Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

skkn một số BIỆN PHÁP CHO TRẺ 3 – 4 TUỔI yêu THÍCH học các tác phẩm văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.67 KB, 17 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHO TRẺ 3 – 4 TUỔI LỚP MẦM 1
TRƯỜNG MẦM NON KRÔNG ANA YÊU THÍCH HỌC
CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
I.

Đặt vấn đề
Lý do lý luận

Trẻ em là tương lai của đất nước, một đất nước muốn phồn thịnh, dân giàu
nước mạnh thì chúng ta phải biết quan tâm đầu tư cho thế hệ trẻ với mong muốn
một cuộc sống tươi sáng, tốt đẹp vậy mỗi một cá nhân hãy chung tay cùng toàn
xã hội quan tâm tới giáo dục từ ngay bây giờ, ngay lúc này để ươm mầm ra
những con người toàn diện cả về nhận thức và nhân cách để gánh vác sự nghiệp
của dân tộc.
Đảng và nhà nước ta luôn chú trọng quan tâm, đầu tư cho nền giáo dục
của nước nhà nói chung và nền giáo dục mầm non nói riêng đúng như vậy bậc
học mầm non là những viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho trẻ phát triển cả về
nhân cách lẫn con người toàn diện cho một xã hội phát triển.
Lý do thực tiễn
Trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi là một cột mốc quan trọng trong những năm đầu
đời vì giai đoạn này trẻ có khả năng ngôn ngữ phát triển mạnh mẽ tiến nhanh
vượt bậc và cụ thể là:
Hiểu được hầu hết các từ nói được
Có thể nghe câu chuyện 10-15 phút.
Nói được tên và tuổi của mình.
Nói được từ khoảng 250 đến 500 từ
Vì lí do đó mà cần cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học khi trẻ 3 - 4
tuổi đóng vai trò tích cực cả về phát triển nhận thức cũng như ngôn ngữ.
Những năm gần đây giáo dục không ngừng đổi mới và phát triển mạnh


mẽ, trẻ được học bài bản và đầu tư kĩ lưỡng ngay từ khi lọt lòng, trẻ được học
hát, học đọc, học kể chuyện và làm quen với những kĩ năng ban đầu những kĩ
năng này sẽ được hình thành cho trẻ và là bước đệm đầu tiên theo trẻ cho đến
hết cuộc đời. Như chúng ta đã biết trẻ 3 -4 tuổi là giai đoạn trẻ phát triển mạnh
mẽ về ngôn ngữ, ở giai đoạn này vốn từ của trẻ tăng lên đáng kể và những người
thầy đầu tiên của trẻ là ông bà bố mẹ và cô giáo, nhu cầu được nói được giao
tiếp và được mở rộng vốn từ của trẻ là không ngừng nghỉ chính vậy môi trường
1


giáo dục cho trẻ ở nhà trường kết hợp cùng gia đình là môi trường giáo dục tốt
nhất cho trẻ.
Giáo dục ở nước ta là nền giáo dục một cách toàn diện nhằm hình thành
nhân cách của một con người cũng như phát triển toàn diện về năm mặt, đức trí – thể - mĩ – lao động. Trong quá trình hình thành nhân cách toàn diện cho trẻ
thì các tác phẩm văn học cũng đóng vai trò đáng kể trong việc giáo dục trẻ như
chúng ta đã biết văn học là một loại hình nghệ thuật mà trẻ được tiếp xúc từ rất
sớm ngay từ tuổi ấu thơ trẻ đã được làm quen với những giai điệu nhẹ nhàng, êm
ái, thiết tha của những câu hát ru của bà của mẹ, lớn hơn một chút các em lại
được biết tới những câu chuyện dân gian, các tác phẩm thơ, văn. Các tác phẩm
này đã từng bước gieo vào lòng trẻ tình cảm yêu mến thế giới xung quanh, lòng
yêu thương đồng loại, lòng trắc ẩn với các sự việc xảy ra xung quanh và giúp trẻ
có thêm kiến thức hiểu biết về truyền thống dân tộc.
Ngày nay những hình vi đạo đức ngày càng tha hóa, đảo lộn trong xã hội,
xã hội trở lên khó phân biệt giữa cái tốt và cái xấu, giữa trắng và đen bản thân
trẻ chưa hiểu hết được các vấn đề cũng như phân biệt được việc cần và nên
làm .Vậy việc giáo dục trẻ qua các tác phẩm văn học, những câu truyện cổ tích
để trẻ biết yêu thêm quê hương đất nước, yêu những người gặp hoàn cảnh khó
khăn trong cuộc sống là một việc làm cần thiết ngoài ra việc giáo dục trẻ bằng
các tác phẩm văn học cũng mang lại những hiệu quả tốt vì trẻ sẽ thấy các nhân
vật trong các câu chuyện luôn gần gũi với mình từ đó trẻ sẽ yêu thích thêm các

tác phẩm văn học cũng như các tác phẩm văn học đã đến gần hơn với trẻ.
Ngoài ra các tác phẩm văn học còn giúp trẻ yêu thích hào hứng và có nhu
cầu tham gia vào các hoạt động nghệ thuật cũng như góp phần phát triển ngôn
ngữ của trẻ, dạy trẻ phát âm chính xác các âm tiết của tiếng mẹ đẻ, hiểu được sự
phong phú của tiếng Việt thông qua các tác phẩm mà trẻ được học… văn học
còn giúp trẻ rèn luyện và phát triển khả năng sử dụng ngôn ngữ mạch lạc khi
tham gia vào quá trình giao tiếp.
Cho trẻ làm quen các tác phẩm văn học từ khi trẻ 3 -4 tuổi mở rộng vốn
từ cho trẻ, qua việc đọc thơ nghe kể chuyện trẻ được làm quen với các từ vựng
mới qua đó phát triển ngôn ngữ nhanh hơn nhiều gia đình Việt hiện nay cho con
em mình tiếp cận với máy tính, điện thoại từ rất sơm trẻ từ mười mấy tháng đã
xem điện thoại, coi tivi đó là một cản trở cho việc phát triển ngôn ngữ ở trẻ
ngoài ra cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học từ khi còn học mẫu giáo đó
chính là trẻ được đến với thế giới nhân văn, đạo đức từ đó hướng trẻ tới chân –
thiện – mĩ của những giá trị cao đẹp ngày nay.
Đối tượng nghiên cứu trẻ 3 – 4 tuổi lớp Mầm 1 Trường Mầm Non Krông
Ana : Gồm 25 trẻ.
2


Phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp Mầm 1 giai đoạn bắt đầu thực nghiệm
nghiên cứu từ tháng 4 năm 2018 đến hết tháng 3 năm 2019.
Tóm lại việc cho trẻ tiếp xúc và làm quen các tác phẩm văn học từ bậc
học mầm non là vô cùng quan trọng và cần thiết đối với sự phát triển của trẻ cả
về ngôn ngữ lẫn nhận thức xuất phát từ thực tiễn quan trọng đó và một thời gian
nghiên cứu và khảo nghiệm tôi nhận thấy được tầm quan trọng cũng như những
lợi ích mang lại cho trẻ cho nên tôi đã chọn đề tài để nghiên cứu.
II.

Mục đích nghiên cứu


Mục đích nghiên cứu đề tài nói trên nhằm giải quyết những thực trạng
hiện nay trong giáo dục là chưa quan tâm chú trọng nhiều vào việc cho trẻ làm
quen các tác phẩm văn học hơn thế nữa là việc ứng dụng và phát huy việc dạy
học hiệu quả linh động trong các tiết học để đem lại kết quả tốt hơn cho môn
học này.
Trong các tài liệu nghiên cứu khoa học của các nhà sư phạm đầu nghành đều
đã khẳng định văn học là hoạt động học rất quan trọng và là phương tiện chủ
đạo phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non thông qua các hoạt động cho trẻ làm
quen với các tác phẩm văn học giúp trẻ có đủ vốn từ trong giao tiếp hằng ngày
và nhờ được tiếp xúc với các tác phẩm văn học trẻ nhận thức được mô tả được
các sự vật hiện tượng xung quanh gần gũi với trẻ qua đó trẻ cảm nhận và thêm
yêu quý thiên nhiên, yêu quý quê hương gia đình mình.
Cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học cũng chỉ ra được những giá trị
nghệ thuật, giá trị nhân cách và sự rung động hứng thú với các tác phẩm văn học
cũng mang lại cho trẻ những giá trị đạo đức cao cả mà thế giới xung quanh trẻ
thể hiện và từ đó những giá trị thiết thực, ý nghĩa trong cuộc sống hàng ngày
được trẻ ghi nhớ, tiếp thu và tái hiện lại đó chính là sự phản ánh lại cuộc sống
hiện thực mà bộ môn hướng tới.
Thơ ca, chuyện kể cũng là một loại hình nghệ thuật việc cho trẻ làm quen
và tiếp cận loại hình nghệ thuật này từ rất sớm cũng là tiền đề cho trẻ yêu thích
các loại hình nghệ thuật khác cũng như việc phát hiện năng khiếu từ sớm của trẻ
để có những định hướng cho tương lai tốt hơn.
Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận của vấn đề
Ngôn ngữ ra đời được coi là một tất yếu của xã hội để đáp ứng nhu cầu
cuộc sống con người mà biểu hiện cụ thể ở đây là con người giao tiếp với nhau.
Đối với mỗi cá nhân thì ngôn ngữ được xem như là yếu tố quan trọng, được phát
triển qua quá trình đúc rút kinh nghiệm những hành động nghe, nói và hiểu để
tiếp thu một cách dễ dàng ngay từ khi con người được sinh ra và việc phát triển

3


ngôn ngữ sẽ giúp cho tư duy ngày càng tiến bộ. Đây được xem là phương tiện
nhằm giáo dục trẻ một cách toàn diện về nhân cách và đạo đức.
Khi mới bắt đầu tiếp xúc với tiếng mẹ đẻ trẻ chỉ mới bắt đầu hiểu những
từ quen thuộc và riêng lẻ sau đó một số trẻ sẽ tập nói lặp lại sau khi được người
lớn nói nhưng bên cạnh đó một số trẻ chỉ trả lời phi ngôn ngữ hay những đáp án
trả lời là có hoặc không, một số trẻ khác lại chọn cho mình cách im lặng nếu như
vậy ngôn ngữ của trẻ không phát triển mà nếu có phát triển thì sẽ không đa
dạng, phong phú.
Chính vậy các nghiên cứu về ngôn ngữ đã khẳng định sự phát triển ngôn
ngữ ngắn liền với sự phát triển tư duy của trẻ em giúp trẻ nhận thức thế giới bên
ngoài vì thế chúng ta luôn thấy trẻ 3 – 4 tuổi luôn xuất hiện câu hỏi “Tại sao ?”
“Vì sao” qua điều này khẳng định việc phát triển ngôn ngữ của trẻ nhanh hay
chậm phần nào đó tùy thuộc vào điều kiện sống quan hệ giao tiếp với mọi người
xung quanh.
Qua việc cho trẻ làm quen văn học chính là hình thành cho trẻ những tình
cảm đạo đức tốt đẹp, những cảm xúc thẩm mỹ phát triển trí tưởng tượng như
lòng yêu thiên nhiên cỏ, cây, hoa lá, lòng kính trọng yêu thương những người
gần gũi và giúp đỡ những người xung quanh như ông, bà , bố, mẹ, cô giáo…
Thông qua hoạt động này trẻ tái tạo sáng tạo thêm những tình tiết của tác
phẩm một cách hồn nhiên phù hợp với lứa tuổi, việc trẻ làm quen với các tác
phẩm văn học giúp trẻ thuộc thơ, kể lại được những câu chuyện làm được như
vậy là chúng ta đã đạt được mục đích của môn học.
Làm quen văn học bản thân tôi đã nghiên cứu, suy nghĩ, lựa chọn những
phương pháp, biện pháp linh hoạt để hướng dẫn trẻ vào hoạt động một cách tốt
nhất cũng như đối với bản thân tôi trong các môn học cho trẻ làm quen ở bậc
học mầm non thì môn làm quen văn học tôi nhận thấy các trẻ còn yếu, trẻ chỉ
đọc thơ, kể chuyện theo bản năng nhưng chưa thấy được cái hay, cái đẹp và ý

nghĩa thực thụ của mỗi tác phẩm mà trẻ được làm quen. Đứng trước tình hình
đó, bản thân tôi luôn trăn trở một suy nghĩ là mình phải có biện pháp thế nào để
trẻ thêm yêu các tác phẩm văn học cũng như yêu tiếng Việt.
II. Thực trạng vấn đề:
Trong thực tế việc cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học chỉ mang
tính chất đáp ứng đủ chương trình mà chưa chú ý nhiều đến việc cảm thụ văn
học cũng như sự yêu thích môn học thực thụ mà chỉ là những hình thức đối phó
với cách dạy cũ, chưa sáng tạo, chưa có độ mở cho các tiết dạy.
Trẻ mẫu giáo hầu như tiếp nhận các tác phẩm văn học thường phải qua
trung gian là cô giáo (ở trường) và người lớn ở nhà như: ông, bà, bố mẹ trong
khi đó các phẩm văn học là một bản nghệ thuật ngôn ngữ nên việc cảm thụ tác
phẩm văn học đối với trẻ gặp nhiều khó khăn.
4


Giáo viên đứng lớp đã chú trọng đầu tư vào các tiết dạy môn làm quen
văn học khoa học hơn áp dụng nhiều phương pháp dạy học linh hoạt cũng như
cho trẻ đọc thơ, kể chuyện dưới nhiều hình thức hấp dẫn nhưng giáo viên chưa
cho trẻ tham gia vào hoạt động trải nghiệm đóng kịch nhiều vì ngại rườm rà, tốn
công bày cho trẻ thế nên các tiết kể chuyện phần nào đó đã bị giảm đi tính hấp
dẫn mà thay vào đó là sự nhàm chán.
Ngoài ra giáo viên còn rập khuôn, máy móc chưa có sáng tạo trong việc
chuyển thể từ chuyện kể sang sân khấu kịch để tạo ra tính kịch tính, bất ngờ cho
các câu chuyện và giáo viên đọc lời thoại lời dẫn chuyện dài dòng làm cho câu
chuyện kém đi tính hấp dẫn… và hạn chế lớn ở người giáo viên dẫn truyện là ở
chỗ đôi khi giọng đọc khô khan không cuốn hút trẻ ngay cả khi cô đọc và dẫn
chuyện đến tình huống ngay cấn của câu chuyện thì ánh mắt cử chỉ điệu bộ của
cô giáo lại chưa phù hợp chưa làm toát lên được thông điệp của các nhân vật
muốn hướng tới.
Khi cho trẻ cảm thụ một tác phẩm văn học cô giáo chưa chú trọng nhiều

vào công tác làm đồ dùng, âm thanh, tiếng động để làm nội bật lên được nội
dung và ý tưởng mà câu chuyện, bài thơ muốn mang lại ngoài ra nhiều trường
hợp khách quan từ giáo viên là cắt xén chương trình bỏ qua những tiết dạy bài
bản để cung cấp lượng kiến thức cho trẻ thay vào đó là sự sơ sài, đại khái.
Khó khăn không nhỏ nữa đến từ cha mẹ học sinh chưa có ý thức quan tâm
đúng mực tới con em của mình họ vẫn chưa thực sự đầu tư cho trẻ từ lứa tuổi
mầm non và những suy nghĩ đã ăn mòn vào những nếp nghĩ từ xa xưa là học
mầm non chủ yếu là chơi tự do và như vậy đã làm mất đi những nề nếp, khuôn
khổ trong thời gian trẻ ở trường với cô và các bạn.
Một yếu tố chủ quan nữa đến từ các bậc phụ huynh không hề nhỏ đó
chính là việc ở trên lớp giáo viên chủ nhiệm đã dạy trẻ về tấm gương đạo đức
qua các tiết học đọc văn thơ, kể chuyện nhưng về nhà phụ huynh lại không
thường xuyên nhắc nhở giáo dục trẻ theo những hình mẫu mà cô đã nêu ra và
tưởng trừng như chỉ là đơn giản vô hại nhưng đã tạo ra sự ngăn cản cũng như
ranh giới giữa lời nói của cô và gia đình trẻ. Vậy phụ huynh phải thường xuyên
trao đổi với giáo viên chủ nhiệm cũng như nắm bắt được tình hình học của trẻ ở
trường hàng ngày, hàng tuần để có biện pháp giáo dục phù hợp đồng bộ mang lại
hiệu quả cao hơn.
Mặc dù lớp học đã được trường và phòng giáo dục quan tâm cũng như
huyện đã đầu tư cho cơ sở vật chất nhưng trang thiết bị dạy và học còn thiếu
thốn nhiều do đó để đầu tư cho một tiết dạy thực sự có hiệu quả cũng như đem
lại kết quả tốt thì chưa được nhiều.
III.

Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
5


1. Giải pháp 1: Đầu tư vào tiết dạy, chuẩn bị đồ dùng đồ chơi đẹp mắt,
kích thích, hấp dẫn trẻ cũng như tạo môi trường cho trẻ hoạt động.

Trẻ mầm non đặc điểm tâm sinh lý khi học dễ nhớ nhưng cũng dễ quên vì
thế những gì giáo viên dạy cho trẻ cần được nhắc thường xuyên và làm quen
nhiều lần , hơn thế trẻ mẫu giáo tư duy trực quan sinh động phát triển mạnh mẽ
cái gì đẹp, hấp dẫn trẻ sẽ làm trẻ kích thích chú ý vào đối tượng đó lâu dài. Một
tiết dạy làm quen văn học chỉ đạt hiệu quả trên trẻ tốt nhất khi trẻ ghi nhớ yêu
thích các tác phẩm nói trên.
Vậy để giải quyết vấn đề này thì biện pháp cần làm là cô đầu tư đồ dùng
dạy học, đồ chơi đẹp mắt trẻ hứng thú, cô không cần phải chọn những đồ dùng
đồ chơi khó tìm, tốn tiền mà chỉ cần tự tạo ra những đồ dùng đồ chơi có sẵn tại
địa phương làm phương tiện dạy học hiệu quả và gần gũi. Sự sáng tạo của giáo
viên trong việc cung cấp phương tiện dạy học như tranh ảnh , hình ảnh thật, rối
tay từ vải để cho tiết dạy thêm phong phú.
Ví dụ: Trong tiết dạy chuyện “ Chiếc đầu máy xe lửa tốt bụng”
Với tiết chuyện này câu chuyện dài và khó nhớ trẻ sẽ không thật sự tập
trung nếu cô chỉ sử dụng hình thức kể chuyện diễn cảm, điệu bộ quen thuộc
nhưng nếu cô sử dụng các hộp sữa đã uống hết hàng ngày của trẻ làm những toa
tàu cũng như dùng giấy màu dán lên với nhiều màu sắc sặc sỡ để làm phương
tiện kể chuyện thì trẻ sẽ thích thú kể theo mô hình và qua đó cô cũng giáo dục
các giá trị đạo đức đến trẻ là phải biết giúp đỡ người khác trong hoàn cảnh khó
khăn như vậy mỗi câu chuyện cô giáo dạy cho trẻ là một bài học đạo đức thiết
thực nhất,ý nghĩa nhất cũng như thông qua việc tận dụng các hộp sữa dùng rồi
chúng ta dạy trẻ biết tiết kiệm, biết sử dụng nguyên vật liệu tái chế. Trẻ sẽ không
thể nhớ cũng như không để tâm mấy nếu những bài học đạo đức đó được dạy
theo kiểu truyền thống từ trước tới giờ cô giảng ở trên và trẻ nghe ở dưới, trẻ
không phải là trọng tâm của tiết học như thế trẻ không lưu tâm và ghi nhớ lâu
dài.
Ví dụ: Câu chuyện “Chú Vịt xám”
Tôi làm những chú vịt bằng những quả bóng trang trí mắt, mỏ, chân bằng
nguyên vật liệu dễ kiếm (len, hột, hạt...)Mỗi một câu truyện tôi luôn luôn phải
suy nghĩ, phải chuẩn bị đồ dạy như thế nào, khác với đồ dùng của tiết học trước

để cho cháu lớp tôi chú ý tham gia vào giờ học. Với việc chuẩn bị đồ dùng chu
đáo trước khi vào giờ dạy, tôi cảm thấy tự tin hơn. Trẻ lớp tôi hứng thú tham gia
giờ học
Ví dụ: Dạy trẻ thơ “Bắp cải xanh” lớp 3 – 4 tuổi
Trong tiết dạy này trẻ sẽ thấy nhàm chán khi cô giáo chỉ cho trẻ đọc thơ
suông nhưng trẻ sẽ rất hào hứng và vui vẻ khi cô cho trẻ được đọc thơ và làm
6


quen với cái bắp cải xanh, ngoài viêc cô giáo lấy bắp cải làm phương tiện dạy
học thì trẻ sẽ được trải nghiệm cuộc sống hằng ngày bằng việc dùng tay tách
từng chiếc lá của bắp cải. Qua tiết dạy này giáo viên sử dụng một phương tiện
dạy học nhưng đạt được hai mục đích. Thứ nhất trẻ đọc bài thơ bắp cải qua hình
ảnh thực trẻ sẽ hứng thú hơn, hai là sử dụng bắp cải trẻ được thực hành cuộc
sống, tách lá, nhạt rau… trẻ hứng khởi hơn rất nhiều những tiết dạy thông
thường.
Tóm lại việc sử dụng đồ dùng phục vụ tiết dạy môn làm quen văn học cô
giáo có thể sử dụng đồ vật thật, hay đồ vật tự làm tùy thuộc vào từng đề tài
cũng như nguyên vật liệu có sẵn tại lớp tại trường để lên tiết cho phù hợp và trẻ
yêu thích, ưu tiên cho việc tận dụng đồ dùng đồ chơi có sự tái chế và nguồn
nguyên liệu có sẵn tại địa phương để giảm áp lực cho giáo viên khi lựa chon tiết
dạy.
Bên cạnh việc có đồ dùng đồ chơi phục vụ cho tiết dạy biện pháp tối ưu
không kém đó là tạo môi trường cho trẻ hoạt động bằng cách đưa các nhân vật
của câu chuyện nổi bật vào góc văn học cho trẻ hoạt động thường ngày và qua
những hình ảnh đó trẻ có thể vận dụng vào kể chuyện sáng tạo theo ý tưởng sự
hiểu biết của từng trẻ.
Ví dụ: Để tạo môi trường cho trẻ được thường xuyên làm quen với các tác
phẩm văn học cô giáo tổ chức các hội thi “Bé nào giỏi” thi đua đọc thơ to, thơ
diễn cảm, thơ sáng tạo giữa các tổ, giữa các nhóm, giữa các cá nhân trẻ với nhau

như vậy môi trường để trẻ thường xuyên đọc thơ, kể chuyện đã được cô giáo tận
dụng hàng ngày ở trên lớp.
Đối với các ngày mà trẻ không được học môn làm quen với các tác phẩm
văn học thì tôi sẽ sử dụng bài thơ, câu ca dao, câu đố vào những môn học khác
để dẫn dắt cho tiết học ngày hôm đó với mong muốn là trẻ được tiếp xúc cũng
như làm quen với môn văn học nhiều hơn.
Qua các tiết làm quen văn học cô giáo cũng lên chú trọng và khai thác vào
kể truyện sáng tạo, khi trẻ kể truyện sáng tạo cô hướng dẫn cho trẻ các ngữ điệu
ngắt nghỉ để truyền đạt thái độ tình cảm của trẻ dành cho các tác phẩm văn học.
Những khi trẻ bắt chước kể chuyện là những lúc đó ngôn ngữ của trẻ phát triển
mạnh mẽ vốn từ được làm giàu thêm và qua đó trẻ cảm nhận được ngôn ngữ của
mẹ đẻ yêu thêm tiếng Việt.
2. Giải pháp 2: Dùng phương pháp đọc, kể diễn cảm kèm theo hệ
thống câu hỏi hấp dẫn.
Một tiết dạy hay hấp dẫn thu hút trẻ khi cô giáo là người dẫn dắt và truyền
thụ tác phẩm tới trẻ mà trẻ yêu thích hứng thú do vậy giáo viên cần cố gắng sử
dụng một sắc thái giọng kể của mình làm phương tiện đọc kể biểu cảm khác
7


nhau làm cho tác phẩm cất lên tiếng nói riêng tạo cho tác phẩm bức tranh tương
ứng hấp dẫn đối với trẻ để làm được như vậy bản thân người giáo viên không
ngừng học hỏi và sưu tầm những bài thơ câu chuyện mới để thường xuyên thay
đổi nội dung giáo dục cho phù hợp với chủ điểm với bài dạy nhằm thu hút sự
chú ý của trẻ.
Biện pháp đưa ra là : Các tiết dạy cho trẻ làm quen văn học tôi luôn cố
gắng phân biệt giữa giọng đọc và giọng kể và cũng cố gắng nhập tâm vào tác
phẩm để truyền tải những thông điệp mà tác phẩm muốn gửi ngắm nhắn nhủ
cũng như việc kết hợp với giọng kể thì sắc thái, khuôn mặt, cử chỉ điệu bộ, ánh
mắt cũng là phương tiện hỗ trợ tích cực cho cô giáo khi thực hiện tiết dạy.

Ví dụ: Khi cô cho trẻ làm quen với tác phẩm “Chú dê đen” giáo viên cần
lưu ý phân biệt rõ giữa các tuyến nhân vật như:
Chú dê trắng thì giọng yếu ớt, run sợ, nói ngắt quãng, chân tay run sợ
Chú dê đen thì giọng đọc bình tĩnh , đanh thép, dáng vẻ oai phong.
Giọng chó sói thì cần thay đổi theo hai tuyến nội dung như nói chuyện với
dê trắng thì hống hách, quát nạt giữ tợn nhưng khi nói chuyện với dê đen thì
giọng thay đổi liên tục từ quát nạt hống hách đến ngần ngừ, sợ sệt.
Giáo viên khi cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học cũng cần phải tìm
hiểu, nghiên cứu thật rõ nội dung của tác phẩm để khi thể hiện trước trẻ cô phải
biết ngắt quãng, thay đổi giọng điệu để phù hợp với bài thơ,câu chuyện.
Ví dụ: Bài thơ “Giữa vòng gió thơm”
Trong bài thơ này cô cần thể hiện giọng đọc phù hợp như khi đọc tới câu
thơ để cho bà ngủ thì giọng đọc của cô lên xuống nhẹ nhàng ra vẻ nhắc nhở để
làm cho bài thơ thêm phần tình cảm.
Việc sử dụng giọng đọc hay diễn cảm đóng vai trò quan trọng trong việc
truyền thụ một tác phẩm văn học cũng như cô giáo cần linh hoạt trong các tiết
học, sáng tạo để có thể tổ chức một tiết văn học thành những hội thi, thành
những lễ hội biểu diễn để tạo sự mới mẻ cho tiết học cũng như sự mới lạ đối với
trẻ thay vì tổ chức một tiết học với những hình thức cũ để làm được như vậy
giáo viên không ngừng cố gắng học tập tìm tòi để tạo ra một tiết học hay mới lạ
cho trẻ.
Khi tiết dạy đã được đầu tư công phu thì một biện pháp bổ trợ cho các tiết
dạy với đóng góp không nhỏ đó là hệ thống các câu hỏi hay, hấp dẫn, bất ngờ
nhằm mục đích hệ thống lại câu chuyện để cho trẻ dễ nhớ và hiểu sâu sắc hơn về
tác phẩm được làm quen. Để có được các câu hỏi hệ thống lại câu chuyện đòi
hỏi giáo viên phải chú trọng vào nội dung để chắt lọc ra các câu hỏi mang tính
khoa học nhưng lại phải gần gũi so với trẻ để trẻ dễ hiểu, dễ trả lời.
8



Ví dụ: Trong bài thơ “Gà mẹ đếm con”
Cô giáo có thể sử dụng hệ thống câu hỏi như sau:
- Các con vừa đọc bài thơ có tên là gì? Do ai sáng tác?
- Gà mẹ đã làm gì để biết số con của mình?
- Đàn gà con tranh nhau nhặt cái gì?
- Vì sao Gà mẹ phải đếm lại con?
- Khi đi chơi không muốn bị lạc chúng ta phải làm gì?
Với hệ thống câu hỏi đơn giản như vậy trẻ sẽ dễ trả lời cũng như trẻ khái
quát lại được nội dung của bài thơ.
Một yếu tố quan trọng không kém để mang lại hiệu quả cho các câu hỏi
đặt ra đó là việc cung cấp các câu hỏi mang tính bất ngờ, với các hình thức dạy
học trước kia cô giáo đọc câu hỏi và trẻ trả lời thì bây giờ để mang câu hỏi tới
trẻ ta sử dụng thêm các hình thức khác nhau như chia nhóm để trả lời câu hỏi,
rung chuông vàng để trả lời câu hỏi, chọc bóng bay để lấy câu hỏi cho mình…
dù sử dụng bất cứ hình thức nào nhưng cô giáo phải chú trọng nhiều vào sự tự
chủ của trẻ khi lựa chọn trả lời nếu trẻ trả lời đúng hoặc sai thì chúng ta cũng
luôn phải sự dụng hình thức động viên, khích lệ trẻ để trẻ tự tin cho các lần học
tiếp theo.
Để thực hiện giải pháp này chúng ta có nhiều biện pháp để dạy trẻ nhưng
khi dạy trẻ làm quen các tác phẩm văn học yêu cầu cô giáo cần linh hoạt trong
các tiết dạy để mang lại nhiều tác động tích cực đến công tác dạy và học của trẻ
tại lớp.
3. Giải pháp 3: Lồng ghép môn làm quen các tác phẩm văn học vào các
môn học khác
Môn làm quen văn học là môn học với lời kể diễn cảm, hấp dẫn đã làm
rung động người nghe nhưng khi biết tích hợp cùng các môn học khác thì độ hấp
dẫn và sáng tạo lại được tăng thêm phần cảm xúc vì nó làm thay đổi không khí,
thay đổi trạng thái khi kể chuyện bằng những lời ca, ca dao câu đố từ đó chúng
ta lồng ghép được nhiều hơn và thời lượng trẻ được học cùng với môn học này
là tối đa nhưng lại không nhàm chán.

Ví dụ: Trong tiết khám phá khoa hoc “Trò chuyện một số con vật nuôi
trong gia đình” giáo viên có thể lồng ghép cho trẻ múa hát và vận động bài hát
“Đàn gà trong sân” sau đó chúng ta sử dụng câu đố cho các con vật xuất hiện,
kết thúc chúng ta cho trẻ làm giả tiếng các con vật kêu, như vậy qua tiết dạy này
chúng ta đã lồng ghép văn học và cũng thay đổi hình thức cho môn làm quen
văn học trẻ sẽ yêu thích hơn.
Biện pháp tích hợp môn văn học với các môn học khác, các trò chơi cho trẻ
kể chuyện sáng tạo là việc cung cấp thêm một số kiến thức bổ trợ cho câu
9


chuyện sinh động cũng như ở lứa tuổi này trẻ thường mau nhớ chóng quên nên
tôi đã đưa văn học vào mọi lúc nơi có thể giờ đón trẻ tôi đưa trẻ vào góc văn học
cho trẻ kể chuyện sáng tạo cũng như củng cố kiến thức cũ làm quen kiến thức
mới đây là hình thức cho trẻ trải nghiệm những gì mình sẵn có cũng như học tập
ở bạn ở cô từ đó trẻ cảm thấy tự tin và thoải mái hơn khi học.
Ví dụ: Cho trẻ học làm quen với hoạt động góc, trong buổi chơi hoạt động
góc, ở góc nghệ thuật thay vì cho trẻ đọc thơ, kể chuyện như mọi lần thì tôi tổ
chức hội thi “Bé làm nhà thơ” để trẻ đọc thơ, ngâm thơ, kể chuyện bằng âm
nhạc…thay đổi hình thức chơi mới sẽ kích thích trí tò mò, tưởng tượng của trẻ.
Nhưng khi cho trẻ tích hợp môn văn học với các môn học khác cô giáo phải
là người dẫn dắt linh hoạt lựa chọn nội dung câu chuyện bài thơ, câu đố cho phù
hợp với độ tuổi cũng như phù hợp với đề tài của tiết dạy ngày hôm đó.
4. Giải pháp 4: Giáo viên phối kết hợp với phụ huynh và các tổ chức
trong nhà trường thường xuyên cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học.
Chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trong trường mầm non phụ thuộc nhiều
vào sự tham gia đóng góp của gia đình trẻ. Trẻ ở trường đã được làm quen tiếp
xúc với các tác phẩm văn học khi về nhà cha mẹ là người tạo điều kiện cho trẻ
thể hiện bằng cách trò chuyện cùng trẻ hỏi trẻ ngày nay ở trường trẻ đọc những
bài thơ, câu chuyện gì từ đó trẻ lại một lần nữa nghi nhớ và được thể hiện lại tác

phẩm cho gia đình của mình.
Việc gia đình trẻ và cô giáo thường xuyên trao đổi tình hình của trẻ ở
trường ở nhà đã tạo được sợi dây liên kết chặt chẽ, lâu dài sẽ tìm ra tiếng nói
chung nhất trong việc cùng nhau chăm sóc và giáo dục trẻ vì mục đích là làm
những gì tốt nhất cho trẻ.
Ngoài ra cô giáo cũng tham mưu với nhà trường tổ chức cuộc thi, hội thi
“Bé kể truyện hay, bé đọc thơ diễn cảm” để quảng cáo và tuyên truyền tới các
bậc phụ huynh tầm quan trọng của việc cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn
học, qua các tác phẩm văn học không chỉ cung cấp cho một vốn từ phong phú
mà còn giáo dục trẻ về đạo đức, khi được học hỏi và làm quen các tác phẩm đó
trẻ biết giá trị đạo đức qua các tác phẩm biết yêu thương quý trọng mọi người
cũng như biết lễ phép với người lớn, biết giúp đỡ người nghèo, người gặp hoàn
cảnh khó khăn…
Bên cạnh đó tôi còn làm tốt và chú trọng nhiều tới góc tuyên truyền của
lớp vì qua góc này cô giáo trao đổi với phụ huynh về việc học của trẻ ở trường
cũng như phụ huynh lắm bắt được việc học của con em mình khi ở trường cũng
như nhờ phụ huynh hỗ trợ đồ dùng dạy học phục vụ cho tiết dạy làm đồ dùng
ngày càng phong phú hơn.
10


Ví dụ: Trong giờ trả trẻ tôi trao đổi với phụ huynh hôm nay trên lớp cháu
đọc bài thơ “Gà mẹ đếm con” và nhắc phụ huynh về nhà yêu cầu con của mình
đọc cho cả gia đình cùng nghe.
Phụ huynh sẽ càng tin tưởng cô giáo hơn khi được cùng cô và trẻ trải
nghiệm bằng cách mời phụ huynh tham gia vào ngày lễ, ngày hội của nhà
trường, của lớp để phụ huynh đóng góp vào công tác giáo dục đó chính là làm
tốt công tác xã hội hóa giáo dục cho địa phương.
IV. Tính mới của giải pháp:
Các giải pháp được thực hiện xuyên suốt trong quá trình cho trẻ làm quen

với các tác phẩm văn học trên lớp như vậy tính mới của các giải pháp trên thay
vì theo các lối mòn trước kia trẻ là người nghe cô là người dẫn dắt thì bây giờ ta
cho trẻ là người dẫn dắt trong tiết học và giáo viên chỉ là người bổ sung, điều
chỉnh nhắc nhở trẻ khi trẻ quên hay trẻ đi lệch hướng.
Sự phát triển của trẻ là không đồng đều về cả thể chất lẫn nhận thức. Như
cách dạy học trước kia trẻ được làm quen với các tác phẩm dưới dạng đọc, kể
theo lớp, tổ, nhóm, cá nhân thì bây giờ ta chú trọng đến sự phát triển của từng cá
nhân trẻ bằng cách nếu trẻ thuộc thơ, chuyện thì đọc cả bài, kể chuyện theo đoạn
hoặc tự chọn hình thức thể hiện mà trẻ muốn còn những trẻ chưa thuộc thì đọc
một câu, hai câu tùy vào khả năng, như vậy giáo viên đã tổ chức tiết học mà tất
cả trẻ đều được học và tham gia đầy đủ. Sau khi cá nhân trẻ thể hiện xong chúng
ta cho trẻ tự đánh giá lẫn nhau để thể hiện sự dân chủ, tôn trọng đến từng cá
nhân một của lớp.
Xây dựng môi trường học tập lấy trẻ làm trung tâm trong việc cho trẻ làm
quen với các tác phẩm văn học bằng cách cô và trẻ cùng chuẩn bị đồ dùng của
tiết học cũng như cho trẻ tự sáng tạo nội dung tác phẩm theo hướng dẫn, chỉ
đường của cô có như vậy chúng ta mới tỏ ra tôn trọng ý tưởng của trẻ cũng như
chúng ta thật sự hiểu được trong sâu thẳm trẻ nghĩ gì để có cách điều chỉnh và
định hướng kịp thời trong tương lai.
V. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm:
Sáng kiến sẽ được áp dụng vào vào đối tượng là trẻ 3 – 4 tuổi tại trường
Mầm Non Krông Ana.
Theo bản thân cá nhân tôi khi sáng kiến này được áp dụng thì trẻ sẽ có cơ
hội được làm quen với các tác phẩm văn học nhiều hơn vì chúng ta đã biết lồng
ghép văn học vào các môn học khác nhau cũng như đã cho trẻ tiếp xúc với bộ
môn này ở mọi lúc mọi nơi cũng như được làm quen thể hiện với nhiều hình
thức nghệ thuật khác nhau (đọc, kể, hò ,vè…) và thường xuyên tạo môi trường
học cho trẻ.
11



Sau khi được áp dụng và thử nghiệm trên trẻ, trẻ sẽ mạnh dạn tự tin hơn
đối với môn học này và các môn học khác nữa ngoài ra việc quan trọng không
kém đó chính là sự phát triển ngôn ngữ ngày càng mạnh mẽ, ngôn ngữ đa dạng
phong phú hơn vì trẻ được trải nghiệm với nhiều thể loại như thơ, chuyện,đồng
dao, ca dao… bên cạnh đó nhờ việc được làm quen với nhiều bài ca dao đồng
dao của các tác giả hoặc các tác phẩm truyền miệng thì những bài đồng dao, ca
dao, tục ngữ …vô hình chúng ta đã biến trẻ thành những người lưu giữ truyền
lại những bài đồng dao, ca dao quý báu của dân tộc Việt.
Khi áp dụng sáng kiến vào học sinh chúng ta cũng đang trực tiếp giáo
dục, giảng dạy về đạo đức kĩ năng sống cho trẻ thông qua việc cho trẻ làm quen
với các tác phẩm văn học hằng ngày ở trên trường.
Điều kiện để thực hiện sáng kiến là bản thân cô giáo phải trau dồi kiến
thức cho mình để có thể giảng dạy linh hoạt trong các tiết học cũng như biết áp
dụng môn làm quen văn học vào các tiết học khác nhau linh hoạt. Cô cũng phải
chịu khó sưu tầm, tìm tòi những bài thơ, câu chuyện mới để dạy trẻ phù hợp với
độ tuổi cũng như chủ đề, việc tìm tòi sưu tầm các bài ca dao, tục ngữ nói về
cuộc sống, thiên nhiên, con người là chúng ta cũng đang lưu giữ những giá trị
văn hóa của dân tộc mình và người kế nhiệm để truyền lại đó chính là trẻ.
Phần thứ ba: Kết luận, kiến nghị
I. Kết luận:
Với tầm quan trọng của việc cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học
như vậy tôi nhận thấy để truyền đạt tới trẻ tốt nhất thì người giáo viên không
ngừng học tập trau dồi kiến thức cũng như sưu tầm các bài thơ, câu chuyện, câu
đố, ca dao, tục ngữ để thường xuyên thay đổi nội dung giáo dục cho phù hợp với
chủ đề cũng như tình hình của địa phương và sự phát triển chung của trẻ nhằm
tạo ra các tiết học vui vẻ, có chất lượng và luôn quan tâm tới chủ đạo của tiết
học là trẻ cũng như phải biết nâng cao nghệ thuật lên lớp phong cách xử lí tình
huống sư phạm cũng như việc kết hợp dạy trẻ mọi lúc mọi nơi giúp trẻ phát triển
khả năng ghi nhớ có chủ định.

Trong công tác giảng dạy tiếp theo của mình tôi luôn phải ghi nhớ, quan
sát từng trẻ để có nội dung giáo dục phù hợp cũng như việc linh hoạt sử dụng
các phương pháp giáo dục khác nhau vào trong tiết học, cố gắng xây dựng một
môi trường học thân thiện.
Đến với việc làm quen các tác phẩm văn học bước đầu trẻ đã hình thành
những khái niệm sơ đẳng về thế giới xung quanh và phát triển trí tưởng tượng
cho trẻ.
Từ những tác phẩm văn học trẻ được phát triển về tâm hồn cũng như đức
– trí – thể - mĩ, để hướng tới một con người toàn diện cho một xã hội ngày càng
12


phát triển và hình thành nhân cách cho trẻ ngay từ bậc học mầm non đó là tầm
quan trọng của môn văn học mang lại cho trẻ em nói chung và trẻ em ở lứa tuổi
mẫu giáo nói riêng đó là mục đích của sáng kiến kinh nghiệm mà tôi muốn
hướng tới lâu dài.
II. Kiến nghị
Để thực hiện tốt đề tài này và mong muốn đề tài được phổ biến rộng rãi
hơn tôi là người trực tiếp giảng dạy mong muốn lãnh đạo cấp trên quan tâm bổ
sung thêm các trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi hiện đại để tạo ra các tiết dạy hay,
hứng thú, sáng tạo để phục vụ tới trẻ.
Đề xuất tới lãnh đạo cấp trên thường xuyên tổ chức thật nhiều chuyên đề
mang phạm vi các trường, các huyện để giáo viên được học hỏi, trao đổi kinh
nghiệm của bản thân đối với đồng nghiệp ở khắp mọi nơi hay các cuộc thi làm
đồ dùng đồ chơi tự tạo cho giáo viên và học sinh được trải nghiệm cùng nhau
cùng tìm ra tiếng nói chung cho các hoạt động dạy và học .
Mong muốn lãnh đạo cấp trên cũng thường xuyên tổ chức các hội thi
mang tính chất bảo tồn, duy trì những câu ca dao, câu tục ngữ đã mai một để nó
được sống lại cũng như gần gũi hơn với trẻ ở độ tuổi mầm non.
Để hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này, mặc dù được sự quan tâm

giúp đỡ của các chị em đồng nghiệp và đặc biệt của ban giám hiệu nhà trường.
Nhưng không tránh khỏi những thiếu sót rất mong được sự đóng góp ý kiến của
lãnh đạo cấp trên để sáng kiến ngày càng hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Buôn trấp, ngày 8 tháng 4 năm 2019
Người viết

Vũ Thị Thúy Dịu

13


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học
Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ từ 3 – 5 tuổi
Tuyển tập các bài hát, bài thơ, câu đố dành cho trẻ mầm non

Trang Wed w.w.w.mamnon.com

15


Mục lục

Trang

Phần thứ nhất: Mở đầu......................................................................................1
I. Đặt vấn đề..........................................................................................................1
II. Mục đích nghiên cứu........................................................................................3
Phần thứ 2: Giải quyết vấn đề............................................................................3
I. Cơ sở lí luận của vấn đề.....................................................................................3
II. Thực trạng của vấn đề.......................................................................................4
III. Các giải pháp để tiến hành giải quyết vấn đề..................................................5
1. Giải pháp 1........................................................................................................5
2. Giải pháp 2........................................................................................................7
3. Giải pháp 3........................................................................................................8
4. Giải pháp 4........................................................................................................9
IV. Tính mới của giải pháp..................................................................................10
V. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm.....................................................................10
Phần thứ 3: Kết luận, kiến nghị.......................................................................11
I. Kết luận............................................................................................................11
II. Kiến nghị.........................................................................................................12

16


17




×