Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

CƠ sở lý LUẬN và THỰC TIỄN của CÔNG tác QUẢN lý tài CHÍNH các đề tài NGHIÊN cứu cơ bản DO QUỸ KHOA học CÔNG NGHỆ tài TRỢ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.73 KB, 48 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN CỦA CÔNG TÁC QUẢN
LÝ TÀI CHÍNH CÁC ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU CƠ BẢN DO QUỸ
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TÀI
TRỢ


- Cơ sở lý luận
Cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về công
tác quản lý tài chính như sau:
Tạ Minh Hùng , 2014. Giải pháp tài chính phát triển
khoa học - công nghệ trong các công ty Trách nhiệm hữu hạn
một thành viên ở Việt Nam. Luận án Tiến sĩ. Học Viện tài
chính.
Bản luận án Tiến sỹ đã khẳng định tầm quan trọng trong
việc quản lý tài chính, đầu tư cho Khoa học công nghệ trong
sự phát triển, sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia.
Nguyễn Tấn Lượng , 2011. Hoàn thiện quản lý tài chính
tại các trường đại học công lập tự chủ tài chính trên địa bàn
Tp. HCM. Luận văn cao học. Trường đại học Kinh tế Tp.
HCM.
Nguyên Thế Ích ,2011. Hoàn thiện tổ chức công tác kế
toán của Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia.
Luận văn cao học. Học viện Tài chính
Các luận văn đã phân tích thực trạng quản lý tài chính tại
các trường đại học công lập và hoàn thiện công tác quản lý tài
chính. Tuy nhiên dữ liệu từ năm 2011 nên không được cập
nhật. Hiện nay đã có các văn bản pháp quy mới mà hệ thống
quản lý kế toán vẫn chưa được cập nhật bổ sung.



Tạ Bá Hưng , 2014. Khoa học và công nghệ phục vụ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững. Cục
Thông tin KHCN - Bộ KHCN
Lê Xuân Định, 2014. Khoa học công nghệ Việt Nam.
Cục Thông tin KHCN - Bộ KHCN
Lê Thị Thanh Huyền, 2012. Sử dụng công cụ kế toán,
kiểm toán trong việc quản lý tài chính ở các cơ quan nhà
nước, đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ Tài chính. Nxb Học viện Tài
chính
Các cuốn sách đã đưa ra và phân tích cụ thể các bước
trong quy trình quản lý tài chính trong hoạt động khoa học và
công nghệ.
Ngô Thế Chi, 2011. Văn bản pháp lý đầy đủ cho việc
hình thành quản lý sử dụng Quỹ phát triển KH&CN trong
doanh nghiệp. Tạp chí nghiên cứu tài chính kế toán số 9
Nguyễn Hồng Sơn , 2012. Cơ chế tài chính cho hoạt
động khoa học và công nghệ ở Việt Nam: Một số hạn chế và
giải pháp hoàn thiện. Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính
trị thế giới.


Nguyễn Quang Thành , 2016. Đổi mới chính sách tài
chính với hoạt động khoa học công nghệ: Thực trạng và một
số kiến nghị. Tạp chí Tài chính số tháng 10
Nguyễn Duy Trung ,2015. Cơ chế tài chính cho khoa
học và công nghệ: Những đổi mới căn bản. Viện Chiến lược
và Chính sách Khoa học và công nghệ số tháng 5.
Hồ Tú Bảo. Tổ chức và quản lý đề tài nghiên cứu khoa
học ở Nhật. Viện khoa học công nghệ Việt Nam

Các bài nghiên cứu trao đổi nêu trên tập trung chủ yếu
vào phân tích cơ chế tài chính trong hoạt động khoa học công
nghệ, chỉ rõ những ưu nhược nhiệm trong cơ chế tài chính và
đưa ra những giải pháp tài chính cho phát triển khoa học công
nghệ. Ngoài ra, các bài viết cũng đã phân tích được một số
điểm mới của các văn bản quản lý tài chính đối với các đề tài
nghiên cứu cơ bản ra đời từ năm 2014.
Hầu hết các công trình nghiên cứu và các văn bản hướng
dẫn đã trực tiếp phân tích và gián tiếp đánh giá phần nào thực
trạng công tác quản lý tài chính, những nguyên nhân dẫn đến
tình trạng quản lý tài chính chưa đạt hiệu quả caovà những
giải pháp nhằm đổi mới cơ chế tài chính đối với nghiên cứu


khoa học nói riêng và khoa học công nghệ nói chung. Các báo
cáo về các Quỹ đã trình bày được quy trình xét chọn nghiệm
thu các đề tài, cách thức quản lý tài chính và các phương pháp
đầu tư tài chính vào các đề tài dự án, từ đó góp phần đưa ra
những giải pháp trong việc quản lý tài chính đối với cho các
đề tài NCCB do Quỹ Nafosted tài trợ. Đây là tài liệu bổ ích,
phục vụ trực tiếp cho đề tài. Tuy nhiên, chưa có công trình
nào nghiên cứu về công tác quản lý tài chính đối với các đề tài
nghiên cứu cơ bản do Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ
Quốc gia tài trợ.
- Cơ sở lý luận về quản lý tài chính các đề tài nghiên
cứu cơ bản
- Các khái niệm:
-. Khái niệm quản lý :
Quản lý được định nghĩa theo nhiều cách:
Quản lý là nghệ thuật đạt mục đích thông qua nỗ lực của

những người khác
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của
chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý và khách thể quản lý


nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, cơ hội của hệ
thống để đạt mục tiêu trong điều kiện biến động của môi
trường
Quản lý là phối hợp có hiệu quả các hoạt động của
những cộng sự khác nhau trong cùng một tổ chức
Quản lý là một quá trình phối hợp các nguồn lực một
cách hiệu lực và hiệu quả nhằm đạt được các mục tiêu của tổ
chức
Quản lý là việc thiết kế và duy trì một môi trường trong
đó những người cùng làm việc với nhau có thể hoàn thành các
mục đích, mục tiêu chung
Quản lý là việc đạt tới mục đích của tổ chức một cách có
hiệu lực và hiệu quả thông qua quá trình lập kế hoạch, tổ
chức, lãnh đạo và kiểm soát các nguồn lực của tổ chức.
(Nguyễn Thị Huyền, chủ biên, 2012, tr 20-22 của Giáo
trình Quản lý học)
Trong các khái niệm trên, khái niệm quản lý được sử
dụng khi nói tới các hoạt động và các nhiệm vụ mà nhà quản
lý phải thực hiện thường xuyên gồm lập kế hoạch, tổ chức,


lãnh đạo và kiểm soát. Lập kế hoạch là quá trình thiết lập các
mục tiêu và phương thức hành động thích hợp để đạt được
mục tiêu. Tổ chức là quá trình đảm bảo nguồn lực cho thực
hiện kế hoạch trong hình thái cơ cấu nhất đinh. Lãnh đạo là

quá trình đánh thức sự nhiệt tình, tạo động lực cho con người
để họ làm việc một cách tốt nhất nhằm đạt được các mục tiêu
kế hoạch. Kiểm soát là quá trình giám sát, đo lường, đánh giá
và điều chỉnh hoạt động để đảm bảo sự thực hiện theo các kế
hoạch. Đối tượng quản lý là các nguồn lực và các hoạt động
của tổ chức. Tùy theo từng nguồn lực, lĩnh vực hoạt động của
tổ chức mà quản lý gắn liền với các hoạt động quản lý tài
chính, quản lýnguồn nhân lưc, quản lý chất lượng....Mục tiêu
của quản lý là đạt được mục đích của các thành viên, của tổ
chức ở mức cao nhất với các nguồn lực có thể huy động.
Trong hoạt động quản lý các vấn đề về chủ thể quản lý,
đối tượng quản lý, công cụ và phương pháp quản lý, mục tiêu
quản lý là những yếu tố trung tâm đòi hỏi phải được xác định
đúng đắn.

- Khái niệm tài chính :


Tài chính trong cơ quan hành chính nhà nước được hiểu
là các hoạt động thu và chi bằng tiền của các cơ quan nhà
nước để đảm bảo hoạt động thường xuyên của các cơ quan
nhà nước. Nguồn tài chính phục vụ cho hoạt động của các cơ
quan hành chính nhà nước do ngân sách nhà nước cấp toàn bộ
hoặc một phần.Quan hệ tài chính nảy sinh trong quá trình
phân phối các nguồn tài chính, trong quá trình tạo lập hoặc sử
dụng các quỹ tiền tệ.
Các hoạt động thu chi bằng tiền trong tài chính công do
các cơ quan, tổ chức Nhà nước thực hiện, chịu sự điều chỉnh
bởi các luật công. Các Quỹ công được tạo lập và sử dụng gắn
liền với quyền lực kinh tế và chính trị của Nhà nước, nhằm

phục vụ thực hiện các chức năng của Nhà nước và đáp ứng
các nhu cầu và lợi ích chung của toàn xã hội.Đối với các đơn
vị sự nghiệp số thu thường không lớn hoặc không có thu, Nhà
nước có thể cho các đơn vị này áp dụng chế độ tài chính
riêng, chi tiêu của các đơn vị này nhằm thực hiện các chức
năng của nhà nước.
(Dương Văn Chinh, chủ biên, 2009, tr 5 Giáo trình Quản
lý tài chính công)


- Khái niệm về quản lý tài chính:
Quản lý tài chính là hoạt động của các chủ thể thông qua
việc sử dụng có chủ định các phương pháp quản lý và các
công cụ quản lý để tác động và điều khiển hoạt động tài chính
nhằm đạt được các mục tiêu đã định.
Để quản lý tài chính có hiệu quả cần nắm được các đặc
điểm của quản lý tài chính.
+ Về đối tượng cuả quản lý tài chính là các hoạt động tài
chính gắn liền với các cơ quan nhà nước là chủ thể cuả tài
chính. Cơ quan nhà nước là đối tượng thủ hưởng nguồn ngân
sách nhà nước, từ đó tổ chức các hoạt động của tài chính
+ Về chủ thể quản lý, Nhà nước có thể sử dụng tổng thể
các phương pháp, các hình thức và công cụ để quản lý hoạt
động tài chính của các đơn vị sự nghiệp trong những điều kiện
cụ thể nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Để đạt được
những mục tiêu đề ra, công tác quản lý tài chính đơn vị sự
nghiệp bao gồm ba khâu công việc: Thứ nhất, lập dự toán thu,
chi ngân sách nhà nước trong phạm vi được cấp có thẩm
quyền giao hàng năm; Thứ hai, tổ chức chấp hành dự toán



thu, chi tài chính hàng năm theo chế độ, chính sách của Nhà
nước; Thứ ba, quyết toán thu, chi ngân sách Nhà nước.
+ Lấy chất lượng, hiệu quả của các hoạt động tài chính
làm cơ sở để phân tích đánh giá động cơ, biện pháp tổ chức,
điều hành hoạt động tài chính Do hoạt động tài chính luôn gắn
liền với quyền lực của Nhà nước nên trong quản lý tài chính
đặc biệt chú trọng đến các phương pháp tổ chức, hành chính,
các công cụ pháp luật, thanh tra, kiểm tra..
Quản lý tài chính thực chất là quản lý các quỹ công,
quản lý các hoạt động tạo lập và sử dụng các quỹ công, do đó
sự kết hợp chặt chẽ giữa quản lý các yếu tố hoạt động tài
chính là một đặc điểm quan trọng của quản lý tài chính.
(Dương Văn Chinh, chủ biên, 2009, tr 40-41 Giáo trình
Quản lý tài chính công)

- Khái niệm nghiên cứu cơ bản:

Nghiên cứu khoa học là hoạt động khám phá, phát hiện,
tìm hiểu bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã


hội và tư duy; sáng tạo giải pháp nhằm ứng dụng vào thực
tiễn.Trong các hoạt động nghiên cứu khoa học, theo Luật
khoa học công nghệ bao gồm các nội dung (các bước):
-Nghiên cứu cơ bản:là hoạt động nhằm khám phá bản
chất, quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư
duy.
Nghiên cứu ứng dụng :là hoạt động nghiên cứu vận dụng
kết quả nghiên cứu khoa học nhằm tạo ra công nghệ mới, đổi

mới công nghệ phục vụ lợi ích của con người và xã hội
Phát triển công nghệ: là hoạt động sử dụng kết quả
nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, thông qua việc triển
khai thực nghiệm và sản xuất thử nghiệm để hoàn thiện công
nghệ hiện có, tạo ra công nghệ mới.
Triển khai thực nghiệm : là hoạt động ứng dụng kết quả
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ để tạo ra sản
phẩm công nghệ mới ở dạng mẫu.
Sản xuất thử nghiệm: là hoạt động ứng dụng kết quả
triển khai thực nghiệm để sản xuất thử nhằm hoàn thiện công


nghệ mới, sản phẩm mới trước khi đưa vào sản xuất và đời
sống.
Theo như khái niệm trên, những kiến thức cơ bản sẽ
giúp ích rất lớn cho nghiên cứu ứng dụng, làm tiền đề cho
những nghiên cứu phát triển công nghệ mới tiên tiến hơn. Kết
quả là nghiên cứu khoa học nói chung (trong đó có nghiên
cứu cơ bản) làm giảm chi phí, giảm nhân công; giảm tiêu thụ
năng lượng; tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất
và cuối cùng là hạ giá thành sản phẩm. Theo GS.TS Đào Tiến
Khoa - Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (Bộ KH&CN),
chúng ta không nên coi nghiên cứu cơ bản như một thứ "trang
sức" cho nền khoa học nước nhà. Kinh nghiệm phát triển
KH&CN của thế giới từ đầu thế kỷ XX cho đến nay cho thấy,
một quốc gia có nền KH&CN phát triển cao thì cũng luôn có
một nền khoa học cơ bản được đầu tư và phát triển thích
đáng. Chẳng hạn, khi thực hiện một nghiên cứu ứng dụng
nhằm nâng cao năng suất và sản lượng cây lúa thì trước đó
cần phải tiến hành nghiên cứu cơ bản về bộ gene của cây lúa,

để từ đó đưa ra giải pháp nâng cao giá trị của hạt gạo. Hoặc,
để hạn chế thiên tai, các nhà khoa học cần vận dụng những lý
thuyết cơ bản về vật lý, về thủy động học hay khí động học…


Như vậy, rõ ràng nghiên cứu khoa học nói chung (trong đó có
khoa học cơ bản) đã tạo ra toàn bộ công nghệ hiện có, làm
thay đổi bộ mặt xã hội loài người. Tinh thần nói trên đã được
khẳng định trong định hướng cũng như qua thực tế tổ chức
hoạt động KH&CN.Nhiều năm gần đây ở các viện nghiên cứu
lớn như Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn
lâm Khoa học Xã hội Việt Nam), Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh đã thấy cần thiết phải tổ chức nghiên cứu cơ bản
ở quy mô lớn hơn với mức kinh phí đầu tư nhiều hơn nên đã
hình thành các chương trình nghiên cứu cấp bộ mang tính cơ
bản như chương trình nghiên cứu "Lý thuyết về sự phát
triển", "Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc", "Phát
triển các lý luận của Học thuyết Mác -Lênin" v..v.
Bên cạnh nhiệm vụ đào tạo đại học và sau đại học, công
tác nghiên cứu khoa học (trong đó có NCCB) được coi là
nhiệm vụ thứ hai trong hoạt động khoa học của các trường đại
học, nhất là ở các trường đại học có các ngành khoa học cơ
bản. Bởi vì loại hình nghiên cứu này không chỉ nhằm trực tiếp
cập nhật kiến thức và nâng cao trình độ khoa học của các giảng
viên, mà còn tạo cơ sở để hình thành các giáo trình, bài giảng,


biên soạn các sách tham khảo, góp phần nâng cao chất lượng
đào tạo.
Trong thực tế những thập niên vừa qua ở nước ta, loại

hình nghiên cứu NCCB vẫn chưa được quan tâm đúng mức.
Hàng năm ngân sách nhà nước chưa có phần kinh phí cấp
riêng, tập trung cho NCCB. Ngân sách cấp hàng năm cho
nghiên cứu khoa học ở các trường còn rất hạn chế, kinh phí
cấp cho một nhiệm vụ nghiên cứu khoa học chỉ từ 20 đến 30
triệu đồng, thậm chí có nhiệm vụ nghiên cứu chỉ được cấp
khoảng 10 triệu đồng.
Vì vậy việc thành lập Quỹ phát triển KH&CN quốc gia
(NAFOSTED) dành để đầu tư cho khoa học cơ bản trong
khoa học tự nhiên và xã hội nhân vănlà một trong 10 sự kiện
nổi bật của khoa học công nghệ năm 2010. Với sự ra đời và
triển khai thành công cơ chế hỗ trợ của Quỹ NAFOSTED,
nhiều nhóm nghiên cứu khoa học cơ bản đã được tạo cơ hội
hình thành và phát triển. Mô hình hoạt động cuả Quỹ đã từng
bước chứng tỏ được hiệu quả đối với hoạt động KH&CN
trong việc nâng cao chất lượng nghiên cứu, xây dựng đội ngũ
các nhà khoa học đạt trình độ quốc tế và cải thiện thủ tục tổ
chức, thực hiện các nhiệm vụ KH&CN. Việc áp dụng cơ chế


Quỹ trong cấp, sử dụng, quản lý kinh phí thực hiện nhiệm vụ
KHCN các cấp: không phải quyết toán theo năm mà theo hợp
đồng và kinh phí không sử dụng hết năm trước sẽ được tự
động chuyển sang năm sau, tạo thuận lợi nhất cho các nhà
khoa hoc. Qua thực tiễn hoạt động cơ chế tài chính của Quỹ
đã được tổng kết, đánh giá và đưa vào Luật KHCN năm 2013
để mở rộng áp dụng đối với việc tổ chức thực hiện và quản lý
các nhiệm vụ KH&CN.
- Nội dung quản lý tài chính các đề tài nghiên cứu cơ
bản

Quản lý tài chính trong nghiên cứu cơ bản nói chung bao
gồm các nội dung lập kế hoạch, tổ chức thực hiện (lập dự
toán, thẩm định kinh phí, tổ chức triển khai, quyết toán) và
kiểm soát kiểm tra (kiểm toán, thanh tra, kiểm tra).
- Công tác kế hoạch:
Công cụ này đóng vai trò rất quan trọng trong quản lý tài
chính, nó bảo đảm cho các khoản thu chi tài chính của Qũy.
Công tác kế hoạch bao gồm ké hoạch đối với nguồn thu và
nguồn chi, tuy nhiên vì Quỹ là đơn vị sự nghiệp gần như
không có nguồn thu nên luận văn nghiên cứu chủ yếu về kế


hoạch cho nguồn chi của Quỹ. Căn cứ vào tình hình hoạt động
của năm báo cáo, căn cứ những nhiệm vụ được giao để có cơ
sở dự kiến kế hoạch cho năm tới.
Kế hoạch tài chính được xây dựng dựa trên các hoạt
động :
+ Xây dựng định hướng chiến lược cho hoạt động tài trợ
giai đoạn 5 năm (ví dụ 2011 - 2015, 2016 - 2020), xác định
khung phân bổ kinh phí cho các chương trình, nguyên tắc điều
chuyển kinh phí giữa các chương trình, giữa các lĩnh vực
trong cùng một chương trình trong thực tế
+ Xây dựng kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 03
năm: theo các hướng dẫn/thông tư quy định của Nhà nước
+ Xây dựng kế hoạch hoạt động chi tiết cho từng năm, từ
đó xây dựng dự toán cho từng hoạt động (theo các định mức
đã được ban hành), từ đó tổng hợp thành kế hoạch tài chính
năm.
Hằng năm căn cứ vào số lượng đề tài NCCB các phòng
ban báo cáo gồm có các đề tài đang thực hiện tài trợ, các đề

tài đã được phê duyệt và các hoạt động cụ thể liên quan đến


chương trình tài trợ NCCB ví dụ như tổ chức các phiên họp
xét chọn, thẩm định, giữa kỳ, giải thưởng Tạ Quang Bửu…để
đưa ra kế hoạch về kinh phí cho các đề tài NCCB. Trong giai
đoạn 2010-2015, trung bình kinh phí chi cho tài trợ các đề tài
NCCB chiếm 75% nguồn ngân sách hàng năm của Quỹ.
- Lập dự toán và thẩm định kinh phí
Các cá nhân, tổ chức khoa học công nghệ căn cứ nội
dung nghiên cứu lập dự toán theo các văn bản hướng dẫn hiện
hành. Dựa trên các yếu tố chi phí cấu thành dự toán bao gồm:
Công lao động khoa học
Chi mua nguyên, nhiên, vật liệu
Mua sắm dụng cụ, thiết bị
Chi phí đi lại, công tác phí
Chi trả dịch vụ thuê ngoài
Chi phí trực tiếp khác như tổ chức tọa đàm, hội thảo,
đón đoàn vào, thuê chuyên gia nước ngoài….
Chi phí hỗ trợ tổ chức chủ trì đề tài thực hiện trách
nhiệm quản lý theo quy định.
Việc thẩm định kinh phí cũng dựa trên các yếu tố cấu
thành dự toán và sản phẩm đề tài đăng ký theo các quy định
về tài chính của nhà nước.
- Tổ chức triển khai:


Dự toán kinh phí đi kèm thuyết minh đề tài nghiên cứu
là một phần không thể tách rời hợp đồng nghiên cứu khoa học
ký giữa Tổ chức chủ trì, Chủ nhiệm Đề tài với Quỹ. Chủ

nhiệm đề tài và tổ chức khoa học công nghệ áp dụng các văn
bản hiện hành để xây dựng quy chế chi tiêu đề tài, quyết định
các mức chi được phép khoán chi để đảm bảo hiệu quả trong
công tác nghiên cứu. Những khoản mục không được khoán
chi như mua sắm vật tư hóa chất chưa có định mức kinh tế kỹ
thuật cần phải tiến hành theo Luật đấu thầu.
Từ năm 2010 đến năm 2015, Quỹ Phát triển khoa học và
công nghệ Quốc gia đã góp phần lớn trong việc thúc đẩy các
công bố quốc tế đối với các đề tài do nguồn ngân sách nhà
nước tài trợ. Nguồn kinh phí cấp cho Quỹ chỉ từ 1.3-1.5%
tổng kinh phí nhà nước cấp cho các hoạt động khoa học công
nghệ, tuy nhiên số công bố quốc tế do Quỹ tài trợ chiếm tới
50% các công bố quốc tế do nguồn ngân sách nhà nước tài
trợ. Bên cạnh đó, Quỹ Nafosted cũng đã tài trợ cho một số đề
tài mang lại hiệu quả kinh tế xã hội nổi bật như đề tài nghiên
cứu được cấu trúc phytolith được hình thành trong quá trình
kết tủa silic ở thân cây lúa, từ đó đề xuất ra quy trình xử lý
rơm rạ tránh ô nhiễm môi trường và tăng độ phì cho đất trồng


trọt có thể áp dụng được trên quy mô đại trà trên các vùng
đồng bằng trồng lúa mà Chủ nhiệm đề tài là PGS.TS Nguyễn
Ngọc Minh vừa nhận Giải thưởng Tạ Quang Bửu 2016 vừa
qua, đề tài nghiên cứu về tinh nghệ Nano Curcumin của TS.
Hà Anh Thư cho ra sản phẩm CumarGold Kare là một sản
phẩm hỗ trợ hiệu quả cho điều trị ung thư.
- Quyết toán:
Theo cơ chế Quỹ, kinh phí đề tài nghiên cứu cơ bản
được xác nhận số sử dụng hàng năm theo biên bản xác nhận
kinh phí giữa Tổ chức chủ trì với Quỹ. Việc quyết toán kinh

phí với Nhà nước diễn ra 01 lần sau khi đề tài đã nghiệm thu
có kết quả “đạt” ( áp dụng theo Nghị định 95).
- Thanh tra, kiểm tra, kiểm toán:
Đây là công cụ quản lý cho phép chủ động ngăn ngừa
các hiện tượng tiêu cực về tài chính trong hoạt động thu chi
tài chính của các cơ quan sự nghiệp. Đồng thời phát hiện ngăn
chặn những hành vi sai trái, tiêu cực trong quản lý tài chính
cho nên cần thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra một cách
thường xuyên nhằm giúp cho đơn vị quản lý và sử dụng các
nguồn tài chính một cách chặt chẽ và hiệu quả.


Thông qua công tác kiểm toán, Qũy có thể kiểm tra tình
hình thực hiện kế hoạch tài chính, kiểm tra việc sử dụng tài
chính phát hiện và ngăn ngừa kịp thời những hành động tham
ô, lãng phí, xâm phạm tài sản, vi phạm các chế độ chính sách,
kinh tế của Cơ quan
- Các nhân tố ảnh hưởng
- Các nhân tố bên ngoài
Điều kiện kinh tế - xã hội
Quản lý tài chính đối với các đề tài cơ bản chịu ảnh
hưởng bởi điều kiện kinh tế xã hội. Với môi trường kinh tế ổn
định, nguồn ngân sách sẽ được cung cấp đầy đủ, đúng tiến độ.
Ngược lại nền kinh tế mất ổn định, mức tăng trưởng kinh tế
chậm Nhà nước sẽ thắt chặt tín dụng để kìm chế lạm phát,
việc xin cấp kinh phí từ nguồn ngân sách sẽ bị chậm lại. Lạm
phát cũng làm cho giá cả tăng, làm chi phí đề tài tăng điều
này có thể ảnh hưởng đến tiến độ và hiệu quả thực hiện của
các đề tài nghiên cứu cơ bản. Vì vậy, có thể nói các yếu tố về
kinh tế - xã hội có ảnh hưởng không nhỏ đến quản lý tài chính

đối với các đề tài nghiên cứu cơ bản tại Quỹ Nafosted.


Hệ thống chính sách pháp luật:
Bao gồm các văn bản pháp luật liên quan đến quản lý tài
chính của Quỹ khoa học và công nghệ. Các văn bản pháp luật
quy định các điều kiện, chuẩn mực, pháp lý cho các hoạt động
tài chính theo cơ chế Quỹ.
Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ và cơ cấu
và tỷ lệ chi ngân sách khoa học và công nghệ
Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ là một bộ
phận hữu cơ cấu thành chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Mục tiêu của chiến lược khoa học và công nghệ phải hướng
vào thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội, đồng thời phải hướng vào việc tăng cường tiềm lực
khoa học và công nghệ của đất nước. Chiến lược khoa học và
công nghệ có đúng thì mới tạo điều kiện cho việc nghiên cứu
khoa học đúng hướng, tránh đi đường vòng hoặc lặp lại các
sai lầm của người khác. Nếu một đất nước hay một doanh
nghiệp, một tổ chức có chiến lược đúng đắn trong phát triển
khoa học và công nghệ thông qua các chính sách, cơ chế
khuyến khích năng lực sáng tạo, khả năng đổi mới và tiếp cận
cái mới, tiêu chuẩn hoá và phổ biến rộng rãi trí thức thì không


có gì cản trở được sự phát triển của quốc gia hay doanh
nghiệp, tổ chức đó.
Toàn cầu hóa
Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, với đường lối đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, các nước có cơ hội
thuận lợi để tiếp thu quản lý, các nguồn lực và kinh nghiệm tổ

chức quản lý tiên tiến của nước ngoài để nhanh chóng tăng
cường năng lực quản lý tài chính, đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội. Tận dụng những thành tựu của công tác quản
lý tài chính cảu các nước hiện đại, các nước đi sau có thể đi
thẳng vào các phương pháp quản lý hiện đại để rút ngắn
khoảng cách phát triển kinh tế so với các nước đi trước.
- Các nhân tố bên trong
Quỹ cần xác định phương hướng, mục tiêu hoạt động
nghiên cứu khoa học dài hạn và ngắn hạn. Việc xác định
phương hướng, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học phải phù hợp
với chức năng, nhiệm vụ và năng nghiên cứu khoa học của
đơn vịtừ đó có các biện pháp đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
năng lực chuyên môn của các cán bộ Quỹ trong công tác quản
lý tài chính nhằm thực hiện các mục tiêu đã định


Để nâng cao chất lượng của việc xét chọn, thẩm định
tài chính Quỹ cần mời các chuyên gia có kinh nghiệm và
chuyên môn sâu về ngành/liên ngành và tài chính, có uy tín
trong cộng đồng khoa học vào hội đồng và giám sát chặt chẽ
từ khâu phản biện, xét chọn, thẩm định, nghiệm thu theo các
văn bản pháp luật quy định, tăng hiệu quả quản lý tài chính
các đề tài nghiên cứu cơ bản, hỗ trợ các đề tài trong khâu lập
dự toán đúng mục chi, khoản chi và CQĐH Quỹ trong xác
nhận sử dụng kinh phí hợp lý, khoa học
Quy trình quản lý tài chính cần cụ thể, khoa học, đúng
quy định từ việc lập kế hoạch, tổ chức bộ máy quản lý, theo
dõi, đôn đốc và kiểm tra thực hiện, phối hợp và hợp tác giữa
các đơn vị và cá nhân trong Quỹ và các tổ chức chủ trì và nhà
khoa học trong việc thực hiện các hoạt động nghiên cứu khoa

học; cấp phát, thanh toán theo tiến độ hoàn thành kết quả
nghiên cứu khoa học.
Con người là nhân tố trung tâm của bộ máy quản lý.
Năng lực cán bộ là yếu tố quyết định trong quản lý nói chung
và quản lý tài chính nói riêng. Đội ngũ cán bộ trực tiếp cũng
đòi hỏi phải có năng lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
có kinh nghiệm công tác để đưa công tác quản lý tài chính của


Qũy ngày càng đi vào nề nếp, tuân thủ các chế độ quy định về
tài chính kế toán của nhà nước góp phần vào hiệu quả hoạt
động của Quỹ.

- Các tiêu chí đánh giá
- Thực hiện đúng theo các quy định, chế độ kế toán của
nhà nước
Việc quản lý các nguồn chi của Quỹ đối với các đề tài
NCCB đều phải tuân thủ theo các quy định, chế độ kế toán
của nhà nước đối với đơn vị sự nghiệp.
Yêu cầu đối với các khoản chi:
+ Đơn vị cần xác lập thứ tự ưu tiên cho các khoản chi để
bố trí kinh phí cho phù hợp
+ Quản lý các khoản chi phải đảm bảo yêu cầu tiết kiệm
và hiệu quả. Nguồn lực luôn có giới hạn vì vậy mà đơn vị
phải tính toán sao cho chi phí thấp nhất, kết quả cao nhất.
+ Các định mức chi phải được xây dựng một cách khoa
học. Từ việc phân loại đối tượng đến trình tự, cách thức xây


dựng định mức phải được tiến hành một cách chặt chẽ và có

cơ sở khoa học. Các định mức chi phải có tính thực tiễn
+ Xây dựng các quy trình cấp phát các khoản chi chặt
chẽ, hợp lý nhằm hạn chế tối đa những tiêu cực nảy sinh trong
quá trình cấp phát, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm soát
của các cơ quan có thẩm quyền
+ Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra và kiểm toán
nhằm ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực trong việc sử dụng
nguồn kinh phí của Nhà nước, đồng thời qua công tác này
phát hiện những bất hợp lý trong chế độ, chính sách nhằm bổ
sung hoàn thiện quy trình quản lý tài chính.
- Thời gian thực hiện các bước trong quy trình quản lý
tài chính các đề tài NCCB
Đối với các đề tài NCCB do Quỹ tài trợ, việc quản lý tài
chính theo quy trình gồm các bước: Rà soát và phê duyệt kinh
phí, Xác nhận kinh phí sử dụng của các đề tài NCCB theo hợp
đồng ký kết, Quyết toán kinh phí đối với các đề tài NCCB
Thời gian thực hiện đối với từng bước là một tiêu chí để
phản ánh mức độ hiệu quả của công tác quản lý tài chính đối


×