Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

CƠ sở lí LUẬN và THỰC TIỄN của VIỆC sử DỤNG TRUYỆN kể TRONG dạy học môn GIÁO dục CÔNG dân PHẦN CÔNG dân với đạo đức ở TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (455.92 KB, 47 trang )

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG
TRUYỆN KỂ TRONG DẠY
HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG
DÂN PHẦN CÔNG DÂN VỚI
ĐẠO ĐỨC Ở TRƯỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG

1


- Cơ sở lí luận của việc sử dụng truyện kể trong dạy học môn
Giáo dục công dân phần Công dân với đạo đức ở trường
Trung học phổ thông
- Sử dụng truyện kể trong dạy học
- Quan niệm về truyện kể
Theo Từ điển văn học phổ thông, “Truyện” là thể loại tự
sự, có cốt truyện và nhân vật, thủ pháp nghệ thuật chính là kể,
được chia thành nhiều loại gồm: truyện dài, truyện vừa,
truyện ngắn, truyện dân gian, ... [42, trang 252); Còn “kể” là
“một động từ biểu thị hành động nói” [41, trang 507]. Khi
thực hiện hành động nói để đưa những tình tiết, cốt truyện đến
với người khác thì truyện kể đã trở thành nhiên liệu cho hoạt
động kể chuyện.
Truyện kể là văn bản ghi lại sự việc xảy ra, có các nhân
vật và tình tiết diễn biến theo trình tự thời gian tạo nên sự việc
đó. Nội dung truyện kể chính là chuỗi sự việc xảy ra trong
truyện và có ý nghĩa nhất định.

2



- Quan niệm về sử dụng truyện kể trong dạy học
Việc sử dụng truyện kể trong dạy học đã và đang được
nhiều nhà giáo dục trên thế giới cũng như trong nước quan
tâm nghiên cứu.
M.K. Bogoliupxkaia và V.V. Septsenco cho rằng truyện
kể có giá trị vơ cùng to lớn trong q trình dạy học. Nó khơng
chỉ thu hút đối với trẻ em mà cả người lớn cũng vơ cùng thích
thú việc sử dụng truyện kể. Trong đề tài nghiên cứu “Dạy học
ở trường tiểu học” của Chu Huy cũng cho rằng truyện kể
ngồi vai trị là một mơn học đối với bậc tiểu học nó cịn là
phương tiện dạy học cho các cấp học cao hơn. Vì ở truyện kể
ta bắt gặp những hình ảnh, thơng tin, nét văn hóa của dân tộc,
… Thông qua việc kể và nghe kể hình thành ở người dạy kỹ
năng trình bày diễn đạt tốt một câu chuyện thu hút người khác
chú ý lắng nghe. Ngồi ra, nó cịn giúp người nghe ghi nhớ
thơng tin, tổng hợp sắp xếp cốt truyện, …
Những quan niệm trên cho thấy: người GV có thể lựa
chọn cho mình những phương pháp khác nhau phù hợp với
nội dung kiến thức cần truyền đạt trong một giờ dạy. Việc sử
dụng truyện kể trong dạy học đã và đang được nhiều GV ở
3


các cấp học vận dụng. Người dạy sẽ lựa chọn những câu
truyện phù hợp với nội dung bài học, phù hợp với lứa tuổi HS
cần truyền đạt. Truyện kể có thể tùy loại tùy thuộc vào hướng
sử dụng của người dạy mong muốn. Thông qua việc sử dụng
truyện kể sẽ tạo ra một khơng khí lớp học hồn tồn khác các
kiểu lớp học truyền thống, người kể có thể là người dạy hoặc

là HS, …Từ đó tạo ra sự tương tác giữa GV và HS, giúp HS
thể hiện hơn nữa khả năng tư duy, rèn luyện kỹ năng cho bản
thân mình.
- Phân loại truyện kể dùng trong dạy học
Truyện thần thoại
Thần thoại là loại truyện nảy sinh sớm nhất. C.Mác, nhà
sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học, từng nói: “Thần thoại nào
cũng nhào nặn, chi phối và chinh phục các lực lượng tự nhiên
ở trong trí tưởng tượng và bằng trí tưởng tượng” [28].
Nói một cách khái qt, thần thoại phản ánh mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên ở thời kì tối cổ. Thuật ngữ “tự
nhiên” ở đây được hiểu rộng hơn thuật ngữ “thiên nhiên” vì
ngồi quy luật của thiên nhiên cịn có quy luật của sự sống, sự
chết và nhiều vấn đề đạo đức, triết học khác nữa. Nhân vật
4


của truyện là “thần” nhưng không phải thần linh ma quái theo
quan niệm mê tín dị đoan. Các thần ở đây theo M. Gorki là
những người lao động giỏi được suy tơn.
Truyện kể thần thoại cho HS cịn giúp các em xây dựng
cho các em trí tưởng tượng – một năng lực quan trọng của con
người. Lênin từng nói: “Thật là bất cơng nếu nghĩ rằng óc
tưởng tượng chỉ cần thiết đối với người làm thơ. Ngay cả trong
toán học cũng vẫn cần óc tưởng tượng. Ngay cả việc phát minh
ra phép tính vi phân và tích phân cũng sẽ khơng thể nào có
được nếu thiếu óc tưởng tượng. Ĩc tưởng tượng là một phẩm
chất quý giá vô cùng” [44, trang 235]
Truyện truyền thuyết
Mặc dù giữa truyện thần thoại và truyện truyền thuyết có

điểm chưa phân biệt rõ ràng vì cũng như thần thoại, nhân vật
chính trong truyền thuyết cũng là các vị thần hoặc con người
nhưng đã được thần thánh hóa. Tuy nhiên, người ta vẫn có thể
chỉ rõ đặc điểm khác biệt so với thần thoại là: truyền thuyết
tuy có nhân vật thần linh, có yếu tố siêu phàm nhưng có dính
líu với lịch sử dân tộc thời khuyết sử. Truyền thuyết về các

5


vua Hùng và các nhân vật xoay quanh vua Hùng như Thánh
Gióng, Tản Viên, Mai An Tiêm, …
Dạy kể những truyện truyền thuyết cần chú ý những yếu
tố lịch sử nhằm nâng cao lòng tự hào dân tộc. Tuy nhiên,
chúng ta chỉ coi đây là những chi tiết dã sử dân gian. Cần tạo
khơng khí lịch sử cho tiết dạy kể chuyện truyền thuyết.
Truyện cổ tích
Truyện cổ tích phản ánh quan hệ giữa con nguời với con
người hay nói cách khác đó là những quan hệ xã hội. Xã hội
có đấu tranh giai cấp giữa thống trị và bị thống trị đồng thời
cũng ln có quan hệ ruột thịt, thân thiết, hàng xóm, giữa
những người cùng cảnh ngộ, có đấu tranh chống giặc ngoại
xâm và cũng có đấu tranh trong nội bộ nhân dân. Ví dụ:
truyện Tấm Cám, truyện Thạch Sanh, truyện Cây khế, truyện
Cây tre trăm đốt, truyện Sọ Dừa, ... Trong truyện cổ tích, yếu
tố siêu phàm kì ảo như tiên, bụt vẫn có nhưng xuất hiện ít,
chủ yếu là những tình tiết thể hiện quan hệ giữa người với
người như dì ghẻ - con chồng, anh cả- em thứ, chủ nhà – con
ở, ... thường xuất hiện nhiều lần. Thơng qua nội dung truyện
cổ tích, các em hiểu được đâu là thiện, đâu là ác, đâu là chính

6


nghĩa, đâu là gian tà, hình thành thái độ ứng xử đúng mực và
năng khiếu thẩm mỹ. Kể loại truyện này, GV có điều kiện
phát huy sở trường của mình, tạo nên những giờ học sinh
động, để lại ấn tượng tốt đẹp lâu bền trong lịng HS. Do đó,
bài học rút ra từ những câu chuyện cổ tích rất phù hợp với
một số chuẩn mực, hành vi đạo đức trong chương trình
GDCD phần Cơng dân với đạo đức.
Truyện ngụ ngơn
Ngụ ngơn nghĩa là “lời nói gửi” lời nói có ngụ ý kín đáo
là loại truyện dân gian nhằm nêu lên những ln lí hoặc triết lí
dưới một hình thức kín đáo, thâm thúy (Thỏ và Rùa, Thầy bói
xem voi, …). Nhân vật truyện ngụ ngơn có thể là động vật,
cây cỏ, trăng sao và cũng có thể là người. Nhưng là dù người
hay vật thì đó ln là phương tiện nhằm giúp tác giả dân gian
nêu lên những bài học ln lí hoặc triết lí trong cuộc sống.
Truyện ngụ ngơn dành cho lứa tuổi nhỏ gọi là truyện đồng
thoại.
Truyện cười
Truyện cười hay truyện khôi hài, đây là loại truyện dân
gian lấy tiếng cười làm phương tiện chủ yếu để thực hiện mục
7


đích châm biếm, đả kích, giáo dục hoặc mua vui, giải trí. Đây
là loại truyện ngắn gọn, nặng về lí trí có kết cấu chặt chẽ và
kết thúc bất ngờ. Những truyện như Phù thủy sợ ma, Con rắn
vuông, Đến chết vẫn hà tiện, … là những tiếng cười nhẹ

nhàng mà sâu sắc. Cần phân biệt giữa truyện tiếu lâm (rừng
cười) có nhiều yếu tố tục khơng đưa vào chương trình học.
Dạy thể loại truyện này cần đảm bảo đặc trưng của tiếng
cười, kết thúc ngắn gọn, bất ngờ. GV cần kể tự nhiên để tiếng
cười vui bất ngờ từ câu chuyện chứ không báo trước làm mất
yếu tố bất ngờ.
Truyện lịch sử
Đây là những truyện có nội dung lịch sử nhưng khác với
truyền thuyết, những nội dung lịch sử này gắn liền với những
nhân vật lịch sử có thật trong thời kì đã có sử. Đối với Việt
Nam đó là những truyện kể lịch sử trong quá trình dựng nước
và giữ nước. Ví dụ: chùm truyền thuyết về Hai Bà Trưng, Bà
Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, ... những mẩu
chuyện về các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược, ... Những truyện lịch sử giáo dục sâu sắc cho HS về tình
cảm đối với quê hương đất nước, khơi dậy lòng yêu nước,
8


lịng tự hào dân tộc chân chính. Những tấm gương sáng về
các vị anh hùng dân tộc trong công cuộc dựng nước và giữ
nước sẽ khơi gợi trong HS những khát khao phục vụ Tổ quốc,
phục vụ nhân dân, ý thức trách nhiệm đối với lịch sử, hiện tại
và tương lai.
Truyện danh nhân
Theo nghĩa hẹp, danh nhân là người có tên tuổi với đời,
có đóng góp to lớn cho nền văn minh của con người. Ngồi
danh nhân lịch sử cịn có danh nhân văn hóa, những người có
đóng góp phát kiến, truyền thụ sự tinh hoa mở mang kinh tế
hoặc nghề nghiệp truyền thống cụ thể có lợi cho đất nước,

nhân dân. Ví dụ: truyện Ơng Cao Bá Qt, Ơng tổ nghề
thêu…. Ngồi các danh nhân trong nước cịn có danh nhân thế
giới như Nhà bác học Ê-đi-xơn, Ga-li-lê, Ma-giăng-lăng,
Bông sen trong giếng ngọc, Thần siêu luyện chữ, … Kể loại
truyện này không những các em HS được học tập tấm gương
sáng về lòng yêu nước, tinh thần phuc vụ mà cịn học được ý
chí vươn lên trong học tập, lao động, sáng tạo, phong cách
làm việc vì lợi ích của xã hội loài người. Đây cũng là một bài
học tự giác đến với HS mà khơng có một sự gị bó, quy tắc
nào. Người GV cần chú ý đặc điểm này khi kể chuyện.
9


Truyện người thực việc thực
Đây là loại truyện viết về người tốt, việc tốt có thực
trong đời sống hàng ngày. Nội dung loại truyện này xoay
quanh các gương học tập giỏi, thật thà, dũng cảm, giàu lòng vị
tha, ... Để đảm bảo được tác dụng cảm hóa thực sự và sâu sắc
của loại truyện này, cần tránh những mẫu chuyện có tính chất
ghi chép khơ khan, tẻ nhạt theo phong cách thơng tin báo chí
thiếu tính chất văn học, như vậy sẽ khó trở thành “truyện” và
khó rung động, khó cảm thụ đối với người kể và người nghe.
Vì vậy, chọn được những truyện “người thực việc thực” đặc
sắc quả là rất khó và rất cần thiết.
- Các hướng sử dụng truyện kể trong dạy học
Sử dụng truyện kể để tạo tình huống có vấn đề
Người dạy khi muốn giảng vào bài học mới hoặc một
phần nào đó trong nội dung bài học thơng thường sẽ dùng lời
nói để dẫn dắt HS. Trong trường này, GV có thể sử dụng
truyện kể tạo ra một tình huống có vấn đề nhằm khuyến khích

HS tự tìm tịi, suy nghĩ để giải quyết vấn đề đã đặt ra. Hình
thức kể truyện lúc này lại có hiệu quả, tránh được sự rập

10


khuôn, khô khan trước đây. Và đồng thời cũng tạo ra sự bất
ngờ, thu hút sự chú ý vào của người học tiết dạy hơn.
Sử dụng truyện kể để minh họa nội dung tri thức
Việc sử dụng truyện kể còn có tác dụng để minh họa,
làm rõ nội dung tri thức giúp HS nắm bắt được tri thức bài
học dễ dàng hơn. Truyện kể được dùng lúc này sẽ thay thế
cho việc dùng lý luận để lý giải cho tri thức bài học. Nhưng
kết quả mang lại của nó cũng khơng kém gì việc GV giảng
giải.
Sử dụng truyện kể để xây dựng bài tập nhận thức và
kiểm tra đánh giá
Trong trường hợp này truyện kể được xem là một cách
thức để xây dựng bài tập nhận thức và kiểm tra đánh giá kết
quả học tập của HS. Việc làm này cũng nhằm củng cố lại kiến
thức đã truyền đạt cho người học. Cách thức kiểm tra đánh giá
thông qua truyện kể cũng trở nên nhẹ nhàng, giúp người học
tự chủ hơn khi làm bài tập. Và từ kết quả kiểm tra đánh giá sẽ
giúp người dạy nhìn nhận lại kết quả của việc sử dụng truyện
kể trong dạy học nhằm phát huy những mặt đạt được và sửa
chữa những mặt chưa làm tốt.
11


Tóm lại, khi giảng dạy nội dung bài học về đạo đức, tùy

theo mục đích của mình mà người dạy có thể có hướng sử
dụng truyện kể khác nhau. Khi GV khai thác tối đa việc sử
dụng truyện kể trong dạy học sẽ thấy được mặt tích cực của
nó. Đồng thời sẽ nâng cao được hiệu quả nội dung tri thức
đạo đức cần truyền đạt.
- Sử dụng truyện kể trong dạy học môn Giáo dục công dân
phần Công dân với đạo đức ở trường Trung học phổ thông
- Đặc điểm dạy học môn GDCD phần Công dân với đạo
đức
Đặc điểm dạy học môn GDCD phần Công dân với đạo
đức được thể hiện thông qua:


Thứ nhất, yêu cầu về kiến thức, kỹ năng, thái độ
+ Về kiến thức:
Trình bày từ bao quát “Quan niệm về đạo đức” đi vào
chi tiết từng phạm trù cụ thể “nghĩa vụ”, “lương tâm”, “nhân
phẩm”, “danh dự”. Đồng thời nội dung chương trình cũng chỉ
rõ một số giá trị đạo đức cơ bản mà người công dân ngày nay
cần phải có “ cơng dân với tình u, hơn nhân, gia đình”,
“cơng dân với cộng đồng”, “ công dân với sự nghiệp xây
12


dựng và bảo vệ tổ quốc”, “công dân với một số vấn đề cấp
thiết của nhân loại”. Từ việc chỉ những quan niệm, phạm trù,
giá trị đạo đức cơ bản trên với mục đích cuối cùng là giúp cho
cơng dân nhận thức lại bản thâm đã đạt những chuẩn mực đạo
đức này cũng như còn mặt nào hạn chế để tự mình “tự hồn
thiện bản thân” của mình.

+ Về kỹ năng:
HS biết vận dụng những tri thức đó vào việc phân tích,
xử lý, đánh giá những sự vật, sự việc xảy ra trong cuộc sống.
Đứng trước một tình huống thực tiễn HS sẽ lựa chọn và thực
hiện hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức, biết bảo vệ cái
tốt phê phán và bài trừ cái xấu.
+ Về thái độ:
HS biết yêu thương con người, quê hương, đất nước.
Đồng thời HS sẽ biết bảo vệ những truyền thống văn hóa tốt
đẹp của dân tộc. Tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, biết tôn
trọng pháp luật của Nhà nước. Thực hiện mục tiêu sống có ích
nhằm xây dựng nhân cách con người cao đẹp.
Hệ thống các bài (với nội dung chính) tương ứng phân
phối chương trình
13


Cấu trúc chương trình mơn GDCD phần Cơng dân với
đạo đức ở lớp 10, bao gồm:
Bài 10: Quan niệm về đạo đức (2 tiết)
- Khái niệm đạo đức;
- Phân biệt đạo đức với pháp luật;
- Vai trò của đạo đức với sự phát triển của cá nhân, gia
đình và xã hội.
Bài 11: Một số phạm trù cơ bản của đạo đức (3 tiết)
- Nghĩa vụ;
- Lương tâm;
- Nhân phẩm;
- Hạnh phúc.
Bài 12: Cơng dân với tình u, hơn nhân và gia đình (2

tiết)
- Tình u;
- Hơn nhân;

14


- Gia đình và chức năng của gia đình.
Bài 13: Công dân với cộng đồng (2 tiết)
- Cộng đồng và vai trị của cộng đồng;
- Trách nhiệm của cơng dân đối với cộng đồng (nhân
nghĩa,

hịa

nhập,

hợp pháp).
Bài 14: Cơng dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc (2 tiết)
- Lòng yêu nước
- Trách nhiệm xây dựng tổ quốc;
- Trách nhiệm bảo vệ tổ quốc.
Bài 15: Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân
loại (1 tiết)
- Ô nhiễm môi trường;
- Bùng nổ dân số;
- Những dịch bệnh hiểm nghèo và trách nhiệm của công
dân.
15



Bài 16: Tự hoàn thiện bản thân (1 tiết)
- Tự nhận thức về bản thân;
- Tự hoàn thiện bản thân.


Thứ hai, đặc điểm tri thức
+ Kế thừa tri thức môn Đạo đức ở bậc tiểu học và môn
GDCD ở bậc THCS.
Ở chương trình mơn đạo đức bậc tiểu học tập trung vào
giáo dục cách hành xử cho HS có tính luân lý trong giao tiếp
với người thân trong gia đình và thầy, cô bạn bè trong nhà
trường. Đồng thời, bước đầu giáo dục ý thức, hành vi của
người công dân, một số phẩm chất đặc trưng của người lao
động phù hợp với lứa tuổi của các em.
Môn GDCD ở cấp THCS bao gồm những chuẩn mực
đạo đức (là sự tiếp nối của những chuẩn mực hành vi đạo đức
cụ thể đã học ở tiểu học, nhưng có tính khái qt cao hơn, thể
hiện những yêu cầu cơ bản về đạo đức đối với người công dân
trong giai đoạn hiện nay) và những chuẩn mực pháp luật (đó
là quyền và nghĩa vụ của công dân, quyền và nghĩa vụ của

16


nhà nước đối với công dân, được sắp xếp theo các lĩnh vực
của đời sống từ đơn giản đến phức tạp).
Ở bậc trung học phổ thông, môn GDCD đã kế thừa
những tri thức từ hai cấp học trước nhưng nó được nâng cao

hơn phù hợp với trình độ nhận thức và tâm lý lứa tuổi của HS.
Hình thành nhiều kỹ năng sống giúp HS nhận thức rõ hơn
việc được phép làm và việc khơng được làm. Đó là cơ sở
khoa học để hình thành niềm tin giúp HS xác định phương
hướng hoạt động trong cộng đồng.
+ Tri thức đạo đức trong mơn GDCD ở trung học phổ
thơng mang tính khái qt, trừu tượng, khó nắm bắt. Vì thế,
nếu GV sử dụng truyện kể sẽ làm cho vấn đề trở nên cụ thể
hơn. Ở lứa tuổi HS THPT các em đang phát triển nhưng chưa
hoàn thiện đặc biệt ở lứa học khi khối 10. Đơi khi trong suy
nghĩ của HS cịn đan xen giữa thiếu nhi và người trưởng
thành. Vì thế, tri thức mang tính trừu tượng của chương trình
GDCD lớp 10 là một khó khăn khơng nhỏ đối với các em. Do
đó, trong q trình lên lớp, người GV cần cụ thể những tri
thức mang tính khái qt đó qua những câu chuyện được kể
vừa tương thích với nội dung bài vừa phù hợp với tâm lý lứa
tuổi của HS. Ngồi việc tạo khơng khí học tập sơi động, hấp
17


dẫn sử dụng truyện kể còn giúp người học chủ động, tích cực
trong học tập và dễ dàng hơn lĩnh hội tri thức.
+ Các chuẩn mực đạo đức luôn gắn liền với thực tiễn
cuộc sống hàng ngày. Mỗi chuẩn mực đạo đức đều xuất phát
từ thực tiễn xã hội, nó tồn tại và thay đổi theo sự thay đổi của
xã hội. Do đó mỗi HS khi nắm bắt được tri thức đạo đức
thơng qua nội dung bài học sẽ hình thành hành vi đạo đức cụ
thể cho bản thân. Những hành vi đạo đức đó khi đưa vào thực
tiễn cuộc sống được mọi người cơng nhận, khen thưởng sẽ
góp phần tạo nên động lực cho HS phát huy hơn nữa những

việc làm tốt đẹp và tránh xa cái xấu, cái ác trong xã hội. Và từ
những HS tốt sẽ làm nên những tấm gương sống giúp các thế
hệ HS tiếp nối truyền thống phát huy cái đẹp cái thiện, dẹp bỏ
cái xấu cái ác. Đưa xã hội ngày một văn minh hiện đại và
mang đậm tính nhân văn hơn.
+ Hai mạch nội dung kiến thức (một số phạm trù; một số
giá trị) của phần Công dân với đạo đức trong chương trình
GDCD lớp 10 được thể hiện cụ thể qua sơ đồ sau:

18


Với các phạm trù tri thức mang tính khái quát, trừu tượng
nhưng gắn với thực tiễn đời sống. Và một số giá trị giúp hướng
tới các giá trị nhân văn trong cuộc sống, giúp HS nhận ra các
giá trị của cuộc sống, định hướng hành vi.

19


- Đặc điểm truyện kể dùng trong dạy học môn GDCD
phần Công dân với đạo đức
Đối với truyện kể được dùng trong dạy học môn GDCD
phần Công dân cần lưu ý một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, nội dung truyện được sử dụng để kể phải phù
hợp với nội dung tiết dạy. Cho nên người dạy phải bỏ ra
nhiều thời gian đọc và chọn lọc những mẫu chuyện tương
ứng. Ví dụ: trong tiết dạy “Tự hoàn thiện bản thân” người
dạy có thể chọn những câu chuyện nói về sự cố gắng vượt
qua khó khăn để khắc phục những điểm yếu đồng thời phát

huy những điểm mạnh của bản thân như chuyện về “Thầy
Nguyễn Ngọc Ký”. Hay trong quá trình phân tích cho HS
hiểu “như thế nào là tình u chân chính” GV có thể sử dụng
câu chuyện “1001 con hạt giấy” để dẫn chứng cho việc yêu
một người là ở đó có sự hy sinh cho người mình u. Cho dù
bản thân phải gánh chịu tiếng xấu là bội bạc nhưng người
con gái trong truyện vẫn chấp nhận để người cơ u có thêm
nghị lực phấn đấu cho một tương lai tươi sáng. Khi u nhiều
người ln có tư tưởng chiếm hữu nhưng ở nhân vật nữ này
cô không mong muốn mình trở thành gánh nặng của người
u và cơ chấp nhận lìa đời mà khơng có anh bên cạnh…
20


Hoặc khi nói về lịng nhân nghĩa, GV cần có một ví dụ cụ thể
cho HS hiểu “như thế nào là lòng thương người và đối xử với
người theo lẽ phải”.
Thứ hai, không phải truyện kể nào cũng được sử dụng
trong dạy học mà người dạy cần chọn lọc cho phù hợp với nội
dung, với tâm lý lứa tuổi của đối tượng giáo dục. Tức là,
những câu chuyện phải giúp cho GV thuận lợi trong việc đưa
kiến thức đến với HS, thuận lợi cho HS tiếp cận tri thức.
Đồng thời những câu chuyện này phải có tính văn chương tức
ngơn ngữ đẹp, nội dung nhân văn, đảm bảo sự trong sáng của
tiếng Việt. Và truyện phải có độ dài tương ứng với thời gian
cho phép trong một tiết dạy. Nếu truyện quá dài sẽ gây ra sự
nhàm chán cho người nghe và làm cho người dạy khơng cịn
đủ thời gian để truyền đạt đầy đủ nội dung kiến thức cần
truyền đạt. Ngồi ra, cũng cần có những tình tiết hấp dẫn
trong truyện để tạo hứng thú cho HS, tránh những truyện nhạt

làm cho HS phân tâm không theo dõi nội dung GV cần giảng
dạy. Trong kho tàng truyện kể Việt Nam và trên thế giới có vơ
số những mẫu truyện hay. Tuy nhiên, trong những câu truyện
đó cũng có những truyện mang ngôn ngữ dung tục người GV
cần tránh sử dụng khi lên lớp. Hơn thế nữa, ở lứa tuổi THPT
21


của HS thì người dạy cần quan tâm lựa những câu truyện phù
họp về lứa tuổi nó sẽ giúp người học dễ tiếp thu nội dung bài
học hơn. Ví dụ như trong phim “Thứ 3 học trị” có một nội
dung nhưng xuất hiện nhiều tình tiết được tạo nên từ những
câu chuyện khác nhau của từng cá nhân. Ở phim này có một
tình tiết là một bạn HS đã lỡ mang thai với bạn học của mình.
Lúc bấy giờ căng thẳng xảy ra không chỉ riêng đối với cô gái
mà cịn ảnh hưởng đến gia đình, GV chủ nhiệm và nhà
trường. Từ câu chuyện đó GV có thể sử dụng minh họa cho
nội dung “Những điều nên tránh trong tình yêu” mà cụ thể là
quan hệ trước hôn nhân. Câu chuyện vừa là một minh chứng
cho HS thấy được hậu quả của việc sa ngã khi yêu sẽ dẫn đến
một tương lai tăm tối. Đồng thời giáo dục, răn đe HS tránh
lầm đường, lạc lối khi yêu.
Như đã nói ở trên, sử dụng truyện kể ngoài ý nghĩa là
phương pháp dạy học nó cịn là phương pháp giáo dục, bồi
dưỡng hành vi đạo đức của HS. Cho nên, người GV khi nói
cần dùng nghệ thuật, hình ảnh giúp cho người học tự phát
họa, mơ phỏng lại tình tiết cụ thể của truyện đang nghe. Điều
này sẽ giúp cho HS hình thành tư tưởng, tình cảm về chuẩn
mực đạo đức xã hội đề ra.
22



- Vai trò của việc sử dụng truyện kể trong dạy học môn
GDCD phần Công dân với đạo đức ở trường Trung học phổ
thơng
- Cụ thể hóa tri thức đạo đức có trong bài dạy
Tri thức đạo đức là kết quả của nhận thức đạo đức cũng
như tri thức nói chung, tri thức đạo đức tồn tại dưới hai dạng:
dạng kinh nghiệm và dạng lý luận. Tri thức đạo đức kinh
nghiệm là tri thức thông thường về cái thiện, cái ác, về đức
hạnh và thói xấu, về cách thức ứng xử đáp ứng các yêu cầu
thông thường của đạo đức. Tri thức đạo đức kinh nghiệm là
điều kiện không thể thiếu được đối với tất cả mọi người để họ
gia nhập vào đời sống đạo đức của xã hội. Tri thức này đáp
ứng yêu cầu điều chỉnh đạo đức của các quan hệ giữa người
và người trong cuộc sống thường nhật.
Do đó, thơng qua việc sử dụng những câu chuyện mang
nội dung tương ứng với nội dung bài học đạo đức sẽ góp phần
cụ thể hóa tri thức vào trong thực tiễn cuộc sống. Những
truyện được kể ở đây có thể lựa chọn là truyện lịch sử, truyện
người thật việc thật sẽ tạo cho người học một niềm tin vào
những điều đã được lĩnh ngộ. Ví dụ khi giảng dạy về phạm trù
23


“nhân nghĩa” tức là nói lịng thương người và đối xử với
người theo lẽ phải. Theo nội dung bài học này GV có thể cho
HS xem Video truyện “Lưu Bình Dương Lễ” [55]. Vì muốn
trả ơn và giúp bạn Dương Lễ chấp nhận để bạn hiểu nhầm.
Hơn thế nữa ông cịn nhờ vợ thay mình ni bạn ăn học đổ

đạt thành tài. Hoặc video “Lòng nhân ái thực sự” [56]. Hay
khi nói về việc “tự hồn thiện bản thân” GV có thể kể về “tự
truyện của Nick Vujicic” [38]. Đây là nhân vật nổi tiếng trên
thế giới bởi nghị lực phi thường, dù không tay không chân
nhưng ông ấy vẫn phấn đấu và thành công trở thành nhà diễn
thuyết tài ba. Và qua những truyện kể của người dạy sẽ giúp
người học liên hệ những trường hợp tương tự có thực xung
quanh mình. Điều đó một lần nữa khẳng định lại những tri
thức đạo đức đã học luôn được gắn liền với thực tiễn cuộc
sống. Từ đó cho thấy việc sử dụng truyển kể sẽ góp phần rất
lớn vào việc cụ thể hóa tri thức đạo đức trong bài học vào
thực tiễn cuộc sống. Tạo ra một sức mạnh vô cùng to lớn cho
quá trình giáo dục tri thức đạo đức cho lứa tuổi HS trung học
phổ thông hiện nay.
- Phát triển năng lực thực hiện các hành vi đạo đức của
HS
24


Truyện kể được sử dụng trong dạy học môn GDCD phần
Cơng dân với đạo đức ln chứa đựng các tình huống, các
mối quan hệ giữa con người với con người, ngay cả những
truyện kể mà nhân vật là loài vật hay đồ vật cuối cùng đằng
sau nó cũng là những hành vi ứng xử của con người. Tình
huống, mâu thuẫn trong truyện sẽ được giải quyết thông qua
hành động của nhân vật. Nội dung kiến thức hàn lâm, khái
quát sẽ được soi chiếu vào tình huống cụ thể, câu chuyện cụ
thể, mối quan hệ cụ thể trong đời sống thường nhật. Qua đó
giúp người học hình thành những hành vi phù hợp với chuẩn
mực đạo đức mà ở những tuyến nhân vật trong truyện kể đã

thực hiện. Việc lặp đi lặp lại các hành vi đạo đức sẽ góp phần
nâng lên một bậc cao hơn nữa trở thành nhuần nhuyễn và
được xem như một thói quen thực hiện hành vi đạo đức. Qua
đó, năng lực thực hiện hành vi đạo đức của HS ngày một
được nâng cao và mang tính tự giác. Khi gặp phải những tình
huống có vấn đề thì HS của cũng khả năng xử lý phù hợp và
ln giữ gìn phẩm chất đạo đức cá nhân cũng như truyền
thống đạo đức của dân tộc.
- Tạo môi trường để HS thực hiện các hoạt động trải
nghiệm

các

giá
25

trị


×