Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

CƠ sở KHOA học của VIỆC sử DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐÓNG VAI TRONG dạy học môn GIÁO dục CÔNG dân lớp 10 PHẦN “CÔNG dân với đạo đức” ở TRƯỜNG THCS và THPT THẠNH THẮNG, HUYỆN VĨNH THẠNH, TP cần THƠ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.52 KB, 88 trang )

CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC
SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐÓNG
VAI TRONG DẠY HỌC MÔN
GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10
PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO
ĐỨC” Ở TRƯỜNG THCS VÀ
THPT THẠNH THẮNG, HUYỆN
VĨNH THẠNH, TP CẦN THƠ

1


-Cơ sở lý luận của việc sử dụng phương pháp đóng vai
trong dạy học phần công dân với đạo dức lớp 10 ở
trường THPT
Phương pháp dạy học
Thế giới là sự vận động không ngừng trong từng giây,
từng phút để phát triển cao hơn, hoàn thiện hơn, điều này
được thể hiện qua sự phát triển không ngừng của khoa học và
công nghệ hiện nay, nhà tương lai học Therry Gaudin đã đưa
ra một thông điệp khẩn thiết: Hãy học phương pháp chứ đừng
học dữ liệu! Thông điệp này cho thấy phương pháp đống vai
trò quan trọng trong đời sống xã hội. Vậy phương pháp là gì ?
đây luôn là câu hỏi lớn cần giải quyết.
Phương pháp là một phạm trù lớn và quan trọng, có tính
chất quyết định đối với mọi hoạt động dạy và học của con
người. Khi đã xác định được mục tiêu, nội dung chương trình
dạy học thì phương pháp dạy học của thầy và trò sẽ mang tính
quyết định đến hiệu quả dạy học.

2




Theo Từ điển Triết học, ”Phương pháp – theo nghĩa
chung nhất là cách thức đạt được mục tiêu là hoạt động được
sắp xếp theo một trình tự nhất định” ( 51;tr458).
Phương pháp là thuật ngữ có nguồn gố từ tiếng Hi Lạp
”methodos” , có nghĩa là con đường, cách thức hoạt động
nhằm đạt được mục đích. Phương pháp hiểu theo nghĩa chung
nhất là cách thức hành động để đạt được mục đích nhất định.
Đó cũng là phương hướng mà người ta cần đi theo để đạt
được mục đích đề ra. Giữa cách thức, phương hướng hay
phương tiện và mục đích có mối quan hệ tác động qua lại lẫn
nhau nhưng chúng không phải là những yếu tố quan trọng
nhất của hoạt động dể đạt được mục đích. Con người – chủ
thể của hoạt động , của việc xác định, lựa chọn, vận dụng
phương pháp vào thực hiện qúa trình hành động nhằm đạt
được mục đích đề ra mới là yếu tố quan trọng nhất, có ý nghĩa
quyết định. Còn hiểu theo nghĩa khoa học , phương pháp là
hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ tri thức về các quy
luật khách quan để điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Như vậy
phương pháp dù hiểu theo nghia chung nhất hay hiểu theo
nghĩa khoa học cũng cần phải có sự vận dụng linh hoạt,
3


không dập khuôn, máy móc. Trong từng công việc, từng hoạt
động cụ thể phải nhìn vào kết quả đạt được làm căn cứ, tiêu
chí quan trọng hàng đầu để đánh giá hiệu quả của phương
pháp.

Phương pháp vừa là sự đúc kết những kinh nghiệm, vừa
là khoa học, đồng thời là nghệ thuật, nó đòi hỏi tính năng
động, sáng tạo và mang đậm dấu ấn của chủ thể sử dụng
phương pháp. Trong hoạt động của mọi lĩnh vực muốn đạt
hiệu quả tối ưu con người cần phải có phương pháp.
Hoạt động dạy học là quá trình tương tác giữa người
thầy ( giáo viên) và người học (học sinh), đó là quá trình
chuyển giao xử lý thông tin, định hướng của giáo viên và quá
trình thu nhận, ứng dụng, phát triển, xử lý thông tin của học
sinh. Trong quá trình đó nhất thiết phải được thực hiện thông
qua các phương pháp đặc thù gọi là phương pháp dạy học.
Như vậy, bản chất của quá trình dạy học là việc sử dụng hệ
thống các phương pháp giảng dạy và phương pháp học tập
nhằm đạt được mục tiêu, yêu cầu đặt ra về kiến thức, kỹ năng
của giáo viên và học sinh. Để đạt được hiệu quả cao trong quá
trình đó phải xuất phát từ phương pháp dạy của giáo viên vì
cùng một nội dung nhưng học sinh có hứng thú hay không,
4


kết quả nhận thức của người học đạt hiệu quả như thế nào,
phần lớn phụ thuộc vào phương pháp dạy học, cho nên
phương pháp dạy học của giáo viên quyết định và tác động
đến phương pháp học tập của học sinh.
Có rất nhiều quan điểm và định nghĩa về phương pháp
dạy học:
Theo Lu. K. Babanxki: “ Phương pháp dạy học là cách
thức tương tác giữa thầy và trò nhằm giải quyết các nhiệm vụ
giáo giưỡng, giáo dục và phát triển trong quá trình dạy học”
[11; tr 46]

Theo Nguyễn Ngọc Quang , phương pháp dạy học là
cách thức làm việc của thầy và trò trong sự phối hợp thống
nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy nhằm làm cho trò tự giác,
tích cực, tự lực đạt đến mục đích dạy học [40; tr24]
Theo tác giả Phan Thị Hồng Vinh: “ Phương pháp dạy
học là cách thức hoạt động phối hợp thống nhất của giáo viên
và học sinh trong quá trình dạy học được tiến hành dưới vai
trò chủ đạo của giáo viên nhằm thực hiện tối ưu mục tiêu và
các nhiệm vụ dạy học”. [41 ;tr204]

5


Các nhà giáo dục học kazanski và Nazarova cho rằng:
Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của giáo viên với
học sinh để cho học sinh lĩnh hội tri thức, kỹ năng và kỹ xảo.
Khi định nghĩa về phương pháp dạy học, các tác giả đã xét
trên nhiều khía
cạnh khác nhau của quá trình dạy học.có tác giả chú
trọng đến cách thức tương tác giữa giáo viên và học sinh, có
tác giả lại xét về khía cạnh điều khiển học tập...
Tuy nhiên dù xét ở khía cạnh nào đi nữa, các tác giả đều
chỉ ra rằng PPDH có những dấu hiệu đặc trưng sau:
+ PHDH phản ánh sự vận động của nội dung học vấn đã
được nhà trường quy định,
+ PPDH phản ánh sự vận động của quá trình nhận thức
của học sinh nhằm đạt được mục đích đề ra.
+ PPDH là cách thức trao đổi thông tin giữa thầy và trò.
+ PPDH phản ánh cách thức điều khiển nhận thức, kích
thích và xây dựng động cơ, tổ chức hoạt động nhận thức kiểm

tra, đánh giá kết quả hoạt động.
6


Nhìn chung, khi định nghĩa về PPDH, tuy các tác giả đề
cập tới nhiều khía cạnh của quá trình dạy học nhưng sự tương
tác giữa thầy và trò được nhiều tác giả quan tâm và đi sâu
nghiên cứu nhất. Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về
PPDH xét trên khía cạnh tương tác giữa thầy và trò nhưng
tóm lại, chúng thuộc một trong ba cách hiểu sau:
+ PPDH là cách thức hoạt động của người giáo viên để
truyền thụ kiến thức, rèn luyện kỹ năng và giáo dục học sinh
theo mục đích của nhà trường.
+ PPDH là sự kết hợp các biện pháp và phương tiện làm
việc của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học nhằm
đạt tới mục đích của giáo viên.
+ PPDH là cách thức hướng dẫn và chủ đạo của giáo
viên nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và hoạt động thực
hành của học sinh, dẫn tới việc học sinh dễ dàng lĩnh hội
vững chắc nội dung học vấn, hình thành thế giới quan và phát
triển năng lực nhận thức.
Cách hiểu thứ nhất phản ánh quan niệm cũ về vai trò của
người giáo viên trong quá trình dạy học: Giáo viên là nhân vật
trung tâm giữ vai trò chủ đạo, hoạt động tích cực, còn học
7


sinh thì thụ động thực hiện và tiếp thu, lĩnh hội kiến thức do
giáo viên truyền đạt. Quan niệm này dẫn tới chỗ coi các
PPDH đều là phương pháp của giáo viên.

Cách hiểu thứ hai dung hòa và phù hợp hơn, coi phương
pháp dạy học là một sự phối hợp của hoạt động dạy và học.
Nhiệm vụ truyền đạt tri thức của thầy cũng quan trọng không
kém như việc lĩnh hội tri thức của trò.
Cách hiểu thứ ba là cách tiếp cận dạy học tích cực, nhấn
mạnh vai trò của người học trong quá trình học tập và giáo
viên được coi là người hỗ trợ hướng dẫn. Người học tự xây
dựng việc học tập của mình, còn nhiệm vụ của người dạy là
tạo môi trường học tập thuận lợi, thường xuyên khuyến khích
tư duy. Cần có sự cân bằng giữa nội dung truyền đạt và nội
dung tự học của người học.
PPDH mang những đặc trưng riêng. Người học là đối
tượng tác động của người dạy, đồng thời là chủ thể mà các
hoạt động của họ, trong đó đặc biệt là phương pháp học dưới
sự tác động của phương pháp dạy mang lại hiệu quả như thế
nào, tạo ra những sự thay đổi trong nhận thức, tư duy và hành
động phụ thuộc vào sự hứng thú, nhu cầu và ý chí của cả
8


người dạy và người học. nếu người dạy không tạo ra một môi
trường dạy học mà ở đó có sự tương tác giữa nhu cầu, mục
đích của người dạy và người học thì phương pháp tác động
không thể đạt được kết quả như mong muốn. vì vậy, PPDH
trước tiên đòi hỏi giáo viên phải đề ra mục đích của mình và
tiến hành hoạt động với những phương tiện, điều kiện mà
mình có. Nhờ các tác động dạy học của người thầy, người học
thực hiện quá trình lĩnh hội và vận dụng kiến thức đạt được
những mục tiêu, mục đích đặt ra. Kết quả đó đánh giá sự
tương tác giữa phương pháp và mục đích dạy học.

Từ những sự tiếp cận, phân tích những quan điểm, định
nghĩa về PPDH, có thể đưa ra một định nghĩa về PPDH như
sau: PPDH là cách thức hoạt động có tiến trình, phối hợp,
tương tác với nhau giữa người dạy và người học nhằm đạt
được mục đích dạy học.
PPDH bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học
có sự tương tác với nhau, trong đó phương pháp dạy giữ vai
trò chỉ đạo, còn phương pháp học giữ vai trò chủ động, có
tính độc lập tương đối, chịu sự chi phối và tác động trở lại
phương pháp dạy.
9


Ngày nay với sự phát triển nhanh về nhiều mặt của xã
hội, xã hội cần có những người có bản lĩnh, có năng lực tư
duy sáng tạo, dám nghĩ dám làm, tạo nên xu thế chung của thế
giới là coi trọng quan điểm thứ ba. Việt Nam cũng không nằm
ngoài xu thế đó, cụ thể là xu hướng này đang được Đảng, Nhà
nước, các bộ ngành giáo dục đặc biệt quan tâm là “ lấy người
học làm trung tâm”. Cũng có nhiều quan điểm khác nhau bàn
về việc này, tuy nhiên, tư tưởng này không mới, nó xuất hiện
hàng trăm năm nay và vẫn còn là một tư tưởng tiến bộ. Nó đã
và đang chuyển sang một quan điểm mới đó là việc lấy người
học làm trung tâm thành lấy việc chiếm lĩnh và ứng dụng kiến
thức, kỹ năng làm trung tâm, làm thước đo để dánh giá kết
quả, chất lượng dạy học. vấn đề đặt ra là hiểu và quán triệt nó
như thế nào khi đưa vào thực tiễn để tránh cực đoan. Một số
nhà giáo dục đã khắc phục tư tưởng đó một cách đúng đắn
theo hướng tổ chức cho học sinh học tập tích cực, một trong
những tư tưởng đó có được sử dụng phương pháp đóng vai.

Phương pháp đóng vai trong dạy học
Khái niệm phương pháp đóng vai

10


Sự tồn tại của xã hội với những mối quan hệ phức tạp
được ví như một sân khấu lớn, trong đó tất cả mọi người đều
được ví như những diễn viên. Trong sân khấu này, mỗi cá
nhân hay mỗi nhóm đều đảm nhận những vai trò nhất định.
Điều này giống như những vai diễn trên sân khấu, nhưng khác
biệt ở điểm những diễn viên trên sân khấu thì hóa thân thành
người khác, còn trong sân khấu cuộc sống và sân khấu xã hội,
mỗi người tự thể hiện chính mình với những vị trí, vai trò
khác nhau. Trong cuộc sống mỗi cá nhân phải đảm nhiệm
nhiều vai trò khác nhau, chúng thường xuyên thay đổivà để
thực hiện hoàn hảo “vai diễn” vị trí, chức năng, nhiệm vụ, vai
trò của mình ở từng thời điểm nhất định, đòi hỏi phải có rất
nhiều yếu tố. Trong đó những yếu tố quyết định là nhận thức
– hiểu biết, kinh nghiệm – sự trải nghiệm, bản lĩnh, sự thích
nghi và tương tác giữa chủ thể (cá nhân, cá thể, nhóm) với
môi trường sống (tự nhiên, gia đình , cộng đồng, xã hội).vì
vậy, thuật ngữ “ đóng vai” là một thuật ngữ không còn xa lạ
đối với chúng ta và trên thực tế nó đã được ứng dụng rất phổ
biến. Tuy nhiên trong nhận thức và quan niệm của nhiều
người, vẫn thường đồng nghĩa đóng vai với hóa thân thành
các vai diễn trong các loại hình nghệ thuật ( sân khấu, chèo,
11



tuồng, ca kịch,cải lương), thông dụng và phổ biến nhất theo
nghĩa đóng vai là đóng kịch.
Ngay từ nhỏ, chúng ta đã được tiếp xúc với các loại hình
nghệ thuật phải diễn bằng cách nhập vai hóa thân vào nhân
vật. Chẳng hạn, từ khi đi học mẫu giáo, chúng ta được tham
gia vào các trò chơi đóng vai theo chủ đề ( gia đình, người
bán hàng và mua hàng, GV và HS,...). Đây là một loại trò
chơi trẻ em được thực hiện ở trong trường mầm non. Do đó,
trong cuốn Giáo dục Mần Non ( NXB. Đại học Quốc Gia Hà
Nội 2004) của nhóm tác giả Phạm Thị Châu đã chỉ rõ vai trò
của các trò chơi này: “ là loại trò chơi trong đó trẻ đóng một
vai chơi cụ thể để tái tạo lại những ấn tượng, những xúc cảm
mà trẻ em thu nhận được từ một môi trường xã hội của người
lớn nhờ sự tham gia tích cực của trí tưởng tượng” [8, tr15]
Theo Từ điển tiếng việt của Hoàng Phê: “ Đóng vai là
thể hiện nhân vật trong kịch bản lên sân khấu hay màn ảnh
bằng hành động, nói năng như thật. Khi một vấn đề, một chủ
đề nào đó trong cuộc sống thực hiện được xây dựng thành
một vỡ kịch thì đó được gọi là kịch bản, nhưng để thể hiện nội
dung kịch bản đó, người diễn viên phải đảm nhận sắm vai một
nhân vật và biểu diễn vai đó, quá trình đó được gọi là đóng
12


vai” [38; tr 337]. Đóng vai mà thông dụng nhất, phổ biến nhất
là đóng kịch đã được sử dụng trong lớp học và cho thấy hiệu
quả đạt được rất cao nếu có sự chuẩn bị thật chu đáo.
Đóng vai cũng có thể hiểu là bất cứ hoạt động nói nào
trong đó hoặc là bạn đang mượn vai trò của người khác, hoặc
là bạn vẫn là mình nhưng tưởng tượng mình đang ở trong một

tình huống không có thật nào đó. Đóng vai được áp dụng
trong hoạt động dạy học nhằm mục đích nâng cao sự hiểu biết
về tri thức, kỹ năng, thái độ của học sinh.
Trong mọi hoạt động của người học, bằng việc nhập vai
vào các nhân vật, người học sẽ chủ động tìm hiểu, nghiên
cứu, thu thập kiến và được hoạt động trực tiếp trong suốt quá
trình đóng vai. Đóng vai là một trò chơi, trò chơi đóng vai,
trong đó giáo viên đảm nhiệm phần kịch bản, là đạo diễn, còn
học sinh sẽ thể hiện các vai diễn đã có trong kịch bản. Sự
tham gia, hoạt động nhập vai trực tiếp của người học trong
suốt quá trình đóng vai không những giúp người học hiểu sâu
kiến thức mà còn thông qua đó, người học có cơ hội hình
thành kinh nghiệm cá nhân, vận dụng vào thực tiễn.

13


Đóng vai thông qua hình thức trò chơi hay đóng vai
thông qua hình thức các nhân vật trong các câu chuyện, tình
huống được thực hiện trên lớp hoặc ở nhà chính là những hoạt
động đơn giản, đầu tiên, bước đầu làm quen và thể hiện
phương pháp đóng vai. Sự nhập vai đó, khi tham gia vào quá
trình dạy học, có sự tương tác giữa giáo viên và học sinh, nó
trở thành một phương pháp phổ biến và mang lại hiệu quả
cao. Trên cơ sở đóng vai, người học thực hiện các vai diễn,
thể hiện năng lực của mình, tác động đến tư duy, tình cảm,
thái độ. Tạo cơ hội cho người học có môi trường học tập tốt,
như tạo hứng thú, rèn luyện kỹ năng nói, giáo tiếp và ứng xử
trong cuộc sống hàng ngày.
Như vậy, có thể nói, đóng vai là sự thể hiện, hóa thân

vào các vai diễn , thông qua các tình huống, các câu chuyện,
kịch bản phù hợp với nội dung học tập được tổ chức trong
hoạt động dạy học nhằm giúp người học nhận thức sâu rộng
hơn các nội dung học tập đặt ra và đạt được các mục tiêu của
quá trình dạy học.
Dựa trên các quan niệm về đóng vai trong dạy học,
nhiều tác giả đã đưa ra những quan niệm về PPĐVnhư sau:
14


Theo tác giả Phan Trọng Ngọ, trong cuốn “ Dạy học và
PPDH trong nhà trường”, NXB. Đại học Sư phạm Hà Nội đã
khẳng định: “ Phương pháp đóng kịch trong dạy học là giáo
viên cung cấp kịch bản và đạo diễn, học viên hành động theo
các vai diễn. Qua đó học được cách suy nghĩ, thể hiện thái độ
và hành động cũng như các kỹ năng ứng xử khác của các
nhân vật trong kịch bản” [35,tr 283]
PGS.TS. Trần Thị Tuyết Oanh cho rằng, “ Đóng kịch là
phương pháp dạy học, trong đó giáo viên tổ chức quá trình
dạy học bằng cách dây dựng kịch bản và thực hiện kịch bản
đó nhằm giúp học sinh hiểu sâu sắc nội dung học tập” [36,
tr227].
Cả hai tác giả trên đều nhấn mạnh qua phương pháp dạy
học đóng vai trong đó giáo viên hình thành kịch bản có nội
dung học tập, yêu cầu người học đóng các vai diễn sẵn có.
Bản chất là sự gia công sư phạm của giáo viên, chế biến nội
dung học tập thành kịch bản phù hợp để người học sử dụng
kich bản đó và nhập vai.
Trong tài liệu Bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương
trình sách giáo khoa lớp 10 THPT, Bộ Giáo dục và Đào tạo,

15


2006, có viết: “ Đóng vai là phương phương pháp tổ chức cho
người học thực hành, “ làm thử” một số cách ứng xử nào đó
trong một tình huống giả định”, [13,tr17]. Trong định nghĩa
này, các tác giả đã tiếp cận theo hướng GV nên cho tình
huống mở, không cho trước “kịch bản” và người học phải tự
tạo ra kịch bản, lời thoại liên quan đến nội dung kiến thức,
thái độ, kỹ năng cần đạt được của bài học để đóng vai.
Theo tác giả Nguyễn Văn Cư – Nguyễn Duy Nhiên
( đồng chủ biên), “ Dạy và học môn GDCD ở trường THPT,
những vấn đề lý luận và thực tiễn”, NXB. Đại học Sư phạm ,
2008 cho rằng: “ PPĐV là PP tổ chức cho HS thực hành một
số cách ứng xử nào đó trong tình huống giả định để nắm
vững nội dung bài học” [ 15, tr22]
Trong cuốn “ phương pháp dạy học môn GDCD ở
trường THPT”, 2011, NXB. Đại học Sư phạm, tác giả Đinh
Văn Đức – Dương Thị Thúy Nga ( đồng chủ biên) cho rằng: “
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho người học thực hành, “
làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả
định” [20, tr169]. Theo cách định nghĩa này, các tác giả đã đi
theo hướng giáo viên nên cho tình huống mở, không cho
trước “ kịch bản” và người học sẽ tự sáng tạo kịch bản, lời
16


thoại liên quan đến nội dung hay thể hiện nội dung kiến thức,
thái độ, kỹ năng cần đạt được của bài học để đóng vai.
Từ những định nghĩa trên cho chúng ta thấy, dù có sự

khác nhau nhất định về sự thể hiện vai trò, ai đóng vai trò chủ
động hơn giữa người day ( GV ) và người học ( HS ) nhưng
về cơ bản vẫn cho rằng, đóng vai là sự thể hiện vai diễn của
người học theo các kịch bản đã định trước ( hoặc là của người
dạy hoặc là của người học). Những định nghĩa đã cho thấy
bản chất và những hình thức của dạy học đóng vai chính là
dạy học thông qua hình thức đóng kịch. Tuy nhiên, cần nhấn
mạnh rằng, đống vai có các hình thức, mức độ, yêu cầu và
mang lại hiệu khác nhau. Dạy học bằng phương pháp đóng
vai không chỉ dừng lại ở việc đóng kịch, bao gồm việc xác
định, lựa chọn nội dung, xây dựng kịch bản, phân vai, luyện
tập và thể hiện vai diễn mà điều quan trọng hơn là từ việc
đóng kịch ấy rút ra bài học nhận thức, thái độ và kỹ năng gì
cho người học. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa và phát triễn các
định nghĩa trước đây, căn cứ vào hình thức thể hiện và phạm
vi, hiệu quả ứng dụng của đóng vai trong dạy học có thể đưa
ra định nghĩa về phương pháp đóng vai như sau:

17


Phương pháp đóng vai là phương pháp dạy học thông
qua hình thức đóng kịch, diễn xuất – sự nhập tâm, hóa thân
của học sinh vào những nhân vật cụ thể theo kịch bản và thể
hiện thái độ, tư tưởng, cách ứng xử của những nhân vật, trên
cơ sở đó thực hành, trải nghiệm rút ra những bài học nhận
thức và kỹ năng sống phù hợp, tích cực.
Từ định nghĩa này có thể khẳng định, trọng tâm hay bản
chất của PPĐV chính là việc ứng dụng các giá trị của nghệ
thuật đóng kịch vào quá trình dạy học, nhưng không phải chỉ

trong khuôn khổ của hình thức đóng kịch, một loại hình nghệ
thuật. Việc đóng vai của học sinh, không nhất thiết phải là sự
thể hiện các vai diễn của nhiều người có sự đối thoại hay
ngôn ngữ biểu diễn, mà có khi chỉ là ngững lời độc thoại kết
hợp hành vi – ngôn ngữ không dùng lời nói để thể hiện
( chẳng hạn học sinh đóng vai chính khách, nhà hoạt động
chính trị - xã hội, nhà quản lý, lãnh đạo … thuyết trình, diễn
thuyết, hùng biện, biện hộ về một nội dung hay vấn đề nào
đó); cũng có thể học sinh đóng vai giáo viên để điều hành, “
làm thử” tổ chức một hoạt động, một nội dung học tập nào đó.
Giáo viên có vai trò định hướng nội dung và giao nhiệm
vụ cho học sinh lựa chọn nội dung đóng vai. Còn học sinh có
18


nhiệm vụ xây dựng kịch bản bao gồm tất cả các khâu từ lựa
chọn nội dung kiến thức của bài để viết nội dung kịch bản
đóng vai, viết lời thoại, phân vai, luyện tập đến khi diễn xuất
tình huống trên lớp. Tuy nhiên quá trình này không thể thiếu
sự định hướng của giáo viên. Nhưng để học sinh hào hứng,
nhiệt tình tham gia và thể hiện sự sáng tạo của mình thì giáo
viên nên giao nhiệm vụ va để học sinh chủ động thực hiện.
Như vậy, dạy học thông qua đóng vai là một phương
pháp dạy học giúp học sinh tích cực tham gia, sáng tao, thể
hiện bản thân, hòa nhập vào quá trình dạy học, vào môi
trường học tập linh hoạt, năng động. Đóng vai, phân tích tình
huống, cách ứng xử, giải quyết vấn đề, truyền tải thông tin,
thông điệp về kiến thức, thái độ, kỹ năng sẽ tác động sâu sắc
đến suy nghĩ và hành động của cả người dạy và người học.
song, để ứng dụng và phát huy giá trị , hiệu quả của phương

pháp đóng vai, đòi hỏi phải có những điều kiện, quy trình và
những yêu cầu nhất định đối với nhà trường, giáo viên và học
sinh.
-Đặc trưng của phương pháp đóng vai và các hình thức
đóng vai.
19


-Đặc trưng của phương pháp đóng vai.
Dạy và học thông qua các hoạt động của người học.
Phương pháp đóng vai dựa trên cơ sở tâm lý học cho
rằng nhân cách được hình thành và phát triễn thông qua các
hoạt động chủ động, các hành động có ý thức. Trí tuệ của trẻ
phát triển nhờ sự “ đối thoại” giữa chủ thể với đối tượng và xã
hội. Mối quan hệ giữa học và làm đã được nhiều tác giả lớn
đề cập: “ Cách tốt nhất để hiểu là làm” ( Kant); “ Học để
hành: Học và hành phải đi đôi. Học mà không hành thì vô ích;
Hành mà không học thì không trôi chảy” ( Hồ Chí Minh)
Trong phương pháp dạy học đóng vai, học sinh – đối
tượng của hoạt động “dạy”, đồng thời là chủ thể của hoạt
động “ học” – được cuốn hút vào các hoạt động học tập do
giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó học sinh tự lực
khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động
tiếp thu những tri thức đã được giáo viên chuẩn bị sẵn.
Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học
Phương pháp đóng vai xem việc rèn luyện phương pháp
học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao
20



hiệu quả dạy mà còn là mục tiêu của dạy học. Từ lâu, các nhà
sư phạm đã đưa ra nhận thức ý nghĩa của việc dạy cho người
học phương pháp học

“Người thầy trung bình chỉ biết nói.

Người thầy giỏi biết giải thích. Người thầy xuất chúng biết
minh họa. Người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng” William A. Warrd.
Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kỹ
năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học,
khơi dậy tiềm năng vốn có trong mỗi con người, kết quả nhận
thức sẽ được nhân lên gấp bội, sẽ “ học một, biết mười” như
ông cha ta thường nói. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh
mặt hoạt động tự học trong quá trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự
chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động.
Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác
Từ xưa, song song với câu “ không thầy đố mày làm
nên”, cha ông ta còn có câu “ Học thầy không tầy học bạn” là
đã đề cao về tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập
hợp tác trong nhóm, lớp học sinh.
Trong học tập, không phải mọi tri thức, kỹ năng, thái độ
đều được hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân.
21


Lớp học là môi trường giao tiếp thầy – trò, trò – trò, tạo nên
mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trong tập thể, ý kiến
mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ,qua đó người
học nâng lên một trình độ mới.
Trong nhà trường, phương pháp đóng vai được tổ chức ở

cấp nhóm, tổ, lớp, hoặc trường. Nhưng được sử dụng phổ biến
nhất trong dạy học là hoạt động hợp tác trong nhóm nhỏ từ 4 đến
6 học sinh. Học tập hợp tác theo nhóm làm tăng hiệu quả học
tập, nhất là giải quyết những vấn đề khó sẽ xuất hiện nhu cầu
phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong
hoạt động theo nhóm sẽ không thể hiện có hiện tượng ỷ lại, năng
lực của mỗi thành viên được bộc lộ, uấn nắn, phát triển tính tư
duy, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ.
Có thể thấy rằng phương pháp đóng vai là một phương
pháp dạy học phát huy được tính tích cực, tự giác của người
học. nó đã tạo ra được môi trường học tập thuận lợi mà ở đó
trí tuệ tập thể đã được phát huy cũng như vai trò hoạt động xã
hội của cá nhân được trải nghiệm để nhận thức sâu sắc.
-.Các hình thức đóng vai.

22


PPĐV có nhiều kiểu và hình thức tổ chức vận dụng
trong dạy học khác nhay. Nhưng căn cứ vào nội dung kiến
thức của bộ môn GDCD, của từng bài, và mức độ nhận thức,
khả năng xây dựng kịch bản của HS, có thể kết hợp những
kiểu dạy học đem lại hiệu quả cao bằng PPĐV. Việc phân loại
hình thức đóng vai được dựa trên những tiêu chí hay cách tiếp
cận khác nhau:
Thứ nhất, dựa theo tiêu chí thời gian chuẩn bị có đóng
vai trực tiếp trong cùng một tiết học và đóng vai có sự chuẩn
bị trước ở nhà
Một là, đóng vai trực tiếp là hình thức đóng vai mà yêu
cầu về việc xây dựng kịch bản theo nhiệm vụ học tập được

đặt ra và thể hiện trực tiếp trong cùng một tiết học. Đóng vai
theo hình thức này rất ít hoặc không có thời gian chuẩn bị, nó
diễn ra một cách nhanh chóng, dựa trên một định hình nội
dung, kịch bản siêu tốc, một cá nhân hoặc một nhóm HS sẽ
thể hiện việc diễn xuất ngay trên lớp, với những lời thoại
mang đậm dấu ấn ngẫu hứng nhưng không vượt ra ngoài
khuôn khổ nội dung đã định hướng. Đóng vai theo hình thức
này là một thách thức, mới đầu khó thực hiện nhưng với
những nhóm HS có năng khiếu, năng lực và tự tin thì sẽ
23


nhanh chóng thích ứng và vượt qua, sự thể hiện ở những lần
tiếp theo sẽ tốt hơn. Hình thức này là khó thực hiện nhưng có
thế mạnh là khơi dậy và khích lệ rất lớn đối với HS vì nó
khích lệ sự thể hiện bản lĩnh, thể hiện bản thân của người học
trong bối cảnh.
Hai là, đóng vai có sự chuẩn bị trước ở nhà là hình thức
đóng vai diễn ra theo một quy trình bắt đầu nhận nhiệm vụ từ
khi kết thúc tiết học trước cho đến khi thực hiện ở tiết sau.
Hình thức này ưu điểm là GV và HS có sự lựa chọn nội dung,
có thời gian để xây dựng kịch bản, lời thoại và thục luyện
trước nên khi thực hiện trên lớp luôn đảm bảo tính logic,
thuồn thục và đúng theo định hướng. Đây là hình thức được
ứng dụng phổ biến nhất khi sử dụng PPĐV trong dạy học.
Thứ hai dựa vào yêu cầu nắm kiến thức – mục đích học
tập.
Một là, đóng vai tái hiện – ghi nhớ là hình thức đóng vai
dựa trên nền kiến thức đã biết, xây dựng nội dung kịch bản
với những tình huống, vai diễn đơn giãn chỉ là kịch bản hóa

những kiến thức, kỹ năng đã được phân tích từ trước. Hình
thức này có ưu điểm là giúp học sinh tái hiện, ghi nhớ kiến
24


thức một cách bền vững nhưng ít có sáng tạo vì bị chi phối
bởi những cái đã biết.
Hai là, đóng vai suy luận – phát triển là hình thức đóng
vai mà kịch bản , lời thoại, những vấn đề đặt ra trong kịch bản
và vai diễn được xây dụng, phát triễn từ những kiến thức đã
biết suy luận mở rộng ra nội dung kiến thức và những cách
ứng xử mới. Hình thức này tạo cho HS những hứng thú bởi
phải tim hiểu, phát hiện để vượt qua những cái đã biết.
Phương châm của hình thức này là nếu chúng ta làm những
cái chưa biết thì chúng ta thu được những cái chưa có.
Ba là, đóng vai liên hệ - ứng dụng là hình thức đóng vai
trong đó nội dung kịch bản được xây dựng chủ yếu dựa trên
những tình huống, những hành vi ứng xử diễn ra thường
xuyên trong cuộc sống nhưng được hình tượng hóa, kịch bản
hóa và được thể hiện qua các vai diễn thông qua đó giúp HS
rút ra những bài học nhận thức, điều chỉnh hành vi ứng xử của
bản thân khi gặp phải những vấn đề, tình huống tương tự.
Thứ ba, dựa trên tiêu chí sự tương tác giữa HS với HS,
HS với GV trong quá trình thực hiện

25


×