Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Tiểu luận Quyền tác giả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (536.33 KB, 43 trang )

Đề tài: Trình bày những quy định của pháp luật về quyền tác giả. Phân tích và
liên hệ với việc thực hiện quyền tác giả trên thực tế hiện nay.
Phần 1. Mở đầu
1. Đối tượng nghiên cứu, tìm hiểu.
Những quy định của pháp luật về quyền tác giả.
2.Lí do chọn đối tượng nghiên cứu, tìm hiểu.
Việt Nam chuyển mình sang nền kinh tế thị trường cũng là lúc pháp luật Sở hữu trí
tuệ (SHTT) thực sự ra đời và phát triển. Luật SHTT ra đời đánh dấu những bước phát
triển quan trọng, thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc thúc đẩy hoạt
động bảo vệ quyền SHTT nói chung, quyền tác giả nói riêng.
Đến nay, hệ thống pháp luật SHTT Việt Nam hiện hành đã tương đối đầy đủ và hoàn
chỉnh, là cơ sở pháp lí khuyến khích các hoạt động sáng tạo và bảo hộ các thành quả
của hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực quyền tác giả, hướng tới đảm bảo sự hài hòa lợi
ích giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và công chúng.
Song, tình trạng xâm phạm quyền tác giả hiện nay vẫn đang diễn ra và có nhiều phức
tạp. Bên cạnh đó, pháp luật SHTT Việt Nam vẫn có những quy định chưa phù hợp
với thực tế, dẫn đến khó khăn, bất cập trong hoạt động thực thi.
Vì vậy việc nghiên cứu những quy định của pháp luật về quyền tác giả và phân tích
và liên hệ với việc thực hiện quyền tác giả trên thực tế hiện nay là vô cùng cần thiết
thực không chỉ đối với sinh viên báo chí mà còn đối với toàn xã hội trong việc nâng
cao nhân thức về Luật SSTT nói chung và quyền tác giả nói riêng đồng thời áp dụng
luật vào thực tế cuộc sống và hành nghề sau này.
3. Mục tiêu
Nắm chắc được những quy định của pháp luật về quyền tác giả từ đó tìm hiểu thực tế
để xác định rõ các hành vi xâm phạm quyền tác giả; xem xét nguyên nhân dẫn đến
tình trạng xâm phạm quyền tác giả ở Việt Nam qua đó đề xuất một số kiến nghị, giải
pháp nhằm khắc phục những vấn đề còn tồn tại, góp phần hoàn thiện quy định của


pháp luật cũng như nâng cao nhận thức của bản thân và toàn xã hội về việc bảo vệ
quyền tác giả trong thực tế hiện nay.


4. Nhiệm vụ
Từ cơ sở xác định rõ ràng mục tiêu, bài tiểu luận sẽ có nhiệm vụ phấn tích rõ
những quy định của Luật SHTT về quyền tác giả, đồng thời vận dụng liên hệ thực tế
những vụ việc vi phạm quyền tác giả để tìm ra nguyên nhân và giải pháp phù hợp.
5. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung, tìm hiểu những quy định của pháp luật về quyền tác giả và việc
thực hiện quyền tác giả trong thực tế như đã đề ra ở phần 3. Mục tiêu. kết hợp nghiên
cứu tài liệu, sách, báo, các bài viết trên mạng internet về việc thực hiện quyền tác giả
trên thực tế hiện nay.
Phạm vi thời gian lấy mốc thời gian nghiên cứu từ năm 2005 khi Luật SHTT Việt
Nam được soạn thảo và ban hành.
Phạm vi không gian, nghiên cứu, tìm hiểu việc thực hiện luận trên các lĩnh vực của
đời sống xã hội
6.Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích và tổng hợp: thu thập và phân tích các nguồn tư liệu đưa ra
kết luận. Cụ thể, phân tích làm rõ vấn đề xâm phạm quyền tác giả từ những thông tin
thu thập được; phân tích thực trạng bảo vệ quyền tác giả, các nguyên nhân xâm phạm
quyền tác giả.
Phương pháp tổng hợp, khái quát nhằm thu thập, tổng hợp các tài liệu, số liệu một
cách khoa học để tiến hành phân tích làm rõ các vấn đề trong nghiên cứu là xâm
phạm quyền và bảo vệ quyền tác giả.
Phương pháp so sánh, thống kê.
7. Ý nghĩa


Về lý luận: Trên cơ sở tìm hiểu, nghiên cứu bài luận giúp hiểu được những vấn đề cơ
bản và tầm quan trọng của quyền tác giả trong Luật SHTT.
Về thực tiễn: Thông qua việc nghiên cứu tìm hiểu giúp mọi người biết cách sử dụng
các tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả trong hoạt động sáng tạo, kinh doanh, giải
trí… của mình; giúp tránh được việc xâm phạm quyền tác giả và giải pháp nếu có

hành vi xâm phạm bản quyền.
Phần 2. Nội dung
I. Những quy định của pháp luật về quyền tác giả
1. Điều kiện bảo hộ quyền tác giả.
Quyền tác giả có thể được tiếp cận từ hai góc độ như sau:
Nghĩa rộng: quyền tác giả là một bộ phận của quyền SHTT liên quan đến việc bảo hộ
các sáng tạo trí tuệ, chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu về văn hóa, tinh thần bao gồm các
quyền liên quan đến quyền tác giả. Dưới góc độ này, quyền tác giả là quyền của cá
nhân, tổ chức (bao gồm tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản
xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng) đối với các sáng tạo trí tuệ chủ yếu
trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, hay truyền thông dại chúng.
Nghĩa hẹp: quyền tác giả là quyền của các cá nhân, tổ chức đối với các tác phẩm văn
học, nghệ thuật, khoa học do họ sáng tạo ra hoặc là chủ sở hữu.
Như vậy, chủ thể của quyền tác giả có thể là chính tác giả (đồng tác giả), hoặc chủ sở
hữu quyền tác giả hoặc tổ chức, cá nhân được chủ sở hữu quyền tác giả chuyển giao
quyền tác giả.
Quy định tại Phần thứ hai, chương I, mục 1. Điều kiện bảo hộ quyền tác giả của Luật
Sở hữu trí tuệ.
Điều 13. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả


1. Tổ chức, cá nhân có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả gồm người trực tiếp sáng
tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả quy định tại các điều từ Điều 37 đến Điều
42 của Luật này.
2. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả quy định tại khoản 1 Điều này gồm tổ chức, cá
nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại
Việt Nam mà chưa được công bố ở bất kỳ nước nào hoặc được công bố đồng thời tại
Việt Nam trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày tác phẩm đó được công bố lần đầu
tiên ở nước khác; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam
theo điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành

viên.
Điều 14. Các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả
1. Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ bao gồm:
a) Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể
hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác;
b) Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác;
c) Tác phẩm báo chí;
d) Tác phẩm âm nhạc;
đ) Tác phẩm sân khấu;
e) Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự (sau đây gọi
chung là tác phẩm điện ảnh);
g) Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng;
h) Tác phẩm nhiếp ảnh;
i) Tác phẩm kiến trúc;
k) Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, công trình khoa học;
l) Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian;
m) Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.
2. Tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ theo quy định tại khoản 1 Điều này nếu không
gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái
sinh.
3. Tác phẩm được bảo hộ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này phải do tác giả trực
tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người
khác.
4. Chính phủ hướng dẫn cụ thể về các loại hình tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều
này.
Điều 15. Các đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả
1. Tin tức thời sự thuần tuý đưa tin.


2. Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư

pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó.
3. Quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số liệu.

1.1. Chủ thể quyền tác giả
Chủ thể của quyền tác giả là tổ chức cá nhân có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả
bao gồm người tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả. Xác định chính xác tư cách chủ
thể của quyền tác giả giúp xác định chính xác quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy
định hoặc/và do các bên trong hợp đồng chuyển giao quyền tác giả xác định chủ sở
hữu quyền tác giả. Do đó, đảm bảo được quyền, lợi ích của những chủ thể này.
1.1.1. Tác giả
Tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ
thuật, khoa học. Sáng tạo của tác giả là sức lao động kết hợp với khả năng suy xét
(hàm lượng trí tuệ kết tinh vào) để tạo ra tác phẩm. Sự trực tiếp sáng tạo thể hiện ở
việc chính tác giả đóng vai trò quyết định trong việc thể hiện ý tưởng và tạo nên tác
phẩm.
1.1.2. Chủ sở hữu quyền tác giả.
Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức cá nhân nắm giữ một, một số hoặc toàn bộ các
quyền tài sản. Về mặt kinh tế thì chủ sở hữu là quan trọng vì là người độc quyền sử
dụng, định đoạt và khai thác tác phẩm để tạo ra lợi nhuận.
Có các hình thức chủ sở hữu quyền tác giả như sau: người trực tiếp sáng tạo ra tác
phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học bằng công sức, trí tuệ của mình; người giao
nhiệm vụ cho tác giả; cá nhân, tổ chức ký hợp đồng sáng tạo với tác giả; người được
thừa kế quyền tác giả; người có được quyền tác giả thông qua hợp đồng chuyển
quyền sử dụng tác phẩm; chủ sở hữu quyền tác giả là Nhà nước trong trường hợp tác
phẩm khuyết danh; tác phẩm còn trong thời hạn bảo hộ mà chủ sở hữu quyền tác giả
chết không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận di sản hoặc không được
quyền hưởng di sản; tác phẩm được chủ sở hữu quyền tác giả chuyển giao quyền sở


hữu cho Nhà nước; chủ sở hữu quyền tác giả là công chúng khi tác phẩm đã kết thúc

thời hạn bảo hộ.
1.2. Khách thể của quyền tác giả
Đối tượng được bảo hộ bản quyền là kết quả của hoạt động sáng tạo, được thể hiện
dưới một hình thức khách quan nhất định mà người khác có thể tiếp thu, bao gồm các
tác phẩm trong các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học. Có ba nhóm tác phẩm
được bảo hộ quyền tác giả: Tác phẩm văn học, tác phẩm nghệ thuật, tác phẩm khoa
học.
Cụ thể là Điều 14 Luật SHTT 2005 quy định thành 14 loại hình tác phẩm được bảo
hộ quyền tác giả .
Tuy nhiên, cho dù có nằm trong các loại hình này mà các tác phẩm trái với đạo đức
xã hội, xâm phạm lợi ích nhà nước; lợi ích công cộng; quyền và lợi ích của chủ thể
khác; xâm phạm thuần phong mỹ tục thì không được bảo hộ quyền tác giả. Đây là
điều đã được quy định ngay phần đầu của Luật SHTT 2005 (Khoản 1, Điều 8). Đã rất
nhiều tác phẩm không được bảo hộ, thậm chí bị thu hồi hoặc tiêu hủy vì nguyên nhân
này.
1.3. Đặc điểm
Bảo hộ quyền tác giả là việc xác lập và bảo vệ quyền của tổ chức hoặc cá nhân đối
với tài sản trí tuệ của mình. Cá nhân hay tổ chức có thể tự mình hoặc thông qua cơ
quan có thẩm quyền thực hiện thiết lập và bảo vệ quyền SHTT về đối với bản quyền
tác giả. Việc này nhằm đảm bảo cho người sáng tạo có thể khai thác giá trị kinh tế từ
các sản phẩm sáng tạo của mình để bù đắp lại công lao sáng tạo. Quyền SHTT được
bảo hộ nhằm khuyến khích năng lực sáng tạo của các chủ thể, là động lực thúc đẩy
văn hóa, kinh tế, xã hội, khoa học-công nghệ của một quốc gia phát triển. Nhưng việc
bảo hộ quyền tác giả là có chọn lọc, phải đảm bảo lợi ích của nhà nước, xã hôi, công
dân.
Có thể thấy một số đặc điểm cơ bản của luật về bảo hộ quyền tác giả:


Thứ nhất, quyền tác giả được bảo hộ không phụ thuộc vào nội dung và giá trị nghệ
thuật, bởi theo pháp luật SHTT thống nhất rằng sự sáng tạo trí tuệ trong lĩnh vực văn

học, nghệ thuật, khoa học mang tính nguyên gốc và được vật chất hóa, được công
nhận là tác phẩm và được bảo hộ theo pháp luật quyền tác giả. Pháp luật quyền tác
giả không đưa ra bất kỳ điều kiện nào về nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm
được bảo hộ. Điều này do nếu bảo hộ cho nội dung sẽ xảy ra việc độc quyền về nội
dung, hạn chế sự sáng tạo của những người còn lại.
Thứ hai, quyền tác giả bảo hộ hình thức thể hiện tác phẩm, tác phẩm chính là những ý
tưởng sáng tạo của cá nhân được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định . Tác
phẩm có thể được thể hiện dưới một hoặc sự kết hợp các hình thức: từ ngữ, âm thanh,
hình ảnh, màu sắc. Pháp luật quyền tác giả chỉ bảo hộ hình thức thể hiện của những ý
tưởng sáng tạo mà không bảo hộ những ý tưởng sáng tạo chứa đựng trong tác phẩm,
được thể hiện ra từ tác phẩm. Ví dụ anh X có thể nắm bắt ý tưởng từ tác phẩm A và
cho ra đời tác phẩm B có ý tưởng trùng hoặc tương tự với ý tưởng được thể hiện từ
tác phẩm A. Trong trường hợp này, hành vi của anh X không bị coi là hành vi xâm
phạm quyền tác giả đối với tác phẩm A. Hay nếu một trò chơi điện tử đã sử dụng nội
dung được bảo hộ quyền tác giả của các trò chơi khác hoặc nội dung thuộc về lĩnh
vực sở hữu công cộng, thì việc bảo hộ quyền tác giả chỉ được áp dụng đối với hình
thức thể hiện gốc của bộ phim này mà không được áp dụng đối với nội dung vay
mượn.
Thứ ba, tác phẩm được bảo hộ phải có tính nguyên gốc, tức là không sao chép, bắt
chước tác phẩm khác. Điều đó không có nghĩa là ý tưởng của tác phẩm phải mới, mà
có nghĩa là hình thức thể hiện ý tưởng phải do chính tác giả sáng tạo ra. Như vậy, một
tác phẩm muốn được bảo hộ, phải do chính sức lao động trí óc của tác giả tạo ra.
Thứ tư, tác phẩm không trái pháp luật và đạo đức xã hội, không đi ngược với lợi ích
của đất nước và nhân dân, vấn đề này đã được phân tích ở phần trên.
Trường hợp các đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ của quyền tác giả: Tin tức
thời sự thuần tuý đưa tin: là các thông tin báo chí ngắn hàng ngày, chỉ mang tính chất


đưa tin không có tính sáng tạo; văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn
bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó, bao gồm: văn

bản của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức chính
trị-xã hội-nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp, tổ chức kinh tế,
đơn vị vũ trang nhân dân và các tổ chức khác theo quy định của pháp luật. Vì đó là
những văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cần được phổ biến cho người
dân để nâng cao hiểu biết pháp luật trong nhân dân, việc đưa những văn bản này ra
khỏi phạm vi đối tượng bảo hộ quyền tác giả đã giúp người dân dễ dàng tiếp cận với
các quy định của pháp luật.
Quyền tác giả cũng không bảo hộ sự kiện-cho dù sự kiện đó là sự kiện khoa học, lịch
sử, tiểu sử-mà chỉ bảo hộ cách thức thể hiện, lựa chọn, sắp xếp các sự kiện đó. Ví dụ
tiểu sử chủ yếu có chứa các sự kiện trong cuộc sống của một người. Tác giả có thể
mất thời gian, công sức để tìm ra những tài liệu, tiểu sử của nhân vật đó mà trước
đây chưa ai biết đến. Tuy vậy, người khác có thể sử dụng các sự kiện đó miễn là
không sao chép cách thức thể hiện các sự kiện đó. Tin tức dựa trên các sự kiện đó
không được bảo hộ quyền tác giả.
2. Nội dung quyền tác giả.
2.1 Quyền tác giả.
Quyền tác giả được quy định tại Điều 4. Luật SHTT: "Quyền tác giả là quyền của tổ
chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu."
Quyền tác giả được ghi nhận cho các tác phẩm văn học,nghệ thuật, khoa học như
sách, bài giảng, tác phẩm âm nhạc, tác phẩm sân khấu, tác phẩm điện ảnh, tác phẩm
tạo hình và mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm nhiếp ảnh, tác phẩm kiến trúc, phần mềm
máy tính.
Quyền tác giả tự động phát sinh từ thời điểm tác phẩm được định hình dưới một hình
dưới một hình thức vật chất nhất định, bất kể tác phẩm đã công bố hay chưa công bố,
đã đăng ký hay chưa đăng ký.


Quy định tại Phần thứ hai, chương II, mục 1. Nội dung, giới hạn quyền, thời hạn bảo
hộ quyền tác giả.
Điều 18. Quyền tác giả

Quyền tác giả đối với tác phẩm quy định tại Luật này bao gồm quyền nhân thân và
quyền tài sản.

Căn cứ vào thời điểm tác phẩm được được tác giả sáng tạo ra dưới hình thức vật chất
nhất định, quyền tác giả đã phát sinh. Sự biểu hiện của quyền nhân thân được hình
thành vào thời điểm tác phẩm được sáng tạo ra và theo đó quyền tài sản của tác phẩm
cũng được xác lập đối với tác phẩm. Theo quan hệ phụ thuộc, quyền nhân thân và
quyền tài sản của tác giả phát sinh từ thời điểm tác phẩm được hình thành nhưng
trong đó quyền nhân thân là tiền đề của quyền tài sản.
2.1.1. Quyền nhân thân
Điều 19. Quyền nhân thân
Quyền nhân thân bao gồm các quyền sau đây:
1. Đặt tên cho tác phẩm;
2. Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác
phẩm được công bố, sử dụng;
3. Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;
4. Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc
xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín
của tác giả.

Quyền nhân thân-các quyền tác giả về mặt tinh thần, là quyền dân sự gắn liền với mỗi
cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác và mọi người đều phải có nghĩa vụ
tôn trọng quyền nhân thân của người khác.
Trong đó, quyền nhân thân bao gồm quyền nhân thân không gắn liền với tài sản
(khoản 1, 2,4 Điều 19) và quyền nhân thân gắn liền với tài sản(khoản 3, điều 19).
Quyền nhân thân không gắn liền với tài sản là những quyền gắn liền với các giá trị
nhân thân của tác giả và không thể chuyển giao được. Quyền nhân thân không
chuyển giao được chỉ dành cho tác giả (dù đồng thời hay không đồng thời là chủ sở



hữu quyền tác giả). Các quyền này phản ánh trực tiếp đến uy tín và danh dự tác giả,
tồn tại một cách độc lập với quyền tài sản, gắn liền với tác giả kể cả khi quyền sử
dụng, quyền định doạt tác phẩm đã chuyển giao. Các quyền nhân thân không gắn với
tài sản được bảo hộ vô thời hạn, khác với những quyền khác được bảo hộ có thời
hạn.
Quyền nhân thân không gắn liền với tài sản gồm ba quyền: Một là, quyền đứng tên
tác giả trên bản gốc và bản sao tác phẩm. Tác giả có quyền lựa chọn việc đứng tên
thật, bút danh hoặc có thể chủ động không đứng tên, để tác phẩm của mình ở "tình
trạng khuyết danh". Quyền này của tác giả là quyền yêu cầu được ghi tên tác giả trên
bản gốc, bản sao tác phẩm, quyền được nêu tên khi biểu diễn, phát sóng tác phẩm.
Hai là, quyền đặt tên tác phẩm là quyền quan trọng của tác giả để "khai sinh" cho tác
phẩm của mình. Ba là, quyền bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm là quyền ngăn cấm hoặc
cho phép người khác khai thác, sửa chữa tác phẩm của mình. Quyền này còn ngăn
chặn người khác xuyên tạc, xâm phạm tới uy tín, danh dự của mình. Người biên tập
có thể thực hiện việc sửa chữa tác phẩm, do sự thay đổi các chuẩn mực xã hội, ngôn
từ và chính tả, nhưng phải được sự đồng ý của tác giả.
Đối với quyền nhân thân gắn liền với tài sản là quyền nhân thân có thể chuyển giao,
gắn với các quyền tài sản trong chế định quyền tác giả. Quyền công bố tác phẩm là
quyền nhân thân gắn liền với tài sản, có thể để lại thừa kế, chuyển giao cho tổ chức,
cá nhân khác.
Các quyền nhân thân của tác giả có những đặc điểm sau là quyền của tác giả (tác giả
đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả hoặc tác giả không đồng thời là chủ sở hữu
quyền tác giả); mang lại giá trị tinh thần cho tác giả; được bảo hộ vô thời hạn (trừ
quyền công bố tác phẩm); không được chuyển giao hay để lại thừa kế (trừ quyền
công bố tác phẩm).
a. Quyền đặt tên cho tác phẩm
Quyền đặt tên cho tác phẩm là quyền quan trọng, khai sinh cho sự ra đời của tác
phẩm và thể hiện rõ ý tưởng sáng tạo của tác giả. Trong mọi trường hợp, tác giả luôn
là người hiểu rõ nhất về tác phẩm, về ý tưởng sáng tạo và là người được pháp luật



thựa nhận có quyền và thực tế quyết định tên cho tác phẩm. Dù tác giả có tham khảo
ý kiến của người khác để đặt tên cho tác phẩm của mình và trong trường hợp người
khác có đặt tên "hay và phù hợp" cho tác phẩm đi nữa thì sự lựa chọn và quyết định
cuối cùng vẫn thuộc về tác giả. Đó cũng chính là việc tác giả thực hiện quyền đặt tên
cho tác phẩm của mình. Quyền đặt tên cho tác phẩm tồn tại độc lập với các quyền tài
sản, chỉ thuộc về tác giả-người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm, cho dù tác giả có đồng
thời là chủ sở hữu quyền tác giả hay không. Quyền đặt tên cho tác phẩm không áp
dụng đối với tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác.
Ví dụ: Tác phẩm "Chí Phèo" của nhà văn Nam Cao đã qua hai lần đổi tên. Tên đâu
tiên của tác phẩm là "Cái lò gạch cũ". Sau đó, nhà xuất bản Đời mới (Hà Nội) tự ý
đổi tên thành "Đôi lứa xứng đôi" để nhấn mạnh vào câu chuyện tình giữa Chí Phèo và
Thị Nở, đồng thời để thu hút sự chú ý của độc giả thời đó. Tuy nhiên, hai cái tên trên
đều không thực sự lột tả hết giá trị của tác phẩm, do vậy, chính nhà văn Nam Cao đã
đổi tên tác phẩm của mình thành "Chí Phèo" và từ đó đến giờ, tác phẩm này được
trích dẫn hay đưa vào giảng dạy… dưới cái tên "Chí Phèo".
Quyền đặt tên cho tác phẩm được dành cho các chủ thể: tác giả trực tiếp sáng tạo ra
tác phẩm đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả; tác giả trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm
nhưng không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả; cá nhân, tổ chức sản xuất các tác
phẩm điện ảnh, video, phát thanh truyền hình, sân khấu và các loại hình biểu diễn
nghệ thuật khác (trường hợp này những cá nhân, tổ chức sản xuất chương trình được
coi là tác giả tập thể).
b. Quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc
bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng.
Nếu như việc đặt tên cho tác phẩm được ví như "khai sinh" cho tác phẩm thì quyên
đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm là việc xã hội công nhận "cha đẻ" cho tác
phẩm. Đây được coi là quyền nhân thân quan trọng nhất của tác giả, thể hiện bản chất
của quyền này, vì vậy vi phạm quyền này trên thực tế thường gây ra thiệt hại về tinh
thần cao nhất cho tác giả.



Bất cứ khi nào tác phẩm được công bố, sử dụng, tổ chức, cá nhân buộc phải nêu tên
thật hoặc bút danh của tác phẩm. Quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm;
được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng được pháp luật
bảo hộ vô thời hạn.
Ý nghĩa của quyền này là thể hiện sự tôn trọng, trân trọng công sức lao động trí óc
của xã hội đối với tác giả. Ngoài ra, quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm
còn nhằm mục đích xác nhận tác giả của tác phẩm nhất định và ngược lại, khẳng định
rõ tác giả duy nhất của tác phẩm và không thể nhầm lẫn với bất cứ tác giả nào khác.
c. Quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố.
Một tác phẩm khi được hình thành có được và đem vào sử dụng hay không hoàn toàn
phụ thuộc vào ý chí của tác giả. Tức là quyền của tác giả đối với việc có đem công
bố, phổ biến sản phẩm trí tuệ hay không. Thông thường, các tác giả sau đều mong
muốn công bố tác phẩm, được xã hội đón nhận, được phổ biến rộng rãi trong công
chúng. Hơn thế, việc phổ biến tác phẩm còn mang lại cho tác giả những lợi ích vật
chất nhất định, đó là khoản nhuận bút hoặc thù lao của việc tác phẩm được sử dụng.
Công bố tác phẩm là việc phát hành tác phẩm đến công chúng với số lượng bản sao
đủ để đáp ứng nhu cầu hợp lý của công chúng tùy theo bản chất của tác phẩm, do tác
giả, chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện hoặc do cá nhân, tổ chức khác thực hiện với
sự đồng ý của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả. Hiện nay có nhiều phương thức khác
nhau để công bố tác phẩm, ví dụ như: công bố thông qua truyền hình, công bố trên
báo, công bố trên mạng internet…Công bố tác phẩm không bao gồm việc trình diễn
một tác phẩm trên sân khấu, điện ảnh, âm nhạc ; đọc trước công chúng một tác phẩm
văn học, phát sóng tác phẩm văn học, nghệ thuật; trưng bày tác phẩm tạo hình ; xây
dựng công trình từ tác phẩm kiến trúc.
Khác với các quyền nhân thân khác, tác giả có thể trực tiếp công bố tác phẩm
hoặc cho phép cá nhân, tổ chức khác công bố tác phẩm của mình. Bởi vậy, quyền
công bố tác phẩm là quyền nhân thân có thể chuyển giao.



d. Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt
xén tác phẩm hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương
hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
Nhằm chống lại việc thay đổi, sửa chữa hay bất kỳ hành vi nào làm sai lệch nội
dung tác phẩm khi được đưa ra sử dụng phổ biến, tác giả có quyền bảo vệ sự toàn vẹn
của tác phẩm, có quyền cho phép hay không cho phép người khác sửa đổi nội dung
tác phẩm. Mục đích của việc ghi nhận quyền này là nhằm bảo vệ thanh danh của tác
giả. Bởi lẽ, khi thực hiện hoạt động sáng tạo này, tác giả muốn thể hiện ý tưởng của
mình vào trong tác phẩm nhưng tư duy của mỗi người là không đồng nhất và không
phải ai cũng hiểu đúng ý tưởng đã được chuyển tải trong tác phẩm, do đó có thể có
những cách hiểu khác nhau dẫn đến việc người ta dễ thay đổi, sửa chữa nội dung tác
phẩm theo ý mà họ cho là đúng. Và quy định này nhằm ngăn chặn hành vi trên.
Nội dung, giá trị nghệ thuật của nghệ thuật gắn liền với uy tín và làm nên danh
tiếng của tác giả. Hơn nữa, tác giả phải chịu trách nhiệm đối với các cá nhân, tổ chức
khác về nội dung của tác phẩm. Do đó, không có chủ thể nào khác ngoài tác giả có
quyền thay đổi nội dung của tác phẩm kể cả trong trường hợp sự thay đổi làm tăng
giá trị nghệ thuật, giá trị thực tiễn của tác phẩm (Trừ trường hợp có thỏa thuận của tác
giả).
2.1.2. Quyền tài sản
Điều 20. Quyền tài sản
1. Quyền tài sản bao gồm các quyền sau đây:
a) Làm tác phẩm phái sinh;
b) Biểu diễn tác phẩm trước công chúng;
c) Sao chép tác phẩm;
d) Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm;
đ) Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng
thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác;
e) Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.



2. Các quyền quy định tại khoản 1 Điều này do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả độc
quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện theo quy định của Luật này.
3. Tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền quy định
tại khoản 1 Điều này và khoản 3 Điều 19 của Luật này phải xin phép và trả tiền nhuận
bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả

Quyền tài sản của tác giả có ý nghĩa rất quan trọng, đảm vệ các lợi ích kinh tế của tác
giả và cho phép tác giả thu lợi bằng cách khai thác trực tiếp hoặc gián tiếp tác phẩm
khi tác phẩm được công bố, phổ biến, sử dụng nhằm bù đắp lại công sức lao động
sáng tạo trí tuệ của tác giả và chống lại những hành vi xâm phạm quyền tác giả.
a. Làm tác phẩm phái sinh
Quyền đối với việc tạo ra các tác phẩm phái sinh là quyền tài sản quan trọng bao gồm
hai nội dung: tác giả tự mình tạo nên tác phẩm khác (tác phẩm phái sinh) dựa trên tác
phẩm gốc; và cho phép người khác tạo tác phẩm phái sinh.
Tác phẩm phái sinh là tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm
phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn. Trên thực tế, việc tạo
ra tác phẩm phái sinh khá đa dạng, song pháp luật cũng không cấm việc tác phẩm
phái sinh cùng loại với tác phẩm gốc. Ví dụ, sao chép đĩa CD, tái bản sách, tải
chương trình máy tính, quyets văn bản, in một nhân vật hoạt hình trên áo thun, đưa
một đoạn ca từ vào bài hát mới.
Khi một người muốn dịch, cải biên, chuyển thể một tác phẩm, họ phải xin phép chủ
sở hữu quyền tác giả gốc, bởi vì những hành vi kể trên là những hành vi sử dụng tác
phẩm, mà chủ sở hữu quyền tác giả có quyền cho hay không cho. Mọi hành vi sử
dụng tác phẩm mà không được sự đồng ý từ trước của chủ sở hữu quyền tác giả đều
bị coi là xâm phạm quyền tác giả (trừ trường hợp sử dụng hạn chế do pháp luật quy
định).
b. Biểu diễn tác phẩm trước công chúng.
Bộ Luật hình sự 2005 chưa đề cập đến quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng.
Tuy nhiên Luật SHTT đã quy định thêm quyền này vào nhóm quyền tài sản của tác
giả tại Điều 20.



Theo đó, quyền này do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc
cho phép người khác thực hiện việc biểu diễn một tác phẩm một cách trực tiếp hoặc
thông qua các chương trình ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà
công chúng có thể tiếp cận được.
c. Sao chép tác phẩm.
Quyền sao chép là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho
phép người khác thực hiện việc tạo ra bản sao của tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện
hay hình thức nào, bao gồm cả việc lưu trữ thường xuyên hoặc tạm thời dưới hình
thức điện tử.
Sao chép tác phẩm có thể là sao chép một phần hoặc toàn bộ tác phẩm. Sao chép tác
phẩm khác trích dẫn tác phẩm. Việc trích dẫn tác phẩm chỉ là sử dụng một phần của
tác phẩm, không nhằm mục đích kinh doanh, không làm ảnh hưởng đến việc sử dụng
bình thường tác phẩm và phải nêu rõ nguồn gốc tác phẩm. Các hành vi sử dụng
không phải là trích dẫn đều có thể bị coi là sao chép và phải được sự đồng ý của chủ
sở hữu quyền tác giả.
d. Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm.
Quyền phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm là quyền của chủ sở hữu
quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện bằng bất ký
hình thức, phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp nhận được để bán, cho
thuê hoặc các hình thức chuyển nhượng bản gốc hoặc bản sao tác phẩm. Đối với tác
phẩm tạo hình, tác phẩm nhiếp ảnh thì quyền phân phối còn bao gồm cả việc trưng
bày, triển lãm trước công chúng.
Do quyền tác giả có tính chất lãnh thổ nên việc phân phối bản gốc hoặc bản sao được
thực hiện trong thị trường nội địa. Nếu quyền tác giả được bảo hộ ở nước ngoại thì
quyền phân phối này cũng được mở rộng tương ứng theo quy định của các điều ước
quốc tế và pháp luật về quyên tác giả của nước sở tại.
đ. Truyền đạt tác phẩm đến công chúng



Quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến,
mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác quy định tại điểm đ
khoản 1 Điều 20 của Luật SHTT là quyền độc quyền thực hiện của chủ sở hữu quyền
tác giả hoặc cho phép người khác thực hiện để đưa tác phẩm hoặc bản sao tác phẩm
đến công chúng mà công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do
chính họ lựa chọn.
Quyền này có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức trực tiếp và gián tiếp, bao gồm
các hành vi trình diễn, phân phối tác phẩm đến một số lượng đáng kể người sử dụng,
ví dụ như trình diễn một vở kịch hay một buổi hòa nhạc, phát hành một đĩa nhạc hay
đưa tác phẩm lên mạng.
e. Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.
Quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao theo quy định tại điểm đ Khoản 3 Ðiều 738 Bộ
luật dân sự năm 2005 chỉ áp dụng đối với chương trình máy tính. Trong khi đó, Luật
SHTT 2005 mở rộng đối với cả tác phẩm điện ảnh. Là quyền do chủ sở hữu quyền
tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc cho thuê để sử
dụng có thời hạn.
Đây là quyền đặc thù đươc quy định nhằm đảm bảo việc khai thác bình thường tác
phẩm điện ảnh và chương trình máy tính. Vì vậy, tác giả của tác phẩm điện ảnh hay
chương trình máy tính có quyền cho phép hoặc cấm cá nhân khác thực hiện việc cho
thuê có tính chất thương mại bản gốc hay bản sao đối với công chúng.
Tuy nhiên, trên thực tế trường hợp người sử dụng máy tính sao chép không xin phép
vẫn diễn ra thường xuyên như dùng Win không phải bản quyền, bẻ khóa các chương
trình máy tính, hay các tác phẩm điện ảnh bị sao chép trái phép…
Với việc quy định tác giả có toàn quyền quyết định đưa tác phẩm ra sử dụng rộng rãi
trong công chúng, do đó khi một người muốn sử dụng tác phẩm phải xin phép tác giả
về việc sử dụng tác phẩm đó. Sự xin phép này được thể hiện bởi nghĩa vụ trả tiền
nhuận bút, thù lao và các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả.



Ngoài ra, Luật SHTT cũng quy định quyền tác giả đối với một số đối tượng cụ thể
như: quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu (Điều 21); quyền
tác giả đối với chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu (Điều 22); quyền tác giả đối với
tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian (Điều 23); quyền tác giả đối với tác phẩm văn
học, nghệ thuật và khoa học (Điều 24).
Điều 21. Quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu
1. Người làm công việc đạo diễn, biên kịch, quay phim, dựng phim, sáng tác âm nhạc,
thiết kế mỹ thuật, thiết kế âm thanh, ánh sáng, mỹ thuật trường quay, thiết kế đạo cụ, kỹ
xảo và các công việc khác có tính sáng tạo đối với tác phẩm điện ảnh được hưởng các
quyền quy định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều 19 của Luật này và các quyền khác theo
thoả thuận.
Người làm công việc đạo diễn, biên kịch, biên đạo múa, sáng tác âm nhạc, thiết kế mỹ
thuật, thiết kế âm thanh, ánh sáng, mỹ thuật sân khấu, thiết kế đạo cụ, kỹ xảo và các
công việc khác có tính sáng tạo đối với tác phẩm sân khấu được hưởng các quyền quy
định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều 19 của Luật này và các quyền khác theo thoả thuận.
2. Tổ chức, cá nhân đầu tư tài chính và cơ sở vật chất - kỹ thuật để sản xuất tác phẩm
điện ảnh, tác phẩm sân khấu là chủ sở hữu các quyền quy định tại khoản 3 Điều 19 và
Điều 20 của Luật này.
3. Tổ chức, cá nhân quy định tại khoản 2 Điều này có nghĩa vụ trả tiền nhuận bút, thù
lao và các quyền lợi vật chất khác theo thoả thuận với những người quy định tại khoản
1 Điều này.
Điều 22. Quyền tác giả đối với chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu
1. Chương trình máy tính là tập hợp các chỉ dẫn được thể hiện dưới dạng các lệnh, các
mã, lược đồ hoặc bất kỳ dạng nào khác, khi gắn vào một phương tiện mà máy tính đọc
được, có khả năng làm cho máy tính thực hiện được một công việc hoặc đạt được một
kết quả cụ thể.
Chương trình máy tính được bảo hộ như tác phẩm văn học, dù được thể hiện dưới dạng
mã nguồn hay mã máy.
2. Sưu tập dữ liệu là tập hợp có tính sáng tạo thể hiện ở sự tuyển chọn, sắp xếp các tư
liệu dưới dạng điện tử hoặc dạng khác.

Việc bảo hộ quyền tác giả đối với sưu tập dữ liệu không bao hàm chính các tư liệu đó,
không gây phương hại đến quyền tác giả của chính tư liệu đó.
Điều 23. Quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian
1. Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian là sáng tạo tập thể trên nền tảng truyền
thống của một nhóm hoặc các cá nhân nhằm phản ánh khát vọng của cộng đồng, thể
hiện tương xứng đặc điểm văn hoá và xã hội của họ, các tiêu chuẩn và giá trị được lưu
truyền bằng cách mô phỏng hoặc bằng cách khác. Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân
gian bao gồm:
a) Truyện, thơ, câu đố;


b) Điệu hát, làn điệu âm nhạc;
c) Điệu múa, vở diễn, nghi lễ và các trò chơi;
d) Sản phẩm nghệ thuật đồ hoạ, hội hoạ, điêu khắc, nhạc cụ, hình mẫu kiến trúc và các
loại hình nghệ thuật khác được thể hiện dưới bất kỳ hình thức vật chất nào.
2. Tổ chức, cá nhân khi sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian phải dẫn chiếu
xuất xứ của loại hình tác phẩm đó và bảo đảm giữ gìn giá trị đích thực của tác phẩm
văn học, nghệ thuật dân gian.
Điều 24. Quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học
Việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học quy định
tại khoản 1 Điều 14 của Luật này do Chính phủ quy định cụ thể.

2.2. Giới hạn quyền tác giả.
Giới hạn quyền tác giả là các trường hợp ngoại lệ của quyền tác giả. Giới hạn quyền
tác giả là các hành vi sử dụng hạn chế, khai thác tài sản của người khác mà không
xâm phạm quyền tác giả.
Xác định giới hạn cho quyền tác giả bằng việc quy định các trường hợp sử dụng tác
phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao (Điều
25) và các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải
trả tiền nhuận bút, thù lao (Điều 26). Giới hạn quyền tác giả trong những trường hợp

này giúp cho công chúng có khả năng khai thác, sử dụng các tác phẩm văn học nghệ
thuật và khoa học vào mục đích phi thương mại (như nghiên cứu khoa học, giảng dạy,
sử dụng riêng) dễ dàng hơn. Tuy nhiên bên cạnh quyền lợi này, tổ chức, cá nhân sử
dụng tác phẩm trong trường hợp giới hạn quyền tác giả có nghĩa vụ làm ảnh hưởng
đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của
tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ
của tác phẩm. Hơn nữa, bản sao tác phẩm trong những trường hợp này cũng bị giới
hạn ở số lượng một bản.
2.2.1. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không
phải trả tiền nhuận bút, thùlao
Được quy định tại Điều 25. Cụ thể như:


Điều 25. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không
phải trả tiền nhuận bút, thù lao
1. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả
tiền nhuận bút, thù lao bao gồm:
a) Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân;
b) Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa
trong tác phẩm của mình;
c) Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định
kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu;
d) Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không
nhằm mục đích thương mại;
đ) Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu;
e) Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh
hoạt văn hoá, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào;
g) Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy;
h) Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng
được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó;

i) Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị;
k) Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng.
2. Tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này không được làm
ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các
quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc,
xuất xứ của tác phẩm.
3. Việc sử dụng tác phẩm trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này không áp
dụng đối với tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính.

Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân,
tuy nhiên, tự sao chép một bản nhạc của tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình,
chương trình máy tính nhằm mục đích nghiện cứu khoa học, giảng dạy cá nhân vẫn
phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.
Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa
trong tác phẩm của mình. Tuy nhiên, việc trích dẫn tác phẩm phải thỏa mãn hai điều
kiện: thứ nhất, phần trích dẫn chỉ nhằm mục đích giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng
tỏ vấn đề được cập nhật trong tác phẩm của mình; thứ hai, số lượng và thực chất của
phần trích dẫn từ các tác phẩm được sử dụng để trích dẫn không gây phương hại đến


quyền tác giả đối với tác phẩm được sử dụng để trích dẫn; phù hợp với tính chất, đặc
điểm của loại hình tác phẩm được sử dụng để trích dẫn.
Sao chép một tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu. Tuy nhiên,
quy định không được áp dụng đối với tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương
trình máy tính. Thư viện không được sao chép và phân phối bản sao tác phẩm tới
công chúng, kể cả bản sao kỹ thuật số.
2.2.2. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, nhưng
phải trả tiền nhuận bút, thù lao.
Điều 26. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải
trả tiền nhuận bút, thù lao

1. Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để thực hiện chương trình phát sóng
có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép
nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả theo quy định của
Chính phủ.
2. Tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này không được làm
ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các
quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc,
xuất xứ của tác phẩm.
3. Việc sử dụng tác phẩm trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này không áp
dụng đối với tác phẩm điện ảnh.

Theo quy định tại Điều 26, Luật SHTT chỉ dành cho tổ chức phát sóng khi phát sóng
các chương trình có tài trợ, quảng cáo, thu tiền hoặc không tài trợ, quảng cáo, không
thu tiền. Cần phải phân biệt hai trường hợp: Thứ nhất, nếu tổ chức phát sóng sử dụng
các tác phẩm cho các chương trình phát sóng có tài trợ, quảng cáo, thu tiền thì tổ
chức này và chủ sở hữu quyền tác giả có quyền thỏa thuận về mức thù lao, nhuận bút,
các lợi ích vật chất khác và phương thức thanh toán; thứ hai, nếu tổ chức phát sóng sử
dụng tác phẩm cho các chương trình phát sóng không có tài trợ, quảng cáo, hoặc
không thu tiền thì tổ chức cá nhân này phải chi trả thù lao, nhuận bút hoàn toàn theo
quy định của pháp luật.
Tuy nhiên tại khoản 3 Điều 26 quy định sử dụng tác phẩm đã được công bố không
phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao không đặt ra đối với tác phẩm


điện ảnh. Nói cách khác, tổ chức phát sóng vẫn phải xin phép và trả thù lao nhuận bút
cho tác giả, chủ sở hữu khi phát sóng tác phẩm điện ảnh.
2.3. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả.
Thời hạn bảo hộ quyền tác giả là khoảng thời gian do pháp luật quy định mà trong
khoảng thời gian này quyền tác giả được pháp luật thừa nhận và bảo hộ. Pháp luật
quy định thời hạn bảo hộ một mặt nhằm bảo đảm cho tác giả và chủ sở hữu quyền tác

giả hưởng những lợi ích vật chất từ việc khai thác tác phẩm, để bù đắp những chi phí
cho việc sáng tạo ra tác phẩm, mặt khác nhằm dung hòa lợi ích giữa tác giả, chủ sở
hữu tác phẩm với lợi ích toàn xã hội.
Thời gian bảo hộ quyền tác giả được quy định tại Luật sở hứu trí tuệ 2005:
Điều 27. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả
1. Quyền nhân thân quy định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều 19 của Luật này được bảo hộ
vô thời hạn.
2. Quyền nhân thân quy định tại khoản 3 Điều 19 và quyền tài sản quy định tại Điều 20
của Luật này có thời hạn bảo hộ như sau:
a) Tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh
có thời hạn bảo hộ là năm mươi năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên.
Trong thời hạn năm mươi năm, kể từ khi tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu được
định hình, nếu tác phẩm chưa được công bố thì thời hạn được tính từ khi tác phẩm được
định hình; đối với tác phẩm khuyết danh, khi các thông tin về tác giả được xuất hiện thì
thời hạn bảo hộ được tính theo quy định tại điểm b khoản này;
b) Tác phẩm không thuộc loại hình quy định tại điểm a khoản này có thời hạn bảo hộ là
suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trong trường hợp tác
phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm
đồng tác giả cuối cùng chết;
c) Thời hạn bảo hộ quy định tại điểm a và điểm b khoản này chấm dứt vào thời điểm 24
giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả.

Việc bảo hộ quyền SHTT luôn gắn với thời hạn bảo hộ. Theo Điều 27 Luật SHTT
năm 2005, thời hạn bảo hộ quyền tác giả được chia thành hai loại: bảo hộ vô thời hạn
và bảo hộ có thời hạn.
Nhà nước bảm đảm vô thời hạn đối với các quyền nhân thân gắn liền với bản thân
tác giả, không thể chuyển giao cho người khác bao gồm: Quyền đặt tên cho tác phẩm,


Quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật bút danh khi tác

phẩm được công bố, sử dụng; Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho
người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây
phương hại đên danh dự và uy tín của tác giả ,được bảo hộ vô thời hạn. Điều đó có
nghĩa là cho dù tác giả chết đi thì tác phẩm mà tác giả sáng tạo vẫn mang tên mà tác
giả đã đặt, không ai có quyền thay đổi tên của tác phẩm, hoặc thay đổi nội dung của
tác phẩm, hoặc thay đổi tên tác giả của tác phẩm, kể cả người thừa kế của tác giả
cũng không có quyền này. Bởi đây là các quyền nhân thân chỉ gắn với con người cụ
thể đã sáng tạo tác phẩm.
Nhà nước bảo hộ có thời hạn đối với quyền nhân thân được phép chuyển giao (quyền
công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm) và tất cả các quyền tài sản.
Thời hạn bảo hộ là 50 năm đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật
ứng dụng, tác phẩm khuyết danh. Trong thời hạn 50 năm, kể từ khi tác phẩm điện
ảnh, tác phẩm sân khấu được định hình, nếu tác phẩm chưa được công bố thì thời hạn
được tính từ khi tác phẩm được định hình. Tác phẩm không thuộc loại hình trên có
thời gian bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo năm tác giả chết, trong
trường hợp đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ là 50 năm sau năm đồng tác giả cuối cùng
chết.
Hết thời hạn này, các sáng tạo trở thành tài sản chung của nhân loại và tất cả mọi
người có thể khai thác, sử dụng mà không phải xin phép hoặc trả thù lao cho người
sáng tạo. Quyền tác giả bảo hộ có thời hạn và muốn được bảo hộ phải đáp ứng các
yêu cầu luật định.
2.4. Hành vi xâm phạm quyền tác giả.
Hành vi xâm phạm quyền tác giả được quy định tại Điều 28, Luật SHTT.
Điều 28. Hành vi xâm phạm quyền tác giả
1. Chiếm đoạt quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.
2. Mạo danh tác giả.
3. Công bố, phân phối tác phẩm mà không được phép của tác giả.


4. Công bố, phân phối tác phẩm có đồng tác giả mà không được phép của đồng tác giả

đó.
5. Sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại
đến danh dự và uy tín của tác giả.
6. Sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, trừ
trường hợp quy định tại điểm a và điểm đ khoản 1 Điều 25 của Luật này.
7. Làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả
đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh, trừ trường hợp quy định tại
điểm i khoản 1 Điều 25 của Luật này.
8. Sử dụng tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả, không trả tiền
nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp
quy định tại khoản 1 Điều 25 của Luật này.
9. Cho thuê tác phẩm mà không trả tiền nhuận bút, thù lao và quyền lợi vật chất khác
cho tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả.
10. Nhân bản, sản xuất bản sao, phân phối, trưng bày hoặc truyền đạt tác phẩm đến
công chúng qua mạng truyền thông và các phương tiện kỹ thuật số mà không được phép
của chủ sở hữu quyền tác giả.
11. Xuất bản tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.
12. Cố ý huỷ bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả
thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình.
13. Cố ý xoá, thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử có trong tác phẩm.
14. Sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho thuê
thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do
chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình.
15. Làm và bán tác phẩm mà chữ ký của tác giả bị giả mạo.
16. Xuất khẩu, nhập khẩu, phân phối bản sao tác phẩm mà không được phép của chủ sở
hữu quyền tác giả.


Điều 28 Luật SHTT năm 2005 quy định về hành vi xâm phạm quyền tác giả, trong
đó có thể chia thành ba nhóm hành vi xâm phạm: các hành vi xâm phạm các quyền

nhân thân; các hành vi xâm phạm quyền tài sản; các hành vi xâm phạm đến các biện
pháp bảo vệ quyền tác giả.
Sự khác biệt giữa khoản 1 và khoản 2 Điều 28 ở chỗ chiếm đoạt quyền tác giả là chủ
sở hữu bị mất quyền của mình còn mạo danh tác giả là sự sáng tạo của tác giả bị lợi
dụng, mạo nhận ở một phạm vi nào đó. Bởi vì:
Chiếm đoạt quyền tác giả là lấy toàn bộ nội dung tác phẩm của người khác; biến tác
phẩm của người khác thành tác phẩm của mình để được hưởng các lợi ích từ quyền
tác giả. Hành vi chiếm đoạt quyền tác giả là hành vi khai thác các quyền tác giả đối
với tác phẩm mà không được phép.
Mạo danh tác giả là là hành vi đưa tên người không phải là tác giả lên bản sao tác
phẩm, làm cho công chúng hiểu nhầm người đó là tác giả thực hiện một phần hay
toàn bộ tác phẩm. Hành vi này thường do những chủ thể không phải là tác giả thực
hiện như lấy toàn bộ hay một phần tác phẩm của người khác rồi đề tên mình vào vị trí
của tác giả. Hành vi mạo danh đơn thuần chỉ xâm phạm quyền nhân thân của tác giả
tại khoản 2 Điều 19 Luật SHTT. Ngoài việc mạo danh đối với toàn bộ nội dung tác
phẩm, trường hợp khá phổ biến trên thực tế là việc trích dẫn một đoạn tác phẩm mà
không nêu rõ nguồn gốc trích dẫn, người thực hiện hành vi xâm phạm này đã tự nhận
đoạn tác phẩm đó là của mình…
Khoản 7 Điều 28 Luật SHTT quy định: “Làm tác phẩm phái sinh mà không được
phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác
phẩm phái sinh, trừ trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều 25 là hành vi xâm
phạm quyền tác giả. Theo quy định của Điều 20, quyền làm tác phẩm phái sinh thuộc
độc quyền của chủ sở hữu quyền tác giả. Do đó, khi người khác tạo ra tác phẩm phái
sinh trên cơ sở tác phẩm gốc như: Dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn,
chú giải, tuyển chọn... tác phẩm thì phải xin phép (nếu tác phẩm chưa được công bố),
trả

tiền

nhuận


bút,

thù

lao…

cho

chủ

sở

hữu

tác

phẩm

gốc.


Có thể nói, Luật SHTT đã liệt kê tương đối đầy đủ về các hành vi xâm phạm quyền
tác giả trên cơ sở xác định các hành vi đó xâm phạm các quyền nhân thân và quyền
tài sản thuộc quyền tác giả được bảo hộ. Đây cũng là những hành vi vi phạm phổ biến
trên thực tế liên quan đến vấn đề xâm phạm bản quyền mà dư luận thường xuyên đề
cập trong thời gian gần đây. Bên cạnh đó luật cũng quy định sản phẩm chứa đựng yếu
tố xâm phạm như: bản sao tác phẩm được tạo ra một cách trái phép, tác phẩm phát
sinh được tạo ra một cách trái phép; tác phẩm giải mạo tên, chữ ký của tác giả, mạo
danh hoặc chiếm đoạt quyền tác giả; tác phẩm bị trích đoạn, sao chép, lắp ghép trái

phép.
3. Chuyển giao quyền tác giả.
Đối tượng của các giao dịch chuyển giao quyền tác giả chủ yếu bao gồm các quyền
tài sản. Luật SHTT quy định chung về quyền tác giả và quyền liên quan.
3.1. Chuyển nhượng quyền tác giả.
Quy định tại Chương IV. Mục 1. Chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan.
Điều 45. Quy định chung về chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan
1. Chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan là việc chủ sở hữu quyền tác giả, chủ
sở hữu quyền liên quan chuyển giao quyền sở hữu đối với các quyền quy định tại khoản
3 Điều 19, Điều 20, khoản 3 Điều 29, Điều 30 và Điều 31 của Luật này cho tổ chức, cá
nhân khác theo hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật có liên quan.
2. Tác giả không được chuyển nhượng các quyền nhân thân quy định tại Điều 19, trừ
quyền công bố tác phẩm; người biểu diễn không được chuyển nhượng các quyền nhân
thân quy định tại khoản 2 Điều 29 của Luật này.
3. Trong trường hợp tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát
sóng có đồng chủ sở hữu thì việc chuyển nhượng phải có sự thoả thuận của tất cả các
đồng chủ sở hữu; trong trường hợp có đồng chủ sở hữu nhưng tác phẩm, cuộc biểu
diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng có các phần riêng biệt có thể tách ra
sử dụng độc lập thì chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan có quyền
chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan đối với phần riêng biệt của mình cho tổ
chức, cá nhân khác.
Điều 46. Hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan
1. Hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan phải được lập thành văn
bản gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
a) Tên và địa chỉ đầy đủ của bên chuyển nhượng và bên được chuyển nhượng;
b) Căn cứ chuyển nhượng;


×