Tải bản đầy đủ (.docx) (110 trang)

Luận văn thạc sỹ - Hoạt động sưu tầm hiện vật của bảo tàng Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.61 KB, 110 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SƯU TẦM HIỆN VẬT BẢO TÀNG VÀ
TỔNG QUAN BẢO TÀNG BẮC NINH................................................................9
1.1. Những vấn đề lý luận chung về hoạt động sưu tầm hiện vật bảo tàng.........9
1.1.1 Những khái niệm cơ bản..............................................................................9
1.1.2. Nội dung hoạt động sưu tầm hiện vật bảo tàng.............................................16
1.1.3. Vai trò của hoạt động sưu tầm hiện vật đối với hoạt động của bảo tàng
Bắc Ninh.............................................................................................................25
1.2. Tổng quan bảo tàng Bắc Ninh.........................................................................28
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển................................................................28
1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của bảo tàng............................................................30
1.2.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy..............................................................................31
1.2.4. Các hoạt động chuyên môn của bảo tàng Bắc Ninh..................................35
Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG SƯU TẦM HIỆN VẬT
CỦA BẢO TÀNG BẮC NINH...............................................................................43
2.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy thực hiện hoạt động sưu tầm.....................................43
2.1.1. Ban giám đốc.............................................................................................43
2.1.2. Phòng Sưu tầm hiện vật bảo tàng Bắc Ninh...............................................43
2.2. Công tác tổ chức hoạt động sưu tầm hiện vật bảo tàng Bắc Ninh..................44
2.2.1. Xây dựng kế hoạch và lập đề cương sưu tầm............................................44
2.2.2. Tổ chức các phương pháp sưu tầm.............................................................50
2.2.3. Huy động nguồn lực cho công tác sưu tầm................................................59
2.2.4. Tổ chức thẩm định, xét duyệt và bàn giao hiện vật...................................64
2.2.5. Đánh giá kết quả việc thực hiện kế hoạch sưu tầm....................................65
2.3. Ðánh giá chung.............................................................................................69
2.3.1. Ưu điểm.....................................................................................................69
2.3.2. Hạn chế.....................................................................................................71
2.3.3. Nguyên nhân.............................................................................................73
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2........................................................................................76



Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG SƯU TẦM HIỆN VẬT CỦA BẢO TÀNG BẮC NINH........................77
3.1.Phương hướng.................................................................................................77
3.1.1. Phương hướng chung................................................................................77
3.1.2. Phương hướng cụ thể.................................................................................79
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động sưu tầm hiện vật của bảo tàng
Bắc Ninh................................................................................................................. 80
3.2.1. Giải pháp về chuyên môn nghiệp vụ.........................................................80
3.2.2. Giải pháp về nguồn lực..............................................................................91
3.2.3. Đầu tư kinh phí cho các hoạt động sưu tầm hiện vật.................................95
3.2.4. Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hoặt động sưu tầm......................97
3.2.5. Ứng dụng khoa học công nghệ vào công tác Sưu tầm hiện vật................98
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3......................................................................................101
KẾT LUẬN..........................................................................................................102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO (DỰ KIẾN).......................................104


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bảo tàng là một thiết chế văn hóa có chức năng sưu tầm, nghiên cứu,
bảo quản, trưng bày và giới thiệu di sản văn hóa, bằng chứng vật chất về thiên
nhiên, con người, môi trường sống của con người nhằm phục vụ nhu cầu
nghiên cứu, học tập, tham quan và hưởng thụ văn hóa của công chúng. Bảo
tàng không chỉ là nơi lưu giữ tổng hợp các giá trị đa dạng của di sản, cũng là
nơi có điều kiện góp phần vào việc lưu giữ và giáo dục truyền thống cho các
thế hệ mai sau.
Như vậy, bảo tàng đóng vai trò rất quan trọng, không thể thay thế đối

với xã hội. Bảo tàng tỉnh lại là một thiết chế văn hóa riêng có của tỉnh mình
thông qua việc sử dụng nhiều loại hình công cụ thích hợp để quảng bá, tuyên
truyền và giáo dục thông qua các hoạt động của bảo tàng trong đó có hoạt
động sưu tầm hiện vật bảo là khâu hoạt động mở đầu quan trọng tạo tiền đề
vật chất cho toàn bộ hoạt động của bảo tàng, gắn liền với các khâu công tác
khác tạo thành một thể thống nhất, hoàn chỉnh. Hoạt động của công tác sưu
tầm thu thập, lựa chọn những tài liệu hiện vật gốc tiêu biểu, điển hình có giá
trị phản ánh đúng nội dung chủ đạo của bảo tàng nhằm kiện toàn các bộ sưu
tập, xây dựng kho cơ sở, đảm bảo cho bảo tàng ra đời, tồn tại và phát triển.
Thực tiễn hiện nay công tác sưu tầm phải nhìn trên phương diện mới: “động”
không chỉ ổn định với kho cơ sở khi bảo tàng ra đời, mà luôn thực hiện nhiệm
vụ bổ sung tài liệu hiện vật cho kho cơ sở; chỉnh lý, mở rộng, xây dựng nội
dung trưng bày và phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học. Quản lý có
hiệu quả các hoạt động của bảo tàng, chính là góp phần thực hiện tốt hơn nữa
công tác sưu tầm hiện vật để công tác giáo dục truyền thống, nâng cao dân trí,
khơi dậy niềm tự hào dân tộc, hướng tới những giá trị đích thực của chân –
thiện – mỹ, gìn giữ, bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH dân tộc trong quá
trình hội nhập quốc tế.


2

Bước vào thời kỳ hội nhập, tỉnh Bắc Ninh nói riêng và cả nước nói
chung đang đứng trước những cơ hội cùng thách thức mới, câu hỏi được đặt
ra là làm thế nào để gìn giữ, bảo tồn và phát huy những giá trị đặc trưng,
mang bản sắc văn hóa của tỉnh, vùng, miền của dân tộc, đồng thời xây dựng
hoàn thiện con người mới; khơi dậy truyền thống dân tộc trong mỗi người
dân? Đây là nhiệm vụ chung của toàn xã hội và cũng là nhiệm vụ mang tính
cấp thiết trong công tác quản lý của ngành bảo tồn – bảo tàng.
Bảo tàng Bắc Ninh là một thiết chế văn hóa cấp tỉnh trực thuộc Sở Văn

hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh. Bảo tàng được thành lập 24/4/1997.
Từ đó đến nay bảo tàng Bắc Ninh đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong
sự nghiệp bảo tòn và phát huy giá trị DSVH, lịch sử và tự nhiên của tỉnh. Để
làm được điều này thì hoạt động sưu tầm hiện vật bảo tàng Bắc Ninh đóng vai
trò quan trọng và góp một phần không nhỏ cho sự thành công này. Tuy nhiên
trên thực tế, vấn đề quản lý hoạt động của bảo tàng Bắc Ninh nói chung trong
đó có hoạt động sưu tầm hiện vật vẫn chưa thực sự đạt hiệu quả, vẫn còn
những hạn chế nhất định. Mặt khác, trong định hướng phát triển bảo tàng Bắc
Ninh phấn đấu trở thành trung tâm văn hóa, giáo dục của tỉnh Bắc Ninh.
Nhưng hiện nay, vẫn đang thiếu sức hấp dẫn, hiện vật trưng bày còn ít, thiếu
hiện vật tiêu biểu, trọng tâm. Vậy làm thế nào để bảo tàng Bắc Ninh trở thành
trung tâm văn hóa, giáo dục của tỉnh, là nơi gìn giữ, bảo tồn phát huy những
giá trị văn hóa đặc sắc của địa phương đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, học tập,
hưởng thụ văn hóa của nhân dân.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động sưu tầm hiện vật có ý
nghĩa lớn đối với các hoạt động của bảo tàng Bắc Ninh, học viên đã có dịp
khảo sát, tiếp cận, tìm hiểu thực tế về vấn đề này khi hợp tác làm việc tại bảo
tàng. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài “Hoạt động sưu tầm hiện vật của bảo
tàng Bắc Ninh” làm luận văn cao học chuyên ngành Quản lý văn hóa nhằm
làm rõ thực trạng hoạt động sưu tầm hiện vật của bảo tàng Bắc Ninh, chỉ ra


3

những mặt làm được, chưa làm được và tìm ra nguyên nhân, đồng thời đề
xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sưu tầm hiện vật cho
bảo tàng Bắc Ninh trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, học viên đã nghiên cứu, tìm hiểu và tiếp
cận một số tài liệu, công trình, báo cáo và các bài viết liên quan đến luận

văn:
Luật Di sản văn hóa năm 2001 được sửa đổi bổ sung năm 2009 của NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2009. Trong cuốn luật này đã dành toàn bộ
mục 3 đề cập đến khái niệm Bảo tàng, nhiệm vụ và quyền hạn, điều kiện
thành lập bảo tàng trong đó bao gồm bảo tàng quốc gia, bảo tàng chuyên
ngành, bảo tàng cấp tỉnh và bảo tàng ngoài công lập. [47]
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 156/2005/QĐ-TTg ngày
23/6/2005 phê duyệt Quy hoạch tổng thể hệ thống bảo tàng Việt Nam đến
năm 2020. Trong Quyết định này đã nêu rõ phương hướng chung cho sự phát
triển hệ thống bảo tàng Việt Nam kể cả cho bảo tàng tỉnh thành phố ở nước ta:
Tăng cường công tác sưu tầm, xây dựng các bộ sưu tập hiện vật phản ánh đặc
trưng văn hóa địa phương, cần giới thiệu các chủ đề trưng bày mang tính đặc
thù và tiêu biểu về văn hóa vật thể và phi vật thể của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam. Bảo tàng tỉnh, thành phố phải trở thành trung tâm sinh hoạt văn
hóa cộng đồng, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới kinh tế, xã hội địa
phương.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Huệ chủ biên giáo trình Lịch sử sự nghiệp
bảo tồn bảo tàng Việt Nam của trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội, năm 2005. Trong cuốn giáo trình này đã trình bày lịch sử
sự nghiệp bảo tồn bảo tàng Việt Nam đặc biệt ở chương hai đề cập một phần
về sự hình thành và phát triển của hệ thống bảo tàng tỉnh, thành phố trên
phạm vi cả nước từ 1954 đến năm 2003.


4

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Huệ chủ biên giáo trình “Cơ sở bảo tàng
học” của trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội năm
2008 gồm 5 chương đã hệ thống cơ bản về lý thuyết bảo tàng học. Đây là
cuốn giáo trình nói một cách đầy đủ về bảo tàng và các hoạt động nghiệp vụ

của bảo tàng là tài liệu nghiệp vụ hữu ích để cán bộ trong ngành nghiên cứu
tham khảo và vận dụng trong lĩnh vực công tác của mình. Đặc biệt từ trang
236-251 đã giới thiệu và phân tích về đặc điểm của loại hình bảo tàng địa
phương tỉnh thành phố (chức năng, nhiệm vụ, đặc trưng, nội dung trưng bày
và di sản văn hóa được bảo tồn và phát huy.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Huệ (2008) với đề tài nghiên cứu khoa học
cấp Bộ “Hiện trạng và giải pháp đổi mới hoạt động bảo tàng tỉnh, thành phố
vùng đồng bằng Bắc bộ”. Đề tài đã nghiệm thu và đạt loại xuất sắc, trong nội
dung của đề tài này có phần viết về thực trạng về một số bảo tàng tỉnh.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Huệ (2011) với Giáo trình “Sưu tầm
hiện vật bảo tàng”, giáo trình gồm 5 chương, cung cấp cho học viên, sinh
viên những kiến thức lý luận về công tác sưu tầm hiện vật bảo tàng và những
kỹ năng thực hành nghiệp vụ sưu tầm như: nghiên cứu xây dựng đề cương, dự
án, kế hoạch sưu tầm, tổ chức đi sưu tầm… Đây còn là tài liệu nghiệp vụ hữu
ích để cán bộ trong ngành nghiên cứu tham khảo và vận dụng vào trong công
tác bảo tồn phát huy di sản văn hóa dân tộc.
Nguyễn Trung Hiếu (2014) với “Bảo tàng Bắc Ninh trong phát triển du
lịch văn hóa tỉnh Bắc Ninh”, Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Văn hóa Du
lịch trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Nội dung chủ yếu là tìm hiểu về nguyên
nhân, sức hấp dẫn và những tồn tại của bảo tàng Bắc Ninh đối với khách du
lịch và đưa ra các giải pháp để phát triển hoạt động du lịch.
Công trình nghiên cứu khoa học cấp tỉnh bảo tàng Bắc Ninh năm 2011,
do bảo tàng thực hiện “Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa về truyền
thống hiếu học tỉnh Bắc Ninh, góp phần phát triển nguồn nhân lực phục vụ


5

công nghiệp hóa - hiện đại hóa”. Đề tài đề cập đến những giá trị của di sản
văn hóa về truyền thống hiếu học và khoa bảng; sự phân bố, giá trị lịch sử và

hiện trạng của các di sản văn hóa về truyền thống hiếu học và khoa bảng.
Nghiên cứu chi tiết và hệ thống hoá 1 cách đầy đủ nguồn tư liệu đồng thời
đánh giá về giá trị di sản văn hoá về truyền thống hiếu học và khoa bảng. Làm
cơ sở lý luận thực tiễn giúp chính quyền các cấp và các cơ quan về văn hoá
xây dựng và thực hiện chủ trương giải pháp nhằm phát huy giá trị di sản văn
hoá về truyền thống hiếu học và khoa bảng.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnhnăm 2015, “Tìm hiểu vai trò các vị
tổ nghề thủ công truyền thống tỉnh Bắc Ninh và nhiệm vụ bảo tồn, phát huy di
sản văn hóa về các vị tổ nghề trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
tỉnh Bắc Ninh”, đề tài khai thác làng nghề thủ công truyền thống, nhằm tập
hợp các nguồn tài liệu về lịch sử, vai trò của các vị tổ nghề thủ công truyền
thống tỉnh.Đánh giá thực trạng những giá trị di sản văn hóa, vai trò của các vị
tổ nghề thủ công truyền thống… Đề xuất giải pháp bảo tồn, phát huy các di
sản văn hóa trong các làng nghề.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh Bảo tàng Bắc Ninh năm 2016,
“Đình làng Bắc Ninh – giá trị lịch sử – văn hóa và vai trò của đình làng trong
sự nghiệp xây dựng nông thôn mới ở Bắc Ninh hiện nay” do Bảo tàng thực
hiện. Đề tài mang đến cái nhìn tổng quan về hệ thống đình làng tỉnh Bắc
Ninh, đặc biệt là giá trị, vị trí, vai trò, chức năng, ý nghĩa của đình làng trong
lịch sử, cũng như trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế hiện nay.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh Bảo tàng Bắc Ninh năm 2018,
“Di sản văn hóa tiêu biểu tỉnh Bắc Ninh - Giá trị, vai trò, ý nghĩa, tiềm
năng và việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Đề tài nghiên
cứu, khảo sát thực trạng tổng thể các di sản văn hóa vật thể (di tích, di vật,


6


cổ vật, bảo vật quốc gia ,...) và di sản văn hóa phi vật thể (nghề thủ công
truyền thống, lễ hội truyền thống, nghệ thuật trình diễn dân gian, tập quán
xã hội và tín ngưỡng,...) tiêu biểu trên địa bàn tỉnh.Đề xuất giải pháp bảo
tồn và phát huy tổng thể giá trị của các di sản văn hóa (vật thể và phi vật
thể) trong thời gian tới.
Bài viết “Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Tăng cường quản lý, bảo tồn,
phát huy giá trị các di sản văn hóa” đăng trên websibe , bài
viết nói về việc tăng cường công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị các di sản
văn hóa vật thể, phi vật thể trên địa bàn tỉnh, qua đó giúp người dân hiểu được vai trò,
giá trị của di sản, tiếp cận và thụ hưởng lợi ích tinh thần và vật chất, đồng thời phục
vụ ngày càng tốt hơn khách du lịch đến tham quan, nghiên cứu và học tập.
Bài viết Bảo tàng Bắc Ninh đẩy mạnh công tác nghiên cứu sưu tầm
hiện vật, bài viết này đăng trên websibe baotangbacninh.vn của tác giả Mạnh
Hà-Minh Hường nội dung đề cập tới việc đẩy mạnh công tác sưu tầm hiện vật
của bảo tàng Bắc Ninh có ý nghĩa đối với bảo tàng.
ThS Phan Thị An Ngọc với bài viết đăng trên Website Thế giới Di sản
“Bảo tàng Bắc Ninh bảo tồn hệ thống di sản văn hóa Hán Nôm”, bài viết giới
thiệu Bảo tàng Bắc Ninh nơi lưu trữ và bảo quản nguồn tư liệu Hán - Nôm rất
phong phú và đa dạng, gồm nhiều loại hình như thần tích, sắc phong, địa bạ, gia
phả, văn tế, văn cúng, văn bia, văn chuông, hoành phi, câu đối… Trong số những
loại hình di sản trên thì đáng chú ý nhất là hệ thống 64 bia đá hiện đang được
trưng bày tại khuôn viên của Bảo tàng. Những tấm bia này chứa đựng nhiều thông
tin quan trọng về lịch sử văn hóa mà thông qua đó các nhà nghiên cứu có thể hiểu
được về lịch sử hình thành một vùng đất, công lao của một số danh nhân đối với
lịch sử của dân tộc, phong tục tín ngưỡng của một cộng đồng dân cư.
Một số bài viết trên Website Bảo tàng Bắc Ninh giới thiệu về các hiện
vật, bộ sưu tập quý, các làng nghề thủ công, dòng họ khoa bảng… hiện đang
trưng bày và lưu giữ tại Bảo tàng.



7

Tổng quan tình hình nghiên cứu trên đây cho thấy, đến nay chưa có công
trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu về bảo tàng cũng như về hoạt động sưu tầm
hiện vật của Bảo tàng Bắc Ninh một cách đầy đủ, sâu sắc dưới góc độ quản lý
văn hóa. Vì vậy, trong quá trình thực hiện đề tài này, tác giả sẽ cố gắng tiếp thu
và kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, đồng thời vận
dụng một số nội dung phù hợp với quá trình nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
- Bước đầu đánh giá về kết quả sưu tầm hiện vật bảo tàng của bảo tàng
Bắc Ninh trong những năm qua.
- Trên cơ sở nghiên cứu đánh giá thực trạng hoạt động sưu tầm hiện vật
của bảo tàng Bắc Ninh đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động sưu tầm hiện vật cho bảo tàng trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý thuyết về khoa học quản lý, quản lý bảo tàng, về
các văn bản quy phạm pháp luật về Sưu tầm hiện vật bảo tàng.
- Nghiên cứu, đánh giá tổng quan hoạt động nghiệp vụ Sưu tầm hiện
vật của Bảo tàng Bắc Ninh.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động và công tác quản lý
hoạt động Sưu tầm hiện vật của Bảo tàng Bắc Ninh từ năm 2007 đến nay, bao
gồm nghiên cứu công tác quản lý hoạt động chuyên môn, quản lý các nguồn
lực, và công tác kiểm tra, khen thưởng…
- Đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác Sưu tầm
hiện vật của Bảo tàng Bắc Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động Sưu tầm hiện vật của Bảo tàng Bắc Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Hoạt động Sưu tầm hiện vật của Bảo tàng Bắc Ninh từ năm 2007 đến nay.
Năm 2007 là năm bảo tàng Bắc Ninh tách ra khỏi Ban quản lý di tích
Bắc Ninh, hoạt động độc lập.


8

5. Phương pháp nghiên cứu
- Tiếp cận phương pháp nghiên cứu liên ngành quản lý văn hóa, văn
hóa học và khoa học quản lý, quản lý bảo tàng.
- Phương pháp khảo sát thực tế hoạt động Sưu tầm hiện vật của Bảo
tàng Bắc Ninh.
- Phương pháp thống kê và phân loại; phương pháp tổng hợp và phân
tích; phương pháp điều tra xã hội học: quan sát, phỏng vấn, gặp gỡ cán bộ
lãnh đạo và cán bộ sưu tầm của bảo tàng.
6. Đóng góp của luận văn
- Kết quả luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về thực trạng hoạt
động Sưu tầm hiện vật của Bảo tàng Bắc Ninh từ năm 2007 đến nay. Phân
tích các ưu điểm, hạn chế và đề xuất các giải pháp mang tính thiết thực cho
công tác quản lý nghiệp vụ sưu tầm hiện vật Bảo tàng Bắc Ninh.
- Luận văn là tài liệu tham khảo bổ ích đối với cán bộ quản lý và cán bộ
chuyên môn về sưu tầm của các bảo tàng tỉnh Bắc Ninh và các bảo tàng cấp
tỉnh thành phố nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục.
Luận văn được kết cấu thành 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về Sưu tầm hiện vật bảo
tàng và tổng quan Bảo tàng Bắc Ninh
Chương 2: Thực trạng hoạt động Sưu tầm hiện vật của Bảo tàng
Bắc Ninh

Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động Sưu tầm hiện vật của Bảo tàng Bắc Ninh


9

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SƯU TẦM HIỆN VẬT BẢO TÀNG
VÀ TỔNG QUAN BẢO TÀNG BẮC NINH
1.1. Những vấn đề lý luận chung về hoạt động sưu tầm hiện vật
bảo tàng
1.1.1 Những khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm bảo tàng
Bảo tàng ra đời không phải là hoạt động ngẫu nhiên hay do ý muốn chủ
quan của cá nhân trong xã hội. Bảo tàng chỉ xuất hiện khi sự phát triển kinh tế,
văn hóa đạt đến một trình độ nhất định của lịch sử nhân loại, khi mà xã hội đã có
sự phân chia giai cấp và nhà nước hình thành. Bảo tàng luôn gắn liền với một
chế độ kinh tế - xã hội nhất định. Trên thế giới, bảo tàng đã ra đời, tồn tại và
phát triển cùng với xã hội con người cho đến nay đã trải qua các thời kì lịch
sử khác khau, đó là thời kì cổ đại, thời kì trung cổ, thời kì phục hưng, thế kỷ
XVIII – XIX và thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI.
Chạy theo chiều dài lịch sử trên đây có thể nhận thấy ngay từ thời kỳ cổ
trung đại, con người đã có ý thức biết sưu tầm thu thập và lưu giữ những tác
phẩm nghệ thuật, những di vật quý, những hiện vật có giá trị thẩm mỹ, có giá
trị lịch sử, văn hoá và cả các sưu tập mẫu vật có giá trị khoa học được lưu giữ
trong các “kho báu” hay trong các “phòng hiếu kỳ” (Kunscamera) để dần dần
hình thành các bảo tàng ở thế kỷ sau nhằm trưng bày giới thiệu các giá trị đó
cho muôn đời sau.
Nhưng trên thực tế, bảo tàng với nghĩa hiện đại đã phát triển ở Châu Âu
vào thế kỷ XVIII. Thuật ngữ bảo tàng “museum” được sử dụng lần đầu tiên ở

nước Anh, khi bảo tàng Ashmolean được khánh thành và mở cửa đón công
chúng. Từ đó đến nay trên thế giới bảo tàng đã ngày càng phát triển không
ngừng về số lượng và chất lượng với nhiều loại hình đa dạng, phong phú và


10

kiểu, loại bảo tàng khác nhau với một con số không nhỏ đó là 65000 bảo tàng.
[28, tr.88].
Điều đó có thể khẳng định bảo tàng là một hiện tượng của xã hội, ra đời,
tồn tại và phát triển do nhu cầu của xã hội nhằm đáp ứng những nhu cầu thực
tiễn của con người trong xã hội trong những thời kì lịch sử khác nhau và phục
vụ cho sự tiến bộ của xã hội.
Ở Việt Nam, hệ thống các bảo tàng được hình thành và phát triển trải qua
các giai đoạn lịch sử sau đây:
- Sự hình thành một số bảo tàng (do người Pháp xây dựng) trước Cách
mạng Tháng tám năm 1945.
- Bảo tàng Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám từ 1945 đến 1954.
- Bảo tàng Việt Nam thời kì 1954 – 1975.
- Bảo tàng Việt Nam từ 1975 đến nay.
Sự nghiệp bảo tàng Việt Nam trải qua hơn nửa thế kỷ đã không ngừng
phát triển về số lượng, đến nay có khoảng 153 bảo tàng, trong đó có bảo tàng
công lập là 123, bảo tàng ngoài công lập[19]. Hệ thống Bảo tàng Việt Nam
khá phong phú về loại hình, đa dạng về thể loại bao gồm các bảo tàng loại
hình lịch sử xã hội, loại hình khoa khọc tự nhiên, loại hình nghệ thuật lưu
niệm, v.v… Trong quá trình hoạt động, hệ thống bảo tàng Việt Nam đã và
đang góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo tồn di sản văn hoá dân tộc và
xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Qua các số liệu về bảo tàng trên thế giới và Việt Nam cho thấy vai trò, vị
trí của bảo tàng ngày càng phát triển không ngừng trong xã hội nói chung và

trong cơ quan văn hóa - khoa học - giáo dục nói riêng, đồng thời bảo tàng có
ảnh hưởng lớn đến công tác giáo dục và nâng cao dân trí trong xã hội.Vì vậy,
vấn đề nghiên cứu làm rõ khái niệm bảo tàng, nội dung, bản chất cùng phạm
vi hoạt động của bảo tàng trở thành một vấn đề quan trọng trong lý luận bảo
tàng học. Ở đây, tác giả xin trình bày một số khái niệm có nội dung phản ánh


11

khá đầy đủ về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, đặc trưng, chức năng và bản chất của
bảo tàng.
Trước hết là khái niệm mới nhất, gần đây nhất của ICOM (Hiệp hội Bảo tàng
quốc tế) được thông qua tại kỳ họp thứ 20 tại Seoul (Hàn Quốc) tháng 10/2004:
Bảo tàng là một thiết chế văn hóa phi lợi nhuận, hoạt động thường
xuyên, mở cửa đón công chúng đến xem, phục vụ cho xã hội và sự phát triển
của xã hội. Bảo tàng sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu, thông tin và trưng bày
các bằng chứng vật thể và phi vật thể về con người và môi trường của con
người vì mục đích nghiên cứu, giáo dục và thưởng thức. [28, tr.110]
Khái niệm trên đây của ICOM là một khái niệm chuẩn đã phán ánh được
đối tượng hoạt động của bảo tàng bao gồm cả di sản văn hoá vật thể và di sản
văn hoá phi vật thể về con người và môi trường xung quanh, đồng thời có bổ
sung mới vể chức năng cho bảo tàng đó là phục vụ công chúng, phục vụ cho
xã hội và sự phát triển của xã hội, không lấy lợi nhuận làm mục đích, từ đó
bảo tàng phải thực hiện được chức năng nghiên cứu, giáo dục và thưởng thức
của công chúng.
Từ khái niệm về bảo tàng của ICOM đã được nhiều quốc gia trên thế
giới nghiên cứu, vận dụng vào tình hình hoạt động thực tiễn sự nghiệp bảo
tàng của nước mình, trong đó có nước Nga. Các nhà bảo tàng học ở Nga đã
đưa ra khái niệm về bảo tàng như sau:
Bảo tàng là thể chế đa chức năng được hình thành một cách lịch sử của

ký ức xã hội, nhờ đó thực hiện được nhu cầu xã hội về tuyển chọn, bảo quản
và miêu tả nhóm đặc biệt các đối tượng văn hóa và tự nhiên được xã hội công
nhận là một giá trị kế truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác”. [28, tr.108]
Ở Việt Nam, kế thừa thành quả nghiên cứu của ICOM và các nước trên
thế giới, đồng thời từ kinh nghiệm thực tiễn hoạt động của sự nghiệp bảo tàng
hơn nửa thế kỷ qua, các nhà bảo tàng học Việt Nam đãđưa ra khái niệm về
bảo tàng, được ghi trong Luật DSVH:


12

Bảo tàng là một thiết chế văn hóa có chức năng sưu tầm, bảo quản,
nghiên cứu, trưng bày, giới thiệu DSVH, thông tin và các bằng chứng vật chất
về thiên nhiên, con người và môi trường sống của con người nhằm phục vụ
nhu cầu nghiên cứu, học tập, tham quan và hưởng thụ văn hóa của công
chúng”. [47, tr.66 - 67]
Nội dung của khái niệm này ngắn gọn đã phản ánh đầy đủ các hoạt động,
đối tượng, chức năng và nhiệm vụ của bảo tàng Việt Nam trong thời kì hội
nhập và phát triển.
Bảo tàng là một thiết chế văn hóa đặc thù, một cơ quan khoa học và giáo dục;
Đối tượng nghiên cứu, trưng bày của bảo tàng là những DSVH vật thể và
phi vật thể cùng môi trường xung quanh con người;
Mục đích của bảo tàng là phục vụ công chúng;
Các hoạt động của bảo tàng là nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản, trưng bày
giới thiệu các sưu tập hiện vật về lịch sử xã hội, tự nhiên cho công chúng;
Bảo tàng có nhiệm vụ tổ chức hoạt động dịch vụ, phục vụ khách tham
quan phù hợp với chức năng, nhiệm vụ bảo tàng.
Như vậy, bảo tàng là một thiết chế văn hóa tồn tại lâu dài, nó có lịch sử
hình thành và phát triển cùng với nhu cầu gìn giữ những DSVH, khi còn nhu
cầu tìm hiểu lịch sử, kinh nghiệm của quá khứ, tiếp thu những giá trị của

DSVH và nhu cầu giáo dục truyền thống thì bảo tàng còn tồn tại và phát triển.
Trong luận văn đề cập đến hoạt động của bảo tàng cấp tỉnh (Bắc Ninh),
vì vậy, tác giả luận văn xin trình bày thêm khái niệm bảo tàng tỉnh, thành phố
được ghi tại điều 47 của Luật di sản văn hóa: Bảo tàng cấp tỉnh là nơi bảo
quản và trưng bày các sưu tập có giá trị ở địa phương”. [47]
Bảo tàng tỉnh thành phố là một bộ phận của các tổ chức thiết chế văn hóa
để tạo ra đời sống văn hóa của mỗi địa phương. Do đó bảo tàng tỉnh thành
phố phải tiến hành sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, trưng bày những mẫu vật
thiên nhiên và di vật văn hóa – xã hội của địa phương nhằm giáo dục truyền
thống, nâng cao lòng tự hào dân tộc, lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu tổ


13

quốc XHCN cho nhân dân và vận động nhân dân ra sức thi đua hoàn thành tốt
mọi nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước.
Như vậy, bảo tàng địa phương có vai trò, vị trí quan trọng không những
bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa địa phương mà còn là trung tâm văn
hóa của cộng đồng góp phần rất lớn trong việc nghiên cứu và giáo dục phổ
biến kiến thức về mọi lĩnh vực ở địa phương.
1.1.1.2. Khái niệm hiện vật gốc, hiện vật bảo tàng
* Khái niệm hiện vật gốc
Nghiên cứu về hiện vật gốc cho đến nay đã có khá nhiều khái niệm được
đưa ra trong cuốn giáo trình Sưu tầm hiện vật bảo tàngdo PGS.TS. Nguyễn Thị
Huệ (chủ biên) đã tập hợp và trình bày như sau:
Trước tiên là các nhà bảo tàng học Xô viết (Liên xô cũ) định nghĩa “Hiện
vật gốc là nguồnsử liệu đầu tiên của tri thức, là đối tượng trực tiếp của nhận
thức cảm tính”[30, tr.15].
Nhà bảo tàng học người Đức – H.Knorr về định nghĩa hiện vật gốc: “Hiện
vật gốc là nguồn gốc hiểu biết đầu tiên”. [30, tr.15]

Ngài ra tác giả Straisse (Tiệp Khắc) đưa ra khải niệm: “Hiện vật gốc là
nguồn sử liệu gốc lấy ra từ thế giới xã hội và thiên nhiên thông qua việc xác
định khoa học, tu sửa, nhập vào sưu tập hiện vật bảo tàng”. [30, tr.15]
Các khái niệm nêu trên ngắn gọn nhưng đều khẳng định hiện vật gốc là
nguồn sử liệu, là những vật chứng chắc chắn nhất, là chứng nhân sinh động và
đích thực của lịc sử, nó chứng minh cho sự tồn tại của một hiện tượng tự nhiên,
một sự kiện lịch sử của tiến trình phát triển xã hội loài người.
* Hiện vật bảo tàng
Lịch sử hình thành và phát triển bảo tàng học trên thế giới đã chứng minh
rằng, bảo tàng ra đời là để phục vụ cho xã hội và sự phát triển của xã hội Bằng
các hoạt động đa dạng của mình, các bảo tàng đã và sẽ tạo ra những lợi ích chính
trị, văn hóa – xã hội, kinh tế. Đến nay, khái niệm hiện vật bảo tàng vẫn được


14

nhiều nhà bảo tàng học, các chuyên gia bảo tàng các nước trên thế giới nghiên
cứu.
Đầu tiên phải kể tới là hai Giáo sư Cộng hòa Dân chủ Đức và Liên Xô (cũ)
là V.Levưkin và K.G.kherbơst đã đưa ra khái niệm:
Hiện vật bảo tàng là hiện vật mang giá trị bảo tàng được lấy ra từ thế giới
đồ vật trong hiện thực khách quan, nó được sắp xếp vào các sưu tập bảo tàng để
tổ chức việc bảo quản và sử dụng thuận tiện, lâu dài. Hiện vật bảo tàng là hiện
vật mang thông tin xã hội hoặc thông tin khoa học, nó là nguồn sử liệu quan
trọng cung cấp những tri thức cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người cho
những ai tiếp cận với nó. Hiện vật bảo tàng nào cũng chứa đựng một giá trị lịch
sử văn hóa nhất định, vì thế nó là một bộ phận của di sản văn hóa dân tộc”. [28,
tr.151.152]
Trong cuốn “Nghiên cứu nguồn sử liệu hiện vật bảo tàng” tác giả Nguyễn
Thị Huệ đã đưa ra khái niệm:

Hiện vật bảo tàng là những hiện vật gốc mang giá trị và thuộc tính của hiện
vật bảo tàng, có hồ sơ khoa học, pháp lý kèm theo, phù hợp với nội dung và loại
hình của bảo tàng, chúng được gìn giữ bảo quản lâu dài để phục vụ cho những
hoạt động và chức năng xã hội của bảo tàng. [26, tr.26]
Từ các nghiên cứu của các nhà bảo tàng học trên thế giới, cùng với các kết
quả nghiên cứu, kinh nghiệm thực tiễn hoạt động của bảo tàng Việt Nam trong
hơn nửa thế kỷ qua các nhà bảo tàng học Việt Nam cũng đưa ra khái niệm về
hiện vật bảo tàng được ghi tại điều 3 mục 1 của “Quy chế kiểm kê hiện vật bảo
tàng” ban hành ngày 15 tháng 9 năm 2006:
Hiện vật bảo tàng là di sản văn hóa: di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia và các
tư liệu về di sản văn hóa phi vật thể đã được vật thể hóa, các mẫu vật tự nhiên,
thuộc đối tượng nghiên cứu, sưu tầm, trưng bày, giới thiệu phù hợp với chức
năng nhiệm vụ và loại hình bảo tàng. [13]
Để đảm bảo hiện vật gốc có giá trị bảo tàng và ý nghĩa khoa học, thì hiện


15

vật phải có đầy đủ các tài liệu ghi chép đầy đủ, chính xác đảm bảo tính khoa học
pháp lý kèm theo.
Tuy nhiên cần chú ý, các đối tượng nghiên cứu, sưu tầm của mỗi bảo tàng
tùy thuộc vào nhiệm vụ, nội dung hoạt động và loại hình của bảo tàng chứ không
phải bảo tàng nào cũng sưu tầm, trưng bày các loại hiện vật nói trên, như vậy
mới tạo được nét riêng của bảo tàng.
1.1.1.3. Khái niệm sưu tầm hiện vật bảo tàng
Thuật ngữ “Sưu tầm” được phân tích là sự tìm kiếm, thu thập một cách có
hệ thống, có mục đích.
Đối với các bảo tàng ở tất cả các loại hình khác nhau, công tác sưu tầm
hiện vật bảo tàng là khâu hoạt động mở đầu quan trọng tạo “tiền đề vật chất”
cho toàn bộ hoạt động của bảo tàng. Trong bảo tàng nếu không có hiện vật

gốc, sưu tập hiện vật gốc mang giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học thì không có
hoạt động bảo tàng. Những hiện vật gốc mang giá trị bảo tàng được bảo tàng
tổ chức sưu tầm, thu thập về bảo tàng theo các phương pháp và nguyên tắc
của bảo tàng học.
Trong cuốn Cơ sảo bảo tàng học của Trung Quốc các tác giả đã viết: “Sưu
tầm hiện vật là công tác nghiệp vụ cơ bản mà bảo tàng căn cứ vào yêu cầu, tính
chất và đặc điểm của mình thông qua mọi con đường để không ngừng bổ sung
các văn vật hoặc tiêu bản một cách có mục đích” [46, tr.48].
Trong cuốn Sưu tầm hiện vật bảo tàng của trường Đại học Văn hóa Hà Nội,
tác giả Nguyễn Thị Huệ đã biên soạn, nghiên cứu và đưa ra khái niệm như sau:
“Công tác sưu tầm hiện vật bảo tàng là việc nghiên cứu, phát hiện, lựa chọn và
thu thập các hiện vật gốc, mang ý nghĩa, giá trị bảo tàng phản ánh về lịch sử tự
nhiên, lịch sử xã hội, về con người và môi trường tồn tại theo phương pháp khoa
học tùy theo nội dung và loại hình của bảo tàng và công tác bổ sung thường
xuyên cho kho cơ sở của bảo tàng”. [30, tr.23]
1.1.2. Nội dung hoạt động sưu tầm hiện vật bảo tàng


16

1.1.2.1. Xây dựng kế hoạch và đề cương sưu tầm hiện vật
* Xây dựng kế hoạch
Đối với hoạt động sưu tầm hiện vật bảo tàng thì “Kế hoạch sưu tầm được
hiểu là chương trình hoạt động sưu tầm hiện vật bảo tàng (có thể ngắn hạn hoặc
dài hạn) đã được nghiên cứu sắp đặt trước và thực hiện trong một thời gian
nhất định nhằm phục vụ cho các chuyên môn khoa học của bảo tàng”. [ 30,
tr.59]
Nhằm đáp ứng các nhu cầu tham quan, nghiên cứu của công chúng, bảo
tàng không ngừng nâng cao, không ngừng tiếp tục công tác sưu tầm tài liệu hiện
vật bổ sung cho kho cơ sở, phục vụ cho công tác trưng bày, nghiên cứu khoa học

trong và ngoài bảo tàng. Kế hoạch sưu tầm kết hợp chặt chẽ với công tác nghiên
cứu khoa học, công tác trưng bày và kiểm kê kho cơ sở. Các cán bộ bảo tàng
phải nắm vững được thành phần kho cơ sở, tìm hiểu hiện trạng hiện vật có trong
kho, bên cạnh đó cũng cần tiến hành nghiên cứu đề cương, kế hoạch trưng bày
và các chủ đề, chuyên đề đang trưng bày, nghiên cứu các bộ sưu tập hiện vật…
để lập kế hoạch sưu tầm hiện vật cho phù hợp với nội dung của bảo tàng.
Kế hoạch sưu tầm dài hạn gắn liền với hoạt động và định hướng phát triển
của Bảo tàng, trải qua một quá trình nghiên cứu khoa học dựa trên cơ sở những
hoạt động chuyên môn phù hợp với nội dung và loại hình của bảo tàng và được
Ban Giám đốc phê duyệt. Kế hoạch dài hạn chính là những dự án cho bảo tàng
thực hiện trong một thời gian dài từ năm năm, mười năm hoặc thậm chí lâu
hơn. Một đề tài kế hoạch dài hạn của bảo tàng tập trung vào những vấn đề như
sau:
+ Đề tài sưu tầm
+ Địa điểm sưu tầm
+ Đối tượng sưu tầm
+ Nội dung, phương thức và địa bàn sưu tầm
+ Thời gian tiến hành


17

+ Kinh phí sưu tầm
+ Trang thiết bị sưu tầm
+ Cán bộ thực hiện sưu tầm [ 30, tr.63]
Dựa trên cơ sở của bản Kế hoạch sưu tầm dài hạn, Bảo tàng đặt ra các bản
Kế hoạch sưu tầm ngắn hạn (kế hoạch thường xuyên) cho từng năm, từng quý
hoặc từng tháng với những đề tài cụ thể hoặc chuyên đề nghiên cứu trong bảo
tàng. Từ đó mà khoanh vùng cụ thể từng địa bàn sưu tầm, thành phần đoàn tham
gia, dựa vào việc nghiên cứu kho cơ sở, nghiên cứu trưng bày và các loại sách

báo tài liệu liên quan tới cuộc khảo sát sưu tầm. Nội dung cụ thể của bản kế
hoạch sưu tầm ngắn hạn về cơ bản vẫn thể hiện những vấn đề trong bản kế
hoạch sưu tầm dài hạn như: mục đích, yêu cầu, thời gian, địa điểm sưu tầm…
nhưng cụ thể hơn, chi tiết hơn đối với một đề tài sưu tầm cụ thể tại một địa bàn
cụ thể. Trong quá trình đi thực tế sưu tầm có trường hợp những điều dự kiến
không tìm được mà lại thu thập được những tài liệu, hiện vật không có trong kế
hoạch thì cũng cần phải hết sức linh hoạt trong việc chọn lựa đưa hiện vật về bảo
tàng. Đồng thời tùy từng đối tượng mà có phương pháp sưu tầm cho thích hợp.
Bản kế hoạch ngắn hạn hay dài hạn đều mang tính khoa học bởi đều phải
được nghiên cứu kỹ càng, thống nhất ý kiến trong đoàn sưu tầm và được Ban
Giám đốc thông qua. Chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nếu coi bản kế
hoạch dài hạn là một dự án thì kế hoạch ngắn hạn là một vấn đề cụ thể trong đó
nêu chi tiết công việc cần làm và dự kiến các tài liệu, hiện vật cần sưu tầm.
* Lập đề cương sưu tầm
Thuật ngữ “Đề cương” được ghi trong từ điển Tiếng việt: là chỉ việc lập
bản ghi chép tóm tắt những điểm cốt yếu nhất để theo đó mà nghiên cứu triển
khai, thực hiện và phát triển ra. [30, tr.60]
Trong cuốn giáo trình Sưu tầm hiện vật bảo tàng tác giả Nguyễn Thị Huệ
đã nghiên cứu và đưa ra khái niệm: “Đề cương sưu tầm là bản đề cương được
ghi chép những điểm cốt yếu nhất về chủ đề sưu tầm cụ thể, trên cơ sở đó cán bộ
sưu tầm nghiên cứu thực hiện tại thực địa”. [30, tr.61]


18

Trong Thông tư số 11/2013/TT-BVHTTDL, Quy định về sưu tầm hiện vật
của bảo tàng công lập có nêu “Đề cương sưu tầm hiện vật là văn bản thể hiện
những vấn đề chủ yếu về mục đích, yêu cầu, phạm vi, đối tượng dự kiến sưu tầm,
thời gian thực hiện và những vấn đề khác có liên quan đến việc triển khai sưu
tầm hiện vật cho bảo tàng”. [16]

Như vậy, đề cương sưu tầm là văn bản điểm cốt yếu nhất ghi lại chủ đề sưu
tầm cụ thể chi tiết mục đích, yêu cầu, phạm vi, đối tượng… cần được sưu tầm từ
đó để cán bộ sưu tầm triển khai thực hiện một cách có hiệu quả.
1.1.2.2. Các phương pháp sưu tầm
Trong cuốn từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên đã giải thích thuật
ngữ “Phương pháp” như sau: Phương pháp là hệ thống các cách sử dụng để
tiến hành một hoạt động nào đó. Quá trình thực hiện đó do đối tượng quy định.
[30, tr.88]
Trong các hoạt động của bảo tàng như nghiên cứu sưu tầm, kiểm kê bảo
quản, trưng bày và giáo dục…đều sử dụng thuật ngữ “phương pháp” để chỉ một
hệ thống những cách thức được áp dụng cụ thể trong lĩnh vực hoạt động của
mình như phương thức nghiên cứu trong bảo tàng.
Nghiên cứu về phương pháp sưu tầm hiện vật bảo tàng, tác giả Nguyễn Thị
Huệ đã viết trong giáo trình Sưu tầm hiện vật như sau:
Phương pháp sưu tầm của bảo tàng là một hệ thống những cách thức (các
phương thức) được bảo tàng sử dụng nhằm phát hiện, nghiên cứu, lựa chọn
thu thập các di sản văn hóa vật chất và di sản văn hóa phi vật thể có giá trị
lịch sử - văn hóa – khoa học phù hợp với nội dung, loại hình của bảo tàng.
[30, tr.88-89]
Hiện nay, mỗi bảo tàng đều được phân loại. Chúng có nội dung và loại hình
khác nhau nên đã sử dụng các phương pháp sưu tầm khác nhau cho phù hợp với
đối tượng sưu tầm của bảo tàng mình. Theo Thông tư số 11/2013/TT-BVHTTDL
đã quy định các phương pháp sưu tầm cơ bản cho bảo tàng gồm:


19

- Thăm dò, khai quật khảo cổ hoặc thu thập hiện vật tại thực địa:
Tổ chức điều tra, khảo sát, đánh giá trữ lượng hiện vật tại địa điểm dự kiến
khai quật khảo cổ. Đây là phương pháp quan trọng và là một trong những hoạt

động nghiên cứu thực sự chứ không đơn thuần chỉ là thu thập hiện vật, di vật
khảo cổ về cho bảo tàng.
Đối với các bảo tàng địa phương nếu không trực tiếp khai quật di chỉ khảo
cổ ở địa phương mình thì có thể thu nhận hiện vật, di vật khảo cổ của các cơ
quan nghiên cứu khảo cổ học để phục vụ mục đích và các nhiệm vụ bảo tàng, là
bảo tồn và phát huy giá trị của di sản khảo cổ. Vì vậy các bảo tàng này cần phải
quan hệ chặt chẽ với các cơ quan chuyên ngành đó.
Những hiện vật, di vật khảo cổ được thu nhận về bảo tàng phải được ghi
chép đầy đủ về nôi dung và hình thức theo đúng yêu cầu khoa học của bảo tàng
và làm các thủ tục cần thiết giữa bảo tàng với cán bộ khai quật khảo cổ.
- Mua hiện vật của tổ chức cá nhân cần được thực hiện theo các bước sau:
Tổ chức điều tra, khảo sát, thu thập thông tin dự kiến mua; Tiến hành
thương thảo với chủ sở hữu hiện vật về giá bán hiện vật; Lập danh sách hiện vật
dự kiến sưu tầm theo Mẫu quy định tại Thông tư số 11/2013/TT-BVHTTDL;
Trình Hội đồng khoa học của bảo tàng hoặc Hội đồng thẩm định hiện vật để lựu
chọn hiện vật có đủ tiêu chí quy định. [16]
Sau khi tiến hành xong các thủ tục cơ bản thống nhất với chủ sở hữu hiện
vật tiến hành Ký hợp đồng mua bán hiện vật giữa bảo tàng và chủ sở hữu hiện
vật theo mẫu quy định; Tiếp nhận tài liệu, hiện vật có liên quan đến nguồn gốc
hiện vật và bản quyền đối với hiện vật (nếu có) từ chủ sở hữu hiện vật. Lập biên
bản giao, nhận hiện vật theo mẫu quy định; Hoàn thiện việc thanh toán, quyết
toán với chủ sở hữu hiện vật theo quy định của pháp luaath về tài chính.[16]
- Tiếp nhận hiện vật từ tổ chức, cá nhân hiến tặng hoặc chuyển giao được
thự hiện theo các bước sau:
Tổ chức khảo sát, nghiên cứu, thu thập thông tin của tổ chức, cá nhân có dự
định hiến tặng hoặc chuyển giao hiện vật cho bảo tàng; Lập danh sách hiện vật


20


dự kiến sưu tầm theo mẫu quy định; Hội đồng khoa học tổ chức xem xét, lựa
chọn hiện vật có đủ tiêu chí; Lập kế hoạch tiếp nhận hiện vật được hiến tặng
hoặc chuyển giao trình Giám đốc bảo tàng hoặc cấp có thẩm quyền xem xét,
quyết định; Tiếp nhận tài liệu, hiện vật có liên quan đến nguồn gốc hiện vật,
quyền sở hữu và bản quyền đối với hiện vật (nếu có) từ chủ sở hữu hiện vật. Lập
biên bản giao, nhận hiện vật theo mẫu quy định. Thực hiện việc khen thưởng đối
với tổ chức, cá nhân đã hiến tặng hoặc chuyển giao hiện vật cho bảo tàng theo
quy định của pháp luật về di sản văn hóa, pháp luật tài chính về thi đua khen
thưởng. [16]
- Các phương thức khác.
+ Trao đổi hiện vật giữa các bảo tàng: được thực hiện theo nguyên tắc tự
nguyện, tự thỏa thuận, được sự đồng thuận của người đứng đầu cơ quan, đơn vị
chủ quản bảo tàng và tuân thủ quy định hiện hành về quản lý về tài sản nhà
nước. Thực hiện tiếp nhận hiện vật theo quy định tại điều 9 Thông tư
11/2013/TT-BVHTTDL. [16]
+ Mua hiện vật từ các phiên đấu giá thực hiện theo quy định về việc mua
hiện vật cho bảo tàng được quy định tại Thông tư 11/2013/TT-BVHTTDL.
+ Sưu tầm hiện vật thông qua mạng cộng tác viên. Đây là phương pháp khá
phổ biến, nguồn hiện vật được tiếp nhận thông qua hình thức này khá phong
phú. Do đó, mỗi bảo tàng cần phỉ phát huy tính ưu việt của phương pháp này,
phải tuyên truyền, phải trang bị cả về lý luận và thực tiễn nghiệp vụ cho đội ngũ
cộng tác viên để họ có thể tìm kiếm, lựa chọn và thu thập được những hiện vật
gốc tiêu biểu có giá trị phù hợp với nội dung của bảo tàng và đáp ứng được mục
đích, yêu cầu của bảo tàng. Khi tiếp nhận hiện vật cán bộ bảo tàng cần phải xác
minh lại nguồn gốc, lai lịch, nghiên cứu nội dung ý nghĩa của hiện vật.
Tóm lại, có nhiều phương pháp và hình thức khác nhau để sưu tầm hiện vật
cho bảo tàng. Mỗi một phương pháp hình thức sưu tầm đều có những mặt mạnh
và hạn chế nhất định. Vì vậy, để làm tốt công tác sưu tầm, cán bộ abor tàng phải



21

biết khai thác triệt để những yếu tố tích cực của mỗi phương pháp và hình thức
sưu tầm. Do đó trước khi tổ chức sưu tầm, bảo tàng phải dựa vào nội dung, loại
hình, tính chất của mình để lựa chọn các phương pháp sưu tầm phù hợp với đối
tượng sưu tầm.
1.1.2.3. Huy động các nguồn lực cho công tác sưu tầm
Để bảo đảm công tác sưu tầm hiện vật hiệu quả thì việc huy động các
nguồn lực cho công tác này đóng vai trò quan trọng quyết định đến hiệu quả
công tác sưu tầm: nguồn nhân lực, nguồn kinh phí, Cơ sở vật chất - trang thiết bị
kỹ thuật cấp cho hoạt động sưu tầm.
1. Nguồn nhân lực
Ngày nay, hoạt động sưu tầm hiện vật cho bảo tàng đang ngày càng đòi hỏi
cao về số lượng, chất lượng, khoa học cho nên đòi hỏi nguồn nhân lực cho hoạt
động này cũng phải tương thích. Sự tồn tại và phát triển của bảo tàng phụ thuộc
rất lớn vào kết quả sưu tầm hiện vật. Vì vậy việc quản lý, sử dụng, khai thác tiềm
năng mọi nguồn lực, trong đó nguồn nhân lực cho hoạt động sưu tầm hiện vật
mang tính chất quyết định.
Cán bộ làm công tác sưu tầm phải là những cán bộ được đào tạo có kiến
thức lý luận chung và những kiến thức chuyên môn trong phạm vi của ngành
khoa học cụ thể, mặt khác cán bộ sưu tầm phải được trang bị phương pháp luận
nghiên cứu, phương pháp công tác và khoa học kỹ thuật như phương pháp khảo
cổ học, phương pháp điền dã dân tộc học… Cán bộ trẻ tuổi phải nắm vững việc
sử dụng kỹ thuật để áp dụng vào công tác sưu tầm hiện vật.
Trong Bộ luật các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp của Hội đồng bảo tàng
thế giới (ICOM) đã khẳng định:
Cán bộ bảo tàng nói chung phải có trình độ học vấn, phải được đào tạo
chuyên môn và kỹ năng phù hợp để hoàn thành vai trò quan trọng của mình
trong hoạt động tại bảo tàng cũng như trong quá trình sưu tầm, chăm sóc tu bổ
các di sản văn hóa. [30, tr.53]



22

Cán bộ làm công tác sưu tầm hiện vật phải có đạo đức nghề nghiệp phải giữ
vững cương vị, nghiêm chỉnh chấp hành chức trách của mình, hoàn thành nhiệm
vụ được giao. Phải đi sâu nghiên cứu, mạnh dạn sáng tạo cái mới. Trong quan hệ
với đồng nghiệp phải chân thành, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau. Cán bộ bảo tàng
nói chung và đặc biệt là cán bộ làm công tác sưu tầm hiện vật nói riêng cần nhận
thức và tránh việc biến hiện vật bảo tàng của công thành của riêng, dùng hiện vật
hiện vật bảo tàng làm quà tặng cho bất cứ ai, không được đánh tráo, lấy cắp
những di vật văn hóa…
Việc huy động nguồn nhân lực cho hoạt động sưu tầm hiện vật còn phụ
thuộc vào chủ đề, đối tượng sưu tầm để có sự điều chỉnh, bố trí cán bộ cho phù
hợp. Trong trường hợp cần thiếtcó thể huy động nguồn nhân lực từ các phòng
chuyên môn trong bảo tàng như cán bộ phòng Kiểm kê bảo quản, phòng Trưng
bày Thuyết minh; hay là cần sự vào cuộc của các chuyên gia am hiểu về các lĩnh
vực như lịch sử tự nhiên, khoa học tự nhiên, khảo cổ học…. Trong trường hợp
đặc biệt có thể huy động cả quần chúng nhân dân địa phươngcùng tham gia vào
đợt sưu tầm hiện vật.
Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cho đất nước nói chung, cho hệ
thống Bảo tàng Việt Nam nói riêng là một vấn đề lớn, có nghĩa vô cùng quan
trọng và cấp thiết. Trong sự nghiệp phát triển bảo tàng, việc quản lý và sử dụng
nguồn nhân lực là một nhiệm vụ trọng tâm cả hiện tại và tương lai, nhất là trong
xu thế hội nhập toàn cầu với sự phát triển mạnh mẽ của các bảo tàng trên thế giới
và khu vực hiện nay.
2. Nguồn Tài chính
Hiện nay, phần lớn các nước trên thế giới đều xếp bảo tàng là đơn vị sự
nghiệp có tính chất công ích hoặc đơn vị sự nghiệp có thu. Bởi vậy, các bảo tàng
phải áp dụng quản lý chặt chẽ tài chính của đơn vị mình theo các quy định của

Luật tài chính. Đối với một bảo tàng, toàn bộ quá trình công tác tài vụ phải bắt
đầu từ việc lập ngân sách của đơn vị hoặc lập kế hoạch, dự toán và xoay quanh


23

quá trình lĩnh, nộp, trả lại… giám sát nguồn kinh phí được cấp để thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình.
Nguồn kinh phí sưu tầm hiện vật bao gồm: Ngân sách nhà nước; Nguồn
vốn viện trợ, tài trợ của tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước; Các nguồn kinh
phí hợp pháp khác theo quy định của pháp luật được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cho phép sử dụng để sưu tầm hiện vật. [16]
Nguồn tài chính là mẫu chốt cho mọi hoạt động trong đó có hoạt động sưu
tầm. Việc huy động tài chính cho hoạt động sưu tầm có vai trò rất lớn trong việc
triển khai sưu tầm. Những năm qua, cơ chế chính sách chưa được mở rộng cho
bảo tàng, kinh phí được cấp hàng năm cho các bảo tàng hoạt động là rất ít đặc
biệt là các bảo tàng tỉnh thành phố. Các bảo tàng phải huy động nguồn tài chính
bằng hình thức xã hội hóa hoạt động sưu tầm. Đây không phải là một biện pháp
giải quyết tình thế mà nó là chủ trương hoạt động lâu dài. Việc xã hội hóa hoạt
động sưu tầm này đòi hỏi cán bộ phải năng động, sáng tạo, không ỷ lại trông chờ
vào nguồn vốn của nhà nước mà phải phát huy nội lực, nắm bắt được nhu cầu
của xã hội để định hướng phát triển cho bảo tàng mình.
Việc huy động nguồn lực tài chính cho hoạt động bảo tàng nói chung và
cho hoạt động sưu tầm hiện vật bảo tàng nói riêng cần được thực hiện và phải có
kế hoạch và phương án thích hợp. Làm thế nào để các đơn vị, cá nhân, tổ chức…
hỗ trợ nguồn tài chính cho hoạt động của bảo tàng.
3. Cơ sở vật chất -Trang thiết bị kỹ thuật
Trong hoạt động sưu tầm hiện vật, cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật gồm có
phòng làm việc cho cán bộ, các trang thiết bị như bàn ghế, tủ làm việc, máy móc
(máy tính, máy photo, scan), sổ sáchvà một số trang bị cần thiết khi đi sưu tầm như:

máy ảnh, máy ghi âm, máy quay… Cơ sở vật chất là một trong ba yếu tố quan trọng
trong công tác sưu tầm và có ảnh hưởng trực tiếp đến thành quả của hoạt động này.
Việc trang bị cơ sở vật chất – trang thiết bị kỹ thuật cho hoạt động sưu tầm
sẽ góp phần rất lớn trong việc nâng cao hiệu quả chất lượng sưu tầm hiện vật.


×