điều kiện được quy định tại điều 117 BLDS.”
điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Điều 117 BLDS. Đó là:
- Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự
được xác lập.
- Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện
- Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo
đức xã hội.
- Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp
luật có quy định.
Như vậy những giao dịch dân sự nếu vi phạm 1 trong 4 điều kiện nêu trên thì bị coi là vô
hiệu.
2.2 Phân loại giao dịch dân sự vô hiệu :
3


* Căn cứ theo mức độ vô hiệu, chia làm 2 loại:
- Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối :
Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối xảy ra khi toàn bộ nội dung của giao dịch dân sự đó vi
phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội hoặc một trong các bên tham gia giao dịch đó
không có quyền xác lập giao dịch dân sự.
- Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối :
Giao dịch vô hiệu từng phần là giao dịch mà trong đó chỉ có 1 phần hoặc một số phần của
giao dịch đó vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại. Khi đó chỉ phần
vô hiệu là không có hiệu lực, các phần còn lại vẫn có hiệu lực thi hành.
* Căn cứ theo tính chất, chia làm 2 loại:
- Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối: là những giao dịch dân sự vi phạm những quy tắc pháp lý

có mục đích bảo vệ quyền và lợi ích chung của cộng đồng.
Giao dịch dân sự do giả tạo, giao dịch dân sự có nội dung và mục đích trái với pháp luật
và đạo đức xã hội, giao dịch dân sự không tuân theo hình thức luật định bị coi là giao dịch dân
sự vô hiệu tuyệt đối - thời gian yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không hạn chế.
Một giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu tuyệt đối trong các trường hợp sau:
+ Khi vi phạm vào các điều cấm của pháp luật, trái với đạo đức của xã hội (Điều 123 BLDS
năm 2015).
+ Khi giao dịch được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác hoặc nhằm
trốn tránh nghĩa vụ đối với người thứ ba (Điều 124 BLDS năm 2015).
+ Khi hình thức của giao dịch không tuân thủ theo các quy định bắt buộc của pháp luật (Điều
129 BLDS năm 2015).
- Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối: là những giao dịch dân sự vi phạm một trong những quy
tắc pháp lý có mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của một chủ thể xác định (cá nhân,
pháp nhân,…)
- Giao dịch dân sự được giao kết do nhầm lẫn, đe doạ, lừa dối, do người chưa thành niên, người
bị mất hay hạn chế năng lực hành vi dân sự thiết lập là giao dịch dân sự vô hiệu tương đối - thời
hạn yêu cầu xem xét hiệu lực của giao dịch dân sự đó là một năm kể từ ngày giao dịch dân sự
được xác lập.
4


Giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu tương đối trong các trường hợp:
+ Khi giao dịch được xác lập bởi người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
(Điều 125 BLDS năm 2015).
+ Khi giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn (Điều 126 BLDS năm 2015).
+ Khi một bên chủ thể tham gia xác lập giao dịch do bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép (Điều 127
BLDS năm 2015).
+ Khi người xác lập giao dịch đủ năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch tại thời
điểm không nhận thức được hành vi của mình (Điều 128 BLDS năm 2015).

II. GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU DO KHÔNG TUÂN THỦ QUY ĐỊNH VỀ HÌNH
THỨC
1. Hình thức của giao dịch dân sự
Hình thức của giao dịch dân sự là phương tiện thể hiện nội dung của giao dịch. Thông
qua phương tiện này bên đối tác cũng như người thứ ba có thể biết được nội dung của giao dịch
đã xác lập. Hình thức của giao dịch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tố tụng dân sự. Nó là
chứng cứ xác nhận các quan hệ đã, đang tồn tại giữa các bên, qua đó xác định trách nhiệm dân
sự khi có hành vi vi phạm xảy ra.
Giao dịch dân sự có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ
thể. Người xác lập giao dịch có quyền lựa chọn hình thức của giao dịch đó. Chỉ trong một số
trường hợp đặc biệt thì pháp luật mới có yêu cầu về hình thức buộc các chủ thể phải tuân thủ
theo (yêu cầu phải lập thành văn bản, phải có chứng nhận, chứng thực, đăng kí, xin phép). Trong
trường hợp pháp luật có quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, phải được
công chứng nhà nước chứng nhận, được chứng thực, đăng kí hoặc phải xin phép thì phải tuân
theo các quy định đó (khoản 2 Điều 117 và khoản 2 điều 119 BLDS năm 2015).
- Hình thức bằng lời nói: Hình thức bằng lời nói được coi là hình thức phổ biến nhất trong xã
hội hiện nay mặc dù hình thức này có độ xác thực thấp nhất. Hình thức miệng thường được áp
dụng đối với các giao dịch được thực hiện ngay và chấm dứt ngay sau đó (mua bán trao tay)
hoặc giữa các chủ thể có quan hệ mật thiết, tin cậy, giúp đỡ lẫn nhau (bạn bè, người thân cho
vay, mượn tài sản...). Nhưng cũng có trường hợp giao dịch dân sự nếu được thể hiện bằng hình
thức bằng lời nói phải bảo đảm tuân thủ những điều kiện luật định mới có giá trị (di chúc miệng
- Điều 629, Điều 630 BLDS năm 2015).
5


- Hình thức văn bản:
+ Văn bản thường: Được áp dụng trong trường hợp các bên tham gia giao dịch dân sự thoả
thuận hoặc pháp luật quy định giao dịch phải thể hiện bằng hình thức văn bản. Nội dung giao
dịch được thể hiện trên văn bản có chữ kí xác nhận của các chủ thể cho nên hình thức này là
chứng cứ xác định chủ thể đã tham gia vào một giao dịch dân sự rõ ràng hơn so với trường hợp

giao dịch được thể hiện bằng lời nói.
+ Văn bản có công chứng chứng nhận, uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền chứng thực:
Được áp dụng trong những trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự bắt buộc phải được
lập thành văn bản hoặc các bên có thoả thuận phải có chứng nhận, chứng thực, đăng kí hoặc xin
phép thì khi xác lập giao dịch các bên phải tuân thủ hình thức, thủ tục đó (mua bán nhà, chuyển
quyền sử dụng đất...).
- Hình thức giao dịch bằng hành vi: Giao dịch dân sự có thể được xác lập thông qua những
hành vi nhất định theo quy ước định trước. Ví dụ: Mua nước ngọt bằng máy tự động, chụp ảnh
bằng máy tự động, gọi điện thoại tự động… Đây là hình thức giản tiện nhất của giao dịch. Giao
dịch có thể được xác lập thông qua hình thức này mà không nhất thiết phải có sự hiện diện đồng
thời của tất cả các bên tại nơi giao kết. Hình thức này càng ngày càng trở nên phổ biến, nhất là
tại những quốc gia có nền công nghiệp tự động hoá phát triển.
Tuỳ theo tính chất của đối tượng giao dịch và nhu cầu quản lý của nhà nước mà pháp
luật dân sự có những yêu cầu khác nhau về hình thức của giao dịch. Đối với các giao dịch đáp
ứng cho nhu cầu vật chất và tinh thần hàng ngày của cuộc sống và thông thường giá trị tài sản
không lớn thì chỉ cần các bên thể hiện bằng lời nói, có sự tự nguyện, thống nhất ý chí của các
bên là giao dịch đó có hiệu lực. Tuy nhiên, có loại giao dịch không đòi hỏi phải có sự thống nhất
ý chí của hai bên mà chỉ cần 1 bên bày tỏ ý chí bằng lời nói hoặc bằng hành vi cụ thể ví dụ như
viết di chúc. Song có những loại giao dịch pháp luật bắt buộc hai bên phải thể hiện bằng văn bản
và còn có trường hợp phải có công chứng, chứng thực của cơ quan có thẩm quyền. Theo quy
định tại khoản 2 Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Hình thức giao dịch dân sự là
điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định” thì chỉ trong những
trường hợp có quy định của pháp luật về loại giao dịch nào đó phải tuân theo những hình thức
nhất định và hình thức đó là điều kiện có hiệu lực của giao dịch thì hình thức của giao dịch mới
trở thành một điều kiện bắt buộc để giao dịch đó có hiệu lực.
2. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm quy định bắt buộc về hình thức
Điều 126 BLDS năm 2015 quy định:
6



“Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của
giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức
của giao dịch trong một thời hạn, quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch đó vô hiệu.”
Điều 119 BLDS năm 2015 quy định:
“Giao dịch dân sự có thể bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Giao dịch dân sự
thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn
bản.”
Có thể thấy, hình thức phổ biến nhất trong giao dịch dân sự là giao dịch bằng lời nói.
Trong thực tế loại giao dịch này được thực hiện ngay và chấm dứt ngay sau đó, thường áp dụng
với những tài sản có giá trị không lớn.
Hình thức giao dịch bằng văn bản thường áp dụng với những tài sản có giá trị lớn. Nội
dung của giao dịch được ghi rõ trong văn bản, có chữ kí của các bên tham gia. Trong trường hợp
pháp luật quy định phải có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng kí xin phép thì phải tuân
theo các quy định đó. Nếu xét về căn cứ pháp lí chặt chẽ trong giao dịch dân sự thì hình thức
bằng văn bản có giá trị pháp lí rất cao.
Hình thức giao dịch bằng hành vi là hình thức giao dịch thuận tiện nhất. Không nhất thiết
phải có sự hiện diện đồng thời của tất cả các bên giao kết.
Theo nguyên tắc chung thì các chủ thể được tự do lựa chọn hình thức của giao dịch. Chỉ
những giao dịch pháp luật quy định bắt buộc phải thể hiện bằng văn bản, phải có chứng thực,
chứng nhận, đăng kí hoặc xin phép mà các bên không tuân thủ quy định này mới bị vô hiệu. Khi
các bên không tuân thủ các quy định này và có yêu cầu của một hoặc các bên thì toà án xem xét
và "buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn nhất định".
Việc ấn định thời hạn do toà án quyết định căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể. Việc buộc các bên phải
thực hiện và đưa ra thời hạn thực hiện quy định về hình thức của giao dịch thuộc thẩm quyền và
là nghĩa vụ của toà án. Chỉ khi các bên không thực hiện và hoàn tất các quy định về hình thức
của giao dịch trong thời hạn do toà án quyết định thì giao dịch mới vô hiệu. Bên có lỗi làm cho
giao dịch vô hiệu phải bồi thường thiệt hại.
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định điều kiện về hình thức của giao dịch nói chung và
hợp đồng nói riêng đã khác trước rất nhiều. Ngoài việc sửa đổi có tính chất kỹ thuật như bỏ bớt

các chữ, câu, ý thừa thì về nội dung thì đã có những tư tưởng mới được thể hiện trong các điều
quy định chung về giao dịch và quy định ở phần hợp đồng. Để hiểu đúng quy định của pháp luật
7


không được xem xét tách rời giữa các điều luật với nhau, giữa các quy định chung với các quy
định trong từng chế định cụ thể. Tuy những quy định về hình thức của giao dịch dân sự đã khá
rõ ràng và hợp lý nhưng cũng không tránh khỏi thiếu sót như: các quy định về hình thức còn
nằm ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau làm cho người dân rất khó tiếp cận và nắm bắt. Điều
đó dẫn đến tình trạng thiếu hiểu biết của người dân về kiến thức pháp luật. Nhưng bên cạnh
những sai phạm có thể gọi là vô ý thì cũng có những trường hợp biết mà vẫn cố tình vi phạm để
trốn tránh sự kiểm soát của cơ quan nhà nước nhằm trục lợi (như hợp đồng mua bán bán đất
không chứng thực trốn sự kiểm soát của Nhà nước nhằm trốn thuế) … nên những tranh chấp
đáng tiếc xảy ra ngày càng phổ biến.
III. THỰC TRẠNG VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU DO KHÔNG TUÂN THỦ QUY
ĐỊNH VỀ HÌNH THỨC VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ.
Hiện nay, quá trình thực hiện Bộ luật Dân sự, bên cạnh những mặt tích cực, còn có thực
trạng là các tranh chấp về giao dịch dân sự vẫn có xu hướng gia tăng, trong đó các giao dịch dân
sự vô hiệu do vi phạm về điều kiện có hiệu lực của giao dịch chiếm tỷ lệ không nhỏ, nhất là điều
kiện về mặt hình thức của giao dịch. Việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ
quy định về hình thức và giải quyết hậu quả pháp lý khi giao dịch dân sự vô hiệu vẫn là vấn đề
phức tạp nhất mà ngành Tòa án đang gặp phải. Có không ít vụ án đă được xét xử nhiều lần, với
nhiều cấp xét xử khác nhau (kể cả cấp xét xử cao nhất là Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao (TANDTC)) nhưng cũng vẫn còn những thắc mắc, vẫn có những quan điểm khác nhau,
gây ra nhiều tranh luận phức tạp. Sau đây là ví dụ cụ thể để thấy được vấn đề bức thiết trong
việc xét xử các vụ việc về giao dịch vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức.
Vụ việc : Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà.
* Các bên tham gia vụ việc:
- Nguyên đơn: Ông Thắng
- Bị đơn: Ông Nam

- Vụ việc xảy ra trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
* Tóm tắt nội dung vụ việc
- Nội dung vụ việc:
Ngày 15/08/1996, vợ chồng ông Nam lập hợp đồng chuyển nhượng 50 m2 đất cho ông Thắng
với giá 1 tỷ đồng, nhận trước 500 triệu. Hai bên cam kết đến ngày 30/04/1997 ông Thắng giao
đủ số vàng còn lại sẽ làm giấy tờ sang tên, chi phí giấy tờ mỗi bên chịu một nửa. Theo ông
8


Thắng thì ông đã giao cho ông Nam nhiều lần, tổng cộng là 960 triệu đồng là đủ, vì số đất thực
tế ông nhận là 48 m2.

Ngày 26/09/1996 ông Nam được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng 80 m2 đất. Nhưng ông
Nam không chịu làm thủ tục tách hộ nên ông Thắng khởi kiện đến tòa án, yêu cầu ông Nam
hoàn tất thủ tục sang nhượng theo cam kết.
Về phía ông Nam cho rằng, ông Thắng mới giao cho ông 500 triệu nên ông không làm thủ tục
tách hộ cho ông Thắng. Ông cho rằng ông Thắng đã vi phạm cam kết nên ông yêu cầu hủy hợp
đồng.
Tại bản án sơ thẩm số 6/DSST ngày 15/04/1998, tòa án nhân dân huyện Phủ Lý, tỉnh Hà Nam
quyết định: hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất giữa Nam– Thắng. Buộc ông Nam trả
cho ông Thắng 500 triệu đồng , buộc ông Thắng giao lại cho ông Nam 48 m2 đất.
Ngày 19/04/1998, ông Nam có đơn kháng cáo.
Tại bản án phúc thẩm số 264/DSPT ngày 03/09/1998, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam quyết định:
hủy toàn bộ hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nam và ông Thắng, ông Nam
trả lại ông Thắng 960 triệu đồng.
Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Thắng có nhiều đơn khiếu nại.
Tại quyết định số 55/KN-DS ngày 22/04/1999, Phó Chánh Án tòa án nhân dân tối cao kháng
nghị bản án phúc thẩm nêu trên.
Tại quyết định giám đốc thẩm số 31/GĐT-DS ngày 24/09/1999, tòa dân sự tòa án nhân dân tối
cao quyết định: hủy bản án phúc thẩm số 264/DSPT ngày 03/09/1998 của tòa án nhân dân tỉnh

Hà Nam xử việc tranh chấp hợp đồng sang nhượng đất giữa ông Nguyễn Ngọc Thắng với ông
Phan Văn Nam.
Giao hồ sơ vụ án về tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Tòa dân sự tòa án nhân dân tối cao nhận định việc ông Nam sang nhượng 48 m2 đất tại xã An
Đổ, huyện Phủ Lý cho ông Thắng là hoàn toàn tự nguyện. Trên thực tế, ông Thắng đã nhận đất
để canh tác. Do việc ông Nam không tách diện tích đất đã sang nhượng cho ông Thắng nên xảy
ra tranh chấp. Ông Thắng lại nói rằng đã trả đủ 960 triệu đồng nhưng chỉ có lần đầu ghi biên
nhận. Về phía ông Nam cho rằng ông Thắng mới giao 500 triệu đồng. Số còn lại ông Thắng
chưa thanh toán.
9


Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào lời khai của ông Thắng và các nhân chứng để khẳng định ông
Nam đã nhận đủ 960 triệu đồng là chưa có căn cứ chắc chắn. Tòa án cho rằng hai bên không tiến
hành làm thủ tục sang nhượng và xác định hợp đồng giữa Nam – Thắng là vô hiệu.
Vì vậy cần phải hủy bản án phúc thẩm để điều tra, đồng thời xác minh thêm về khoản tiền ông
Thắng đã giao cho ông Nam sau ngày 15/08/1996, nếu ông Thắng không chứng minh được đã
giao đủ tiền cho ông Nam thì ông Thắng thanh toán tiếp cho ông Nam tỷ lệ diện tích đất còn lại
theo thời giá.
* Nhận xét về cách giải quyết của Tòa án:
Trước hết, ta nhận thấy ngay, giao dịch giữa ông Nam và ông Thắng là vô hiệu. Bởi hai
ông mới chỉ làm hợp đồng viết tay mà không hề chứng thực tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Chính vì thế, Tòa nên căn cứ vào điều này trước tiên để tuyên giao dịch dân sự giữa hai
ông là vô hiệu và yêu cầu ông Thắng trả lại phần đất đã giao dịch cho ông Nam.
Về số tiền mà ông Thắng đã giao thì mới chỉ lập biên nhận một lần. Cụ thể là trong biên
nhận ông Nam đã nhận được 500 triệu đồng . Vì vậy, Tòa nên yêu cầu ông Nam trả lại 500 triệu
cho ông Thắng. Còn về số tiền 460 triệu đồng mà ông Thắng khai đã giao cho ông Nam sau đó
thì chưa đủ căn cứ. Vì vậy, nếu ông Thắng không có đủ bằng chứng chứng minh về số tiền này
thì coi như ông Thắng mới chỉ giao cho ông Nam 500 triệu đồng.
Xét thấy, trong giao dịch này, hai bên đều có lỗi vì không thực hiện đúng những quy định

bắt buộc về hình thức của giao dịch dân sự. chính vì thế, phần án phí sẽ do cả hai bên trả.
IV.KẾT LUẬN
Vụ việc nêu trên chỉ là một trong số rất nhiều các giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân
thủ quy định về hình thức. Thông qua đây, có thể thấy nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này
chính là do sự thiếu hiểu biết về pháp luật của một bộ phận lớn dân số Việt Nam. Điều này đã
dẫn đến những tranh chấp, kiện tụng không đáng có; làm cho trật tự xã hội không được ổn định.
Vì vậy, để hạn chế những tranh chấp đáng tiếc xảy ra, mỗi chúng ta cần chủ động hơn trong
công tác tìm hiểu pháp luật để có thể dễ dàng tham gia vào các giao dịch và đảm bảo cho những
giao dịch ấy không trái các với quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, Nhà nước có thể nâng cao
kiến thức pháp luật cho người dân thông qua tuyên truyền, giáo dục hay ban hành một văn bản
riêng quy định những loại giao dịch có quy định về hình thức nhằm giúp mọi người dễ tiếp cận
hơn,…
Đối với những người “cầm cân nảy mực”, để có thể đưa ra những bản án vừa hợp tình,
vừa hợp lý thì đòi hỏi phải nắm vững các quy định của pháp luật, vận dụng chúng một cách
10


khéo léo, chính xác; làm việc thật công tâm, đúng với tinh thần cao quý của một nhà làm luật.
Không những vậy, các nhà làm luật cần phải không ngừng nâng cao kiến thức cũng như nắm bắt
những điểm mới của luật pháp.
Là một sinh viên Khoa Luật, em nhận thấy mình phải thật sự cố gắng, không ngừng tìm
tòi, trau dồi kiến thức để trước hết trở thành một sinh viên giỏi và sau này trở thành một nhà làm
luật có ích cho xã hội.

11


12




×