Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

LUẬN VĂN CHÍNH SÁCH CÔNG: THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO THANH NIÊN TỪ THỰC TIỄN QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (972.26 KB, 81 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐOÀN KIM THANH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO THANH NIÊN TỪ THỰC TIỄN QUẬN BA ĐÌNH,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Chính sách công
Mã số: 834 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS BÙI NHẬT QUANG

HÀ NỘI, 2018
1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết việc làm luôn là chủ để nóng không những chỉ riêng ở Việt
Nam mà còn là vấn đề chung của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có cả
những nước phát triển. Theo Báo cáo của Cơ quan thống kê Hàn Quốc trong
tháng 9 năm 2017 cho thấy tỉ lệ thất nghiệp của nhóm thanh niên tăng cao
nhất trong 18 năm qua.Tỉ lệ thất nghiệp của thanh niên Hàn Quốc độ tuổi từ
15 đến 29 hiện ở mức 8%, gấp đôi tỉ lệ thất nghiệp trung bình của cả nước. Ở
xứ sở kim chi, một việc làm ổn định không chỉ là "cần câu cơm" mà còn là
yếu tố quyết định sự thành bại và chỗ đứng trong xã hội của mỗi cá nhân [15].
Năm 2018, tại Italy, thanh niên phải thức đậy từ nửa đêm để đi xin việc làm là


tình trạng phổ biến, tỷ lệ thất nghiệp thanh niên tại nước này lên tới 30% [16].
Tại Hoa Kỳ, tổng số người thất nghiệp trong năm 2008 đã lên tới con số cao
kỷ lục kể từ năm 1945. Bộ Lao động Hoa Kỳ cũng công bố tháng 10 năm
2008, số lượng người thất nghiệp là 423.000 và tháng 11 là 584.000
người.Tuy nhiên, với nhiều nỗ lực của Chính phủ Hoa Kỳ trong nhiệm kỳ của
Tổng thống Donal Trump, tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ đã giảm và trung bình mỗi
tháng nền kinh tế nước này tạo ra 185.000 việc làm mới. Số việc làm mới
được tạo ra trong tháng vừa qua chủ yếu trong các lĩnh vực khai mỏ, chăm
sóc y tế, bảo hiểm xã hội và giải trí. Tuy nhiên, vấn đề giải quyết việc làm tại
nước này vẫn còn nhiều thách thức.
Ở nước ta, thanh niên là lực lượng lao động lớn của xã hội và là nguồn
lực quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hằng
năm có khoảng 1,2 - 1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. [4]
Theo kết quả điều tra lao động và việc làm toàn quốc của Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội [3], số lượng và tỷ lệ thanh niên tham gia hoạt động
kinh tế tăng đều từ năm 2008 đến nay. Năm 2008, số thanh niên hoạt động

2


kinh tế của cả nước là hơn 16 triệu người, chiếm 67,2% tổng số thanh niên
(38,7% lực lượng lao động xã hội); năm 2009, số thanh niên hoạt động kinh tế
tăng thành gần 18 triệu người, chiếm 75,4% tổng số thanh niên (36,6% lực
lượng lao động xã hội); năm 2010 con số đó là 17,1 triệu người, chiếm 75,9%
tổng số thanh niên (33,7% lực lượng lao động xã hội).Dưới tác động của cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thực trạng việc làm của thanh niên trong thời
gian gần đây diễn biến khá phức tạp.Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm
trong thanh niên vẫn gia tăng. Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội, tỷ lệ thanh niên trong độ tuổi lao động thiếu việc làm tăng từ 3%
(năm 2008) lên 5,6% (năm 2009) và 4,1% (năm 2010), trong đó khu vực

thành thị là 2%; khu vực nông thôn là 4,9%.
Tình trạng thất nghiệp cũng có xu hướng tăng mạnh, tập trung chủ yếu
ở nhóm thanh niên đô thị. Tỷ lệ thanh niên thất nghiệp chiếm 4,2% (năm
2008); 4,1% (năm 2009) và tăng lên 5,2% (năm 2010), trong đó ở khu vực đô
thị là 7,8%, cao gần gấp hai lần nông thôn (4,3%).
Số đối tượng hưởng trợ cấp thất nghiệp ở nhóm thanh niên cũng chiếm
tỷ lệ khá cao. Trong số những người hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng thì
số người ở độ tuổi dưới 24 là 12.275 người (chiếm 24,5%); từ 25 - 40 tuổi là
31.366 người (chiếm 62,7%); trên 40 tuổi là 6.416 người (chiếm 12,8%)[2].
Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng, đẩy mạnh giải
quyết việc làm, trong đó có giải quyết việc làm cho thanh niên.Cụ thể tại Nghị
quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc triển khai các hoạt động nhằm nâng cao
chất lượng lao động trẻ, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời
sống cho thanh niên đã được các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể địa
phương quan tâm thực hiện với nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên trên

3


thực tế, sự nhìn nhận, đánh giá của cán bộ đảng, chính quyền, đoàn thể và
thanh niên địa phương về hiệu quả đạt được của các hoạt động này còn nhiều
hạn chế, chưa đáp ứng được những đòi hỏi của thanh niên.
Nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề nêu trên, là học viên cao học
chuyên ngành Chính sách công và hiện đang công tác tại Ủy ban nhân dân
Quận Ba Đình, học viên chọn đề tài “Thực hiện Chính sách giải quyết việc
làm cho thanh niên từ thực tiễn Quận Ba Đình, thành phố Hà Nội” làm luận
văn thạc sĩ để nghiên cứu các vấn đề lý luận cũng như giải quyết vấn đề trong
thực tiễn.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về giải quyết việc làm cho
thanh niên, tiêu biểu như sau:
2.1 Các công trình nghiên cứu nước ngoài
- Năm 1997 O’Higgin lại cho xuất bản công trình nghiên cứu “The
challenges of youth unemployment”, nói về tình trạng thất nghiệp của giới trẻ,
một thách thức lớn đối với nhiều quốc gia hiện nay, nhất là các quốc gia có
nền kinh tế chậm phát triển và đang phát triển. [8]
- Năm 1998 Manning.C đã xuất bản ấn phẩm “Choosy Youth or
unwanted youth - a survey or unemployment” [7] nói về sự lựa chọn, mong
muốn của giới trẻ hiện nay trong việc tìm kiếm việc làm phù hợp, nhằm tránh
khỏi tình trạng thất nghiệp đang đe dọa thường xuyên do những biến động
khó lường của kinh tế thế giới, cũng như nền kinh tế của mỗi quốc gia.
Các công trình nghiên cứu của các học giả nói trên đề cập về việc làm
của đối tượng lao động thanh niên trong bối cảnh khoa học và công nghệ đạt
được những thành tựu đáng kể. Đặc biệt, trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0
đang diễn ra, máy móc càng ngày càng thay thế con người trong nhiều vị trí
việc làm, thì những công trình khoa học nêu trên là bài học kinh nghiệm để

4


Đảng, Nhà nước ta hoạch định và ban hành các chính sách về việc làm cho
thanh niên.
2.2 Các công trình nghiên cứu trong nước
2.2.1 Các công trình nghiên cứu tổng quan về chính sách giải quyết việc làm
Tác giả Đỗ Thị Xuân Phượng với đề tài: “Phát triển thị trường sức lao
động, giải quyết việc làm qua thực tế ở Hà Nội” (2005), [9], luận án tiến sĩ
kinh tế đã đi từ thực trạng việc làm của lao động ở Hà Nội, các vấn đề nảy sinh
để khái quát thành giải pháp, biện pháp khắc phục. Tác giả đã khái quát thực tế

từ thị trường sức lao động và việc làm ở Hà Nội để đánh giá về vấn đề giải
quyết việc làm cho người lao động ở Hà Nội, bởi lẽ thủ đô Hà Nội là trung tâm
văn hóa - kinh tế - chính trị của cả nước, nơi tập trung nhiều lao động từ các
tỉnh, thành phố khác nên thị trường sức lao động ở Hà Nội có diễn biến khá
phức tạp về số lượng, chất lượng, cơ cấu, thành phần.
2.2.2 Các công trình nghiên cứu về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, khuyến
khích đầu tư nhằm tạo việc làm
Phạm Thị Kim Thư với luận văn thạc sỹ “Quản lý nhà nước đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hà Nội”. (2014) [14], Luận
văn đã phân tích và đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với
doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội, từ đó đưa ra những giải pháp
hoàn thiện công tác này.Đây là công trình khá toàn diện không chỉ nghiên
cứu, đánh giá và đưa ra giải pháp về việc thực thi chính sách, mà còn các hoạt
động khác của QLNN như xây dựng các văn bản pháp quy, kiểm tra, giám sát
hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội; điều này góp phần phát
triển doanh nghiệp một cách bền vững.
2.2.3 Các công trình nghiên cứu về chính sách tín dụng
Ngô Quỳnh An với luận án tiến sĩ “Tăng cường khả năng tự tạo việc làm
cho thanh niên Việt Nam” bảo vệ năm 2012 tại trường đại học KTQD, [1], đã

5


phân tích và đánh giá thực trạng tự tạo việc làm của thanh niên Việt Nam
trong bối cảnh nền kinh tế thị trường đang hội nhập quôc tế. Bên cạnh đó,
luận án cũng đề cập những giải pháp, bao gồm giải pháp về tín dụng nhằm hỗ
trợ thanh niên tự tạo việc làm.
2.2.4 Các công trình nghiên cứu về đào tạo nghề
Ngô Thùy Hương với luận văn thạc sĩ “Các giải pháp đào tạo nghề cho
thanh niên dân tộc trên địa bàn tỉnh Đăklăk” bảo vệ năm 2015[6], đã phân

tích, đưa ra thực trạng đào tạo nghề cho thanh niên dân tộc trên địa bàn tỉnh
Đăklăk, từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện công tác này.
2.2.5 Các công trình nghiên cứu về xuất khẩu lao động
Nguyễn Văn Thắng với luận án tiến sĩ “Chính sách việc làm cho thanh
niên vùng thu hồi đất của Hà Nội”, [13], Luận án tập trung nghiên cứu, phân
tích thực trạng các chính sách việc làm cho thanh niên vùng thu hồi đất của
Hà Nội và đưa ra các giải pháp hoàn thiện việc thực hiện các chính sách này.
Trong đó, luận án cũng nghiên cứu và đưa ra giải pháp về xuất khẩu lao động
cho thanh niên vùng thu hồi đất của Hà Nội.
Các công trình nghiên cứu nêu trên là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị
đối với định hướng nghiên cứu của học viên, tuy nhiên các công trình này
chưa đề cập tới việc thực hiện các chính sách giải quyết việc làm cho thanh
niên tại một địa bàn (quận, huyện) cụ thể. Từ đó, học viên định hướng nghiên
cứu thực hiện các chính sách giải quyết việc làm cho thanh niên tại Quận Ba
Đình, thành phố Hà Nội là không trùng lắp với các công trình nêu trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực trạng việc thực hiện chính sách giải quyết việc
làm cho thanh niên từ thực tiễn của Quận Ba Đình, để từ đó đưa ra phương
hướng, gi thanh niên lựa chọn nghề phù hợp, giáo dục về ý thức, kỷ luật
lao động, tác phong công nghiệp và pháp luật lao động nhằm đáp ứng được
yêu cầu của thị trường lao động nước ngoài.
Thứ năm, công tác đào tạo nghề phải gắn với giải quyết việc làm cho
đoàn viên, thanh niên. Giới thiệu các học viên có tay nghề với các doanh

72


nghiệp để họ được nhận vào làm việc ngay. Có những ưu tiên đầu tư cho hoạt
động tư vấn và giới thiệu việc làm.

3.2.3. Giải pháp hoàn thiện việc thực hiện chính sách khuyến khích phát
triển doanh nghiệp và thu hút đầu tư trên địa bàn để tạo việc làm
Thứ nhất là, Quận tiếp tục đơn giản hóa các quy định nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho việc đăng ký kinh doanh, gia nhập thị trường và các hoạt
động của doanh nghiệp trong thẩm quyền cho phép.
Thực ra, trong quá trình doanh nghiệp cần thực hiện một TTHC nào đó,
bên cạnh những thủ tục, văn bản cần để thực hiện một TTHC được Bộ Tư
pháp qui định tại TT 05/2014, chính quyền địa phương thường có những qui
đinh thêm về các loại giấy tờ xác nhận. Điều này, giúp chính quyền địa
phương dễ dàng thực hiện TTHC nhưng lại đẩy phần khó cho người dân và
doanh nghiệp. Do vậy, cần nghiên cứu để giảm thiểu những văn bản này, để
sao cho chính quyền vẫn đủ cơ sở pháp lý thực hiện công việc mà vẫn tạo
được thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp khi thực hiện TTHC.
Thứ hai, cần tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của cán bộ, công
chức của Quận trong quá trình hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện TTHC
Như luận văn đã trình bày và phân tích trong chương 2, vẫn còn tồn tại
những hạn chế sau của cán bộ, công chức Quận:
- Gây phiền hà cho doanh nghiệp để doanh nghiệp phải nhờ các mối
quan hệ xử lý nhanh TTHC và trả tiền;
- Thái độ không nhiệt tình, cứng nhắc, máy móc trong khi thực hiện
TTHC;
- Không viết phiếu hẹn trả kết quả hoặc xử lý quá thời gian quy định(
thường với lý do là lãnh đạo đi họp chưa có ai ký).
Với những biểu hiện nêu trên, giải pháp hữu hiệu là tăng cường kiểm
tra, giám sát kèm với đó là kỉ luật nghiêm minh cán bộ, công chức nào vi

73


phạm đạo đức công vụ. Thiết lập kênh thông tin phản ánh trực tiếp của người

dân và doanh nghiệp đến lãnh đạo Quận, để từ đó lãnh đạo Quận nắm được
tình hình và xử lý các vụ việc có biểu hiện nêu trên.
Bên cạnh đó, tiếp tục tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức và
đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ, công chức, viên chức để đội ngũ này nâng
cao năng lực thực thi công vụ và tự rèn luyện phẩm chất đạo đức.
Ba là, chính quyền Quận cần tăng cường các hoạt động nghiên cứu, dự
báo và phổ biến kịp thời, công khai các thông tin kinh tế đến các DN và hiệp
hội DN làm cơ sở để DN có thể nâng cao chất lượng xây dựng và điều hành
chiến lược đầu tư, kinh doanh của mình. Đây là một trong những chức năng
chính và quan trọng của Nhà nước nói chung hay của Quận Ba Đình nói
riêng, vì chỉ có Nhà nước mới nắm bắt được nhiều thông tin kinh tế trên địa
bàn, từ đó điều phối, vận hành và cung cấp cho DN, để DN hoạt động hiệu
quả hơn.
3.2.4. Giải pháp hoàn thiện việc thực hiện chính sách xuất khẩu lao động
Để khắc phục những hạn chế trong thực hiện chính sách xuất khẩu lao
động đã được luận văn đưa ra tại chương 2, chính quyền Quận Ba Đình cần
thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, cân đối ngân sách địa phương để có chính sách khuyến khích
gián tiếp qua hỗ trợ người lao động để các doanh nghiệp chuyên doanh xuất
khẩu lao động trên địa bàn tuyển chọn lao động như: tăng mức hỗ trợ kinh phí
đào tạo giáo dục định hướng cho người lao động, hỗ trợ khám sức khoẻ, làm hộ
chiếu cho lao động nghèo, chính sách thưởng khuyến khích đối với các doanh
nghiệp dành hợp đồng và thị trường hợp đồng lao động phù hợp cho lao động,
chính sách thưởng cho các doanh nghiệp đưa được nhiều lao động thanh niên
quận Ba Đình đi lao động ở nước ngoài.
Hai là, để giúp người lao động là thanh niên về các khoản kinh phí đóng

74



góp, tiền đặt cọc trước khi đi lao động ở nước ngoài, chính quyền quận cần
trích một phần ngân sách trong nguồn thu từ đất, phối hợp với quỹ tín dụng
nhân dân, ngân hàng chính sách cho người lao động vay với lãi xuất ưu đãi tạo
điều kiện cho nhiều người có cơ hội đi xuất khẩu lao động. Nguồn này sau khi
thu về lại tiếp tục quay vòng cho người lao động khác có nhu cầu vay tiếp theo.
Ba là, tăng cường công tác chỉ đạo về hoạt động xuất khẩu lao động từ
quận đến phường, có lãnh đạo Đảng, chính quyền cùng các ngành đoàn thể tham
gia làm nhiệm vụ hỗ trợ, tuyên truyền vận đông người lao động nắm được chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề lao động việc làm, quyền
lợi và nghĩa vụ của người lao động, từ đó nâng cao nhận thức cho người dân.
Bốn là, tìm hiểu, phối hợp với các đơn vị đào tạo người đi lao động nước
ngoài để tuyên truyền, vận động thanh niên của đơn vị mình tham gia, nhằm
tạo việc làm ổn định, lâu dài.
Năm là, xúc tiến Chương trình thanh niên tham gia xuất khẩu lao động.
Nhà nước đã có các chính sách khuyến khích, tạo điều kiện để người lao động
đi làm việc ở nước ngoài theo Nghị định số 81/2003/NĐ-CP ngày 17/07/2003
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Bộ Luật lao động về người lao động
Việt Nam làm việc ở nước ngoài. Đây là một hướng đi mới giúp thanh niên
quận Ba Đình có điều kiện tăng thu nhập cho gia đình và tích luỹ kinh nghiệm
lao động tiên tiến ở nước ngoài.
Để lao động thanh niên có thể đi ra nuóc ngoài làm việc, đòi hỏi chính
quyền các cấp phải tthực hiện tốt các hoạt động khác như: Đầu tư xúc tiến mở
rộng thị trường mới và tăng thị phần xuất khẩu lao động ở thị trường truyền
thống; sắp xếp, đổi mới và đầu tư xây dựng các doanh nghiệp xuất khẩu lao
động mạnh, tăng doanh nghiệp tư nhân tham gia xuất khẩu lao động; đào tạo
nghề, giáo dục định hướng chuẩn bị nguồn xuất khẩu lao động là thanh niên
quận Ba Đình chưa có việc làm; đổi mới tổ chức, quản lý lao động ngoài nước

75



đảm bảo thực hiện đúng hợp đồng, chống trốn, phá hợp đồng; tạo việc làm cho
lao động xuất khẩu trở về.Ưu tiên cho thanh niên chưa có việc làm và thất
nghiệp, bộ đội xuất ngũ...đi xuất khẩu lao động trong các chương trình xúc tiến
XKLĐ do các phường thuộc Quận tổ chức
3.3. Một số đề xuất nhằm tăng cường hiệu quả thực hiện chính sách
GQVL cho thanh niện của Quận Ba Đình
3.3.1. Đề xuất liên quan đến thực hiện chính sách tín dụng
Để chương trình cho vay GQVL thực sự bền vững, học viên đề xuất,
kiến nghị Chính phủ và các bộ, ngành liên quan xem xét, phân bổ nguồn vốn
ngân sách nhà nước theo từng năm đáp ứng nhu cầu vay vốn sản xuất kinh
doanh của hộ vay, chủ cơ sở và doanh nghiệp. Phân bổ nguồn vốn hỗ trợ và
nguồn vốn cho vay đồng bộ để các địa phương chủ động thực hiện. Bố trí cấp
bổ sung vốn Điều lệ cho NHCSXH theo nội dung Chiến lược phát triển
NHCSXH giai đoạn 2011-2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tạo
điều kiện cho NHCSXH được tiếp cận với nguồn vốn ODA để tạo lập nguồn
vốn ổn định, lâu dài, lãi suất thấp để tăng nguồn vốn cho vay đối với hộ nghèo
và các đối tượng chính sách khác.
Đối với HĐND và UBND thành phố Hà Nội, học viên cũng kiến nghị
chính quyền thành phố Hà Nội tập trung chỉ đạo các ngành thực hiện tốt chính
sách tín dụng hộ nghèo. Hàng năm bố trí đủ tỷ lệ vốn vay từ nguồn vốn ngân
sách địa phương theo quy định của Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày
04/10/2002, ưu tiên từ nguồn tăng thu và tiết kiệm chi để ủy thác cho
NHCSXH cho vay giải quyết việc làm trên địa bàn.
Để phát huy hiệu quả hơn nguồn vốn ưu đãi từ Quỹ quốc gia về việc
làm, chính quyền thành phố Hà Nội cần quan tâm chỉ đạo các cơ quan chuyên
môn (khuyến công, nông, lâm, ngư…) hướng dẫn dạy nghề, định hướng sản
xuất, tập huấn và chuyển giao khoa học kỹ thuật đối với các hộ vay vốn. Phối

76



hợp, lồng ghép vốn tín dụng chính sách với các dự án khuyến nông, khuyến
lâm, khuyến ngư nâng cao hiệu quả nguồn vốn tín dụng ưu đãi. Quận Ba Đình
sẽ phối hợp chặt chẽ với NHCSXH, các tổ chức Hội, đoàn thể nhận ủy thác và
các Tổ tiết kiệm & vay vốn đẩy mạnh công tác vận động, tuyên truyền chủ
trương, chính sách của Nhà nước đến nhân dân. Đồng thời, hướng dẫn cho
vay đúng đối tượng, sử dụng vốn vay đúng mục đích và quản lý, giám sát
thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi.
3.3.2. Đề xuất liên quan đến thực hiện chính sách đào tạo nghề
Đề xuất với Trung Ương và thành phố Hà Nội tăng cường, đầu tư cơ sở
vật chất, trang thiết bị cho các trung tâm đào tạo nghề trong khối đơn vị hành
chính sự nghiệp thuộc Quận để từ nó nâng cao chất lượng đào tạo nghề và thu
hút người lao động tham gia học tập
Đề xuất với các bộ, ngành nghiên cứu ban hành các chính sách ưu đãi
thuế, chính sách cho vay vốn lãi suất thấp đối với các trung tâm đào tạo nghề
ngoài công lập để phát trển hệ thống dạy nghề đa dạng, chất lượng cao trên
địa bàn, từ đó cũng thu hút người lao động hào hứng tham gia học nghề nhiều
hơn nữa.
3.3.3. Đề xuất liên quan đến hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp
Một là, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn
thành phố Hà Nội tiếp cận chính sách đất đai, mặt bằng sản xuất.
Thực tế cho thấy, trong quá trình các DN triển khai hoạt động sản xuất
kinh doanh gặp khó khăn do quỹ đất không nhiều. Đó là chưa kể đến thực
trạng chính quyền một số địa phương có tâm lý “sính ngoại” trong việc phê
duyệt địa điểm giữa DN trong nước với DN nước ngoài. Đây chính là mối bận
tâm lo láng của DNVVN hoạt động trên địa bàn thành phố. Vì vậy chính sách
đất đai của thành phố cần dựa trên cơ sở khuyến khích sản xuất phát triển,
hoàn thành quy hoạch sử dụng đất đai, đẩy nhanh tiến độ giao quyền sử dụng


77


đất. Để tạo điều kiện cho DN trong việc tiếp cận đất đai và có thể sử dụng quyền
sử dụng đất làm tài sản thế chấp, cầm cố vay vốn từ các tổ chức tín dung, Nhà
nước và các chính quyền thành phố phải có chính sách rất cụ thể như:
- Hoàn thiện pháp lý và nâng cao năng lực quản lý của hệ thống cơ
quan đăng ký đất đai trong cả nước, nhằm đẩy nhanh tiến độ cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất và khuyến khích đăng ký giao dịch về đất.
- Lập quy hoạch, kế hoạch chi tiết sử dụng và công khai các quy hoạch
này làm cơ sở cho việc giao đất, cho thuê đất, đấu thầu quyền sử dụng đất.
- Xây dựng các cụm khu công nghiệp, thương mại có hạ tầng tốt nhất,
đồng thời điều chỉnh các hình thức cho thuê đất. Hỗ trợ các DNVVN có cơ sở
sản xuất kinh doanh gây ô nhiễm di dời ra khỏi đô thi, khu dân cư thông qua
việc cho phép chuyển quyền sử dụng đất từ đất sản xuất sang đất ở và đất
thương mại nhằm mục đích bán và trang trải chi phí di chuyển.
- Thống kê và thu hồi đất đang hoang hóa, sử dụng không đúng mục
đích để tạo quỹ đất cho các doanh nghiệp thuê và có những quy định về bồi
hoàn vả trả lại quyền sử dụng để quá trình chuyển giao đất công khai thuận
lợi hơn. Ví dụ như các DN mua lại quyền sử dụng thỏa thuận thanh toán nếu
không sẽ chuyển sang đấu thầu nhằm chống đầu cơ, mua bán chuyển nhượng
dự án trái phép.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho DN trong nước tiếp cận các mặt bằng
kinh doanh thông qua nhiều hình thức như thuê, mượn, trả tiền thuê… Ngoài
ra, còn đơn giản hóa thủ tục hành chính trong quá trình cấp giấy phép hoạt
động, có các chính sách ưu đãi về thuế và xây dựng cơ chế, chính sách tạo
môi trường kinh doanh lành mạnh…
Hai là, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận các nguồn vốn,
ưu tiên các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, hàng có giá trị tăng cao
Hầu hết các DN đều gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn để


78


khởi sự doanh nghiệp và mở rộng sản xuất kinh doanh. Do đó thành phố Hà
Nội cần nghiên cứu áp dụng những chính sách và giải pháp tạo điều kiện để
các DN có thể vay vốn dễ hàng hơn.
Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DN đã được nhà nước xây dựng và ban
hành một số quy định về tổ chức và hoạt động của nó. Tuy nhiên, triển khai
hoạt động bảo lãnh tín dụng còn ở mức độ khá hạn chế. Nhiều DN nói rằng
họ không biết gì về bảo lãnh tín dụng đối với các DN. Để thủ tục vay vốn dễ
dàng hơn, thành hố Hà Nội cần có các biện pháp cụ thể như sau:
- Đổi mới cơ chế chính sách tín dụng theo nguyên tắc thị trường, nâng
cao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng. Cải tiến thủ
tục cho vay đối với các DNVVN theo hướng đơn giản, rõ ràng hơn, tiếp tục
cải tiến quy trình cho vay nhằm rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay của các
NHTM hiện nay.
- Đa dạng hóa hơn nữa các hình thức đảm bảo tín dụng để thích ứng với
đặc điểm của các DNVVN. Mở rộng diện cho vay bằng tài sản hình thành từ
vốn vay và cho vay không đảm bảo sang khu vực kinh tế tư nhân. Đơn giản
hóa thủ tục thế chấp tài sản, giảm thời gian định giá tài sản
- Ban hành các văn bản luật hoặc dưới luật quy định rõ ràng cụ thể
trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của các bên tham gia: phương pháp xử lý khi
có xung đột pháp luật giữa quy tắc quốc tế và luật pháp quốc gia trong thanh
toán quốc tế.
- Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động của thị trường cho thuê tài
chính theo hướng: mở rộng đối tượng tham gia hoạt động cho thuê tài chính,
tài sản cho thuê, đa dạng hóa các pháp thức cho thuê, đối tượng bảo hiểm tài
sản dùng để cho thuê tài chính...
- Hoàn thiện chính sách đối với các Quỹ bảo lãnh tín dụng theo hướng:

không quy định mức vốn điều lệ chung cho mọi quỹ bảo lãnh, nên chia ra

79


nhiều mức khác nhau theo từng khu vực, cụ thể hóa quyền lợi và trách nhiệm
của tổ chức góp vốn thành lập qua các điều kiện được bảo lãnh và mức vốn
được bảo lãnh, chế độ giám sát thanh tra hoạt động của Quỹ...
3.3.4. Đề xuất liên quan chính sách xuất khẩu lao động
Thứ nhất, Quận Ba Đình đề xuất Trung Ương và thành phố có chính
sách, chương trình bồi dưỡng, tuyên truyền nâng cao trình độ văn hóa cho
người đi XKLĐ, bởi lẽ, các chương trình, chính sách này đang được thực hiện
một cách chưa động bộ, rộng khắp các vùng trên cả nước. Nếu được hỗ trợ
các chương trình như vậy, người lao động sẽ có ý thức trách nhiệm tốt hơn
trong việc thực hiện pháp luật cũng như ứng xử văn hóa tại quốc gia làm việc.
Thứ hai, Quận đề xuất Trung Ương, các bộ, ngành nghiên cứu nâng cao
định mức hỗ trợ sinh hoạt, ăn ở, đi lại cho người đi XKLĐ, bởi lẽ định mức
hiện nay đã thấp do trượt giá. Bên cạnh đó, có các chính sách ưu đãi đồng đều
giữa các đối tượng thanh niên.
Thứ ba, Quận đề xuất đơn giản hóa qui trình, thủ tục cho doanh nghiệp
và người lao động đi xuất khẩu, những qui định hiện tại vẫn còn gây nhiều
khó khăn, phiền hà cho cả doanh nghiệp và người lao động.

80


KẾT LUẬN
Luận văn “Thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho thanh niên
Quận Ba Đình” là một góc nhìn mới về thực tiễn hệ thống chính sách GQVL
cho thanh niên ở nước ta hiện nay và thực tiễn của Quận Ba Đình là cơ sở để

các địa phương trên cả nước tham khảo. Luận văn gồm ba chương và giải
quyết những mục đích nghiên cứu chính sau đây:
Một là, luận văn tổng hợp các cơ sở lý luận về thực hiện chính sách giải
quyết việc làm, kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới và bài học áp
dụng cho Việt Nam.
Hai là, luận văn nghiên cứu thực trạng việc thực hiện chính sách giải
quyết việc làm cho thanh niên tại Quận Ba Đình, từ đó đưa ra đánh giá kết
quả đạt được, hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân của các hạn chế đó.
Ba là, luận văn đưa ra phương hướng, giải pháp cũng như các đề xuất
để hoàn thiện việc thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho thanh niên tại
Quận Ba Đình.

81



×