Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

xúc tiến bán hàng trong kinh doanh thương mại ở Việt Nam, những lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.33 KB, 70 trang )

NHẬN TRƯỜNG
XÉT CỦA GIẢNG
VIÊN
ĐẠI HỌC
ĐÀHƯỚNG
LẠT DẪN
………………………………………………………………………………………
KHOA LUẬT HỌC
………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
XÚC TIẾN BÁN HÀNG TRONG KINH DOANH THƯƠNG MẠI Ở
………………………………………………………………………………………
VIỆT NAM, NHỮNG LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………


………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC K39
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Đà Lạt, ngày tháng 5 năm 2019

Đà Lạt, năm 2019

GVHD


NHẬN XÉT CỦA BAN CHỦ NHIỆM KHOA LUẬT
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

Đà Lạt, ngày tháng 5 năm 2019
Người nhận xét


LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện và hoàn thành Chuyên đề như hôm nay em xin gửi lời cảm ơn chân
thành và sâu sắc tới nhà trường, các thầy, cô giáo trong khoa Luật trường Đại học
Đà Lạt đã tận tình dạy dỗ và truyền đạt những kiến thức quý báu trong suốt 4 năm
học qua, đặc biệt là Giảng viên hướng dẫn Cô TH.S Võ Thị Thanh Linh là người
trực tiếp hướng dẫn em trong quá trình viết chuyên đề, những định hướng của cô
giúp em rất nhiều trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện Chuyên đề tốt nghiệp.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các cô, chú lãnh đạo tại Ủy Ban Nhân Dân Xã
Vĩnh Sơn, Vĩnh Linh, Quảng Trị, đặc biệt gửi lời cảm ơn đến anh Hồ Ngọc Quyết
cán bộ Tư Pháp là người trực tiếp hướng dẫn trong quá trình em thực tập tại Ủy Ban

Xã và tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành Chuyên đề tốt nghiệp.
Mặc dù đã cố gắng hoàn thành chuyên đề với tất cả nỗ lực của bản thân nhưng do
khả năng và kinh nghiệm thực tế chưa nhiều nên chuyên đề không tránh khỏi những
thiếu sót. Kính mong các thầy, cô chỉ bảo và góp ý.
Em xin chân thành cảm ơn!

Đà lạt, ngày tháng năm 2019
Tác giả
Nguyễn Thị Hà


LỜI CAM ĐOAN

Đề tài “xúc tiến bán hàng trong kinh doanh thương mại ở Việt Nam,
những lý luận và thực tiễn” là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi, hoàn
toàn không có sự sao chép, giả mạo của tác giả khác. Các nguồn tài liệu trích dẫn,
số liệu sử dụng và nội dung khóa luận tốt nghiệp trung thực.
Đồng thời cam kết kết quả quá trình nghiên cứu của chuyên đề nghiệp này
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào.
Tôi xin cam đoan và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước trường về vấn đề này.

Đà Lạt, ngày 03 tháng 5 năm 2019
Tác giả


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

LTM
NĐ-CP


Luật thương mại
Nghị định- chính phủ


Mục Lục


7

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Xúc tiến thương mại ở Việt Nam ngày càng khẳng định là công cụ không thể
thiếu trong việc thúc đẩy hoạt động thương mại, thúc đẩy xuất khẩu nhất là trong bối
cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc
tế sâu rộng hiện nay. Xúc tiến thương mại là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua,
bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, bao gồm các hoạt động cụ thể như khuyến mại,
quảng cáo thương mại, trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ hay hội chợ, triển lãm
thương mại không chỉ giúp các quốc gia tận dụng cơ hội và hạn chế những thách thức,
khó khăn của hội nhập kinh tế quốc tế mà còn là công cụ hữu hiệu giúp các quốc gia
phát triển thị trường nội địa, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu và hạn chế nhập siêu.
Xúc tiến thương mại được xem là cầu nối hợp tác và phát triển thương mại
giữa doanh nghiệp Việt Nam và thế giới. Xúc tiến thương mại giúp các doanh nghiệp
Việt Nam tìm kiếm cơ hội kinh doanh, tìm đối tác đầu tư từ thị trường ngoài nước,
quảng bá sản phẩm, thương hiệu nhằm chinh phục người tiêu dùng cả trong và ngoài
nước.
Sự ra đời của Luật thương mại năm 1999 đã tạo cơ sở quan trọng cho việc
tiến hành các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm tìm kiếm thị trường, tìm kiếm cơ
hội kinh doanh cho các doanh nghiệp Việt Nam. Cùng với việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật, chính sách trong từng giai đoạn khác nhau, hàng loạt các văn bản pháp luật

đã được ban hành, có tác động trực tiếp đến hoạt động xúc tiến thương mại.
Quan trọng hơn nữa, công tác xúc tiến thương mại cũng đã được đề cập khá cụ
thể tại Luật thương mại 2005 và Nghị định số 37/2006/NĐ-CP. Nhờ vậy mà đến nay,
hoạt động xúc tiến thương mại đã tăng cường tính hiệu quả. Tuy nhiên, dù đã có nhiều
văn bản pháp luật ra đời để điều chỉnh hoạt động xúc tiến thương mại, nhưng đến nay,
việc áp dụng pháp luật về xúc tiến thương mại vẫn còn có một số bất cập và chưa thực
sự phù hợp.


8
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng hiện nay, các doanh nghiệp một mặt
duy trì hoạt động tại các thị trường truyền thống, một mặt tích cực đẩy mạnh hoạt động
tại các thị trường lớn và tiềm năng, hứa hẹn mang lại nhiều lợi ích cho nến kinh tế Việt
Nam. Cũng có nhiều hình thức hoạt động xúc tiến thương mại khác nhau để cho
thương nhân lựa chọn. Đây cũng là lý do em lựa chọn đề tài “Xúc tiến bán hàng trong
kinh doanh thương mại ở Việt Nam, những lý luận và thực tiễn”làm đề tài nghiên cứu
cho Chuyên đề tốt nghiệp của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xúc tiến thương mại ở Việt Nam vẫn còn là lĩnh vực mới mẻ và là vấn đề được
quan tâm nghiên cứu nhiều trong thời gian gần đây. Nói tới hoạt động xúc tiến thương
mại và pháp luật về xúc tiến thương mại, đã có nhiều công trình nghiên cứu, luận văn,
sách chuyên khảo bàn về vấn đề này. Có thể kể tới những nghiên cứu sau:
- Luật Thương mại năm 2005
- Giáo trình pháp luật về thương mại hàng hóa và dịch vụ của trường Đại Học
Luật Thành Phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Hồng Đức - hội luật gia Việt Nam .
-Sách chuyên khảo Pháp luật về Xúc tiến thương mại ở Việt Nam: những vấn
đề lý luận và thực tiễn của tiến sỹ Nguyễn Thị Dung, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
năm 2007.
- Sách chuyên khảo: Xúc tiến thương mại - lý luận và thực tiễn của tiến sỹ Lê

Hoàng Oanh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2014.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại trong tình hình mới, của
tác giả Nguyễn Duy Nghĩa năm 2007.
Có thể khẳng định rằng, đã có không ít những nghiên cứu đề cập tới hoạt động
xúc tiến thương mại với những góc độ tiếp cận khác nhau. Các nghiên cứu này đã trực
tiếp hoặc gián tiếp đưa ra các mục tiêu, phương hướng, luận cứ khoa học cũng như các
giải pháp nhằm từng bước nâng cao hiệu quả của công tác xúc tiến thương mại, nhưng


9
rất ít các công trình nghiên cứu một cách chuyên sâu và toàn diện từ góc độ luật học về
thực trạng pháp luật xúc tiến thương mại ở nước ta hiện nay.

3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu đề tài
3.1 Đối tượng nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu là những quy định của pháp luật nước ta hiện nay về xúc
tiến thương mại và việc áp dụng các quy định này vào thực tiễn ở nước ta. Để nghiên
cứu được toàn diện, ta cũng xem xét sơ lược lịch sử pháp luật về xúc tiến thương mại ở
Việt Nam trước đây, cũng như tại một số quốc gia trên thế giới.

3.2 Phạm vi nghiên cứu đề tài
Nhằm làm rõ thực trạng pháp luật về xúc tiến thương mại (đặc biệt chú trọng
vào các hình thức xúc tiến thương mại) cũng như thực tiễn thực thi pháp luật về xúc
tiến thương mại phạm vi nghiên cứu này được thực hiện từ khi ban hành Luật thương
mại năm 2005 đến nay trong đó tập trung vào các loại hình xúc tiến thương mại chủ
yếu được các thương nhân áp dụng pháp cụ thể trong việc kinh doanh bán hàng.

4. Mục đích nghiên cứu đề tài
Để hoàn thành đề tài “Bảo hộ quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam” tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau trong đó chủ yếu là

phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với các
phương pháp khoa học khác như: Tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh và đối chiếu...

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
5.1 Giá trị khoa học
Đề tài đưa ra và phân tích một số nội dung cơ bản về mặt lý luận trong việc bảo
hộ QSH của nhà ĐTNN tại Việt Nam. Qua đó khẳng định tầm quan trọng cũng như vai
trò của ĐTNN trong chiến lược phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế. Đồng thời cho thấy
sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước về vai trò hữu ích trong việc bảo hộ QSH của
nhà ĐTNN tại Việt Nam.

5.2

Thực tiễn đề tài.


10
Chuyên đề là một trong những công trình khoa học nghiên cứu một cách có hệ
thống về pháp luật xúc tiến thương mại ở Việt Nam và thực tiễn thực thi pháp luật xúc
tiến thương mại trong hoạt động kinh doanh bán hàng. Kết quả nghiên cứu và những
kiến nghị của chuyên đề có ý nghĩa quan trọng đối với việc hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả xây dựng và áp dụng pháp luật về xúc tiến thương mại ở nước ta.
Ngoài ra, thông qua chuyên đề tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào
việc nâng cao hiệu quả của hoạt động xúc tiến thương mại.

6. Bố cục của đề tài.
Ngoài phần mở đầu ,mục lục,danh mục tà liệu tham khảo ,đề tài gồm có ba
chương như sau:
Chương 1: Lý luận chung về xúc tiến bán hàng trong kinh doanh thương
mại ở Việt Nam.

Chương 2: Thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng trong xúc tiến bán hàng
kinh doanh thương mại tại Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xúc tiến bán hàng trong
kinh doanh thương mại.


11
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÚC TẾN BÁN HÀNG
TRONG KINH DOANH THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
1.1. KHÁI QUÁT VỀ XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm về xúc tiến thương mại
Trong tiếng Anh, “xúc tiến” được dịch từ “promotion”. Từ này có ý nghĩa là sự
khuyến khích, ủng hộ, thúc đẩy hay sự thăng tiến. Vì vậy, “trade promotion” không chỉ
là “xúc tiến thương mại” mà còn có nghĩa là sự thúc đẩy thương mại. Trong hoạt động
kinh doanh “xúc tiến thương mại”(trade promotion) là hoạt động tìm kiếm, thúc đẩy cơ
hội thương mại thông qua việc doanh nghiệp có sử dụng rộng rãi các kĩ thuật thuyết
phục khác nhau để liên hệ với thị trường mục tiêu và công chúng. Xúc tiến thương mại
có ý nghĩa thúc đẩy quá trình kinh doanh, hỗ trợ quá trình kinh doanh đạt hiệu quả cao
nhất.
Ở gốc độ ngôn ngữ, “xúc tiến” là một loại hành vi mà đối tượng tác động của
nó chính là hoạt động “thương mại”. Với cách hiểu là “làm cho tiến triển nhanh hơn”,
thuật ngữ “xúc tiến” được hiểu là hoạt động tìm kiếm, thúc đẩy một sự vật, hiện tượng
nào đó và thuật ngữ này được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Phụ thuộc vào
đối tượng cần tìm kiếm, thúc đẩy, trong đời sống kinh tế, pháp lí đã hình thành nhiều
khái niệm được sử dụng rộng rãi như: xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư, xúc tiến
xuất khẩu, xúc tiến việc làm, xúc tiến ngân hàng…
Ở gốc độ kinh tế, “xúc tiến thương mại là tất cả biện pháp có tác động khuyến
khích phát triển thương mại”. Các hành vi này đều nhằm mục tiêu tìm kiếm, thúc đẩy
cơ hội kinh doanh thương mại và được thực hiện bởi nhiều chủ thể. Xúc tiến thương

mại trước hết là hoạt động của thương nhân, được thực hiện với nhiều cách thức khác
nhau như khuyến mại, quảng cáo để tác động đến phát trển thương mại. Các hoạt động
khuyến mại, quảng cáo, hội chợ, triển lãm đều có tác dụng trực tiếp kích thích nhu cầu
thương mại hàng hóa, thương mại mà thương nhân tiến hành chỉ có ý nghĩa tìm kiếm,


12
thúc đẩy cơ hội thương mại cho thương nhân. Chính phủ thực hiện xúc tiến thương mại
thông qua chính sách kinh tế, thông qua khung khổ thể chế pháp lí điều chỉnh hoạt
động thương mại và xúc tiến thương mại, đàm phán, kí kết các hiệp định thương mại
song thương, đa phương, hỗ trợ doanh nghiệp tham gia hội chợ triển lãm thương mại ở
nước ngoài. Tạo điều kiện tiếp cận thị trường rộng hơn cho doanh nghiệp và sản phẩm
của doanh nghiệp.
Như vậy, từ gốc độ kinh tế, có thể khẳng định: xúc tiến thương mại không chỉ
hoạt động nhằm mục tiêu thúc đẩy phát triển thương mại của thương nhân mà còn bao
gồm hoạt động xúc đẩy phát triển thương mại của Chính Phủ và các tổ chức xúc tiến
thương mại.
Ở gốc độ pháp lí và trong khuôn khổ của pháp luật thương mại, xúc tiến
thương mại là hoạt động thương mại do thương nhân thực hiện để thúc đẩy, tìm kiếm
cơ hội mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, cơ hội đầu tư. Các hoạt động xúc tiến
thương mại được pháp luật quy định bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo
thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ và hội chợ triển lãm.

Theo Khoản 10 Điều 3 Luật Thương mại 2005 quy định về khái niệm xúc tiến
thương mại như sau: "Xúc tiến thương mại là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua
bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương
mại, trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ và hội chợ, triển lãm thương mại".
Định nghĩa này bao hàm một nhóm hoạt động thương mại của thương nhân
được bao hàm bởi định nghĩa này. Nhà nước cũng tiến hành một số biện pháp nhằm hỗ
trợ thương nhân trong việc tìm kiếm, khai thác, củng cố hay mở rộng thị trường, đặc

biệt là thị trường nước ngoài dưới dạng tài trợ cho một hay một nhóm thương nhân để
tham gia các chuyến thăm viếng các phái đoàn chính phủ ở nước ngoài. Các chuyến đi
khảo sát thị trường, tham gia hội chợ, triễn lãm thương mại ở nước ngoài hay thành lập
các trung tâm xúc tiế thương mại ở nước ngoài, tài trợ các chương trình bình ổn giá, tổ
chức chương trình “ tháng khuyến mại”… Các biện pháp như vậy cũng được gọi là “


13
xúc tiến thương mại” nhưng không được bao hàm bởi định nghĩa về xúc tiến thương
mại nêu trên nên không phải là đối tượng của môn học này.
1.1.2. Đặc điểm của xúc tiến thương mại.
Thứ nhất, về tính chất: Xúc tiến thương mại là một loại hoạt động thương mại.
Đặc điểm này cho phép khẳng định, xúc tiến thương mại ( cũng như các hoạt động
thương mại khác ) là nhằm mục đích sinh lời và thường do thương nhân thực hiện. Tuy
nhiên, khác biệt với các hoạt động thương mại khác, xúc tiến thương mại có ỹ nghĩa hỗ
trợ cho hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ hay hoạt động thương mại có
mục đích sinh lời khác, tạo cơ hội khuyến khích, thúc đẩy các hoạt động này thực hiện
với hiệu quả cao nhất.
Thứ hai, về chủ thể: Do xúc tiến thương mại nhắm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội
mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ nên chủ thể thực hiện nó chủ yếu là thương
nhân (người bán hàng, người cung ứng dịch vụ hoặc là người kinh doanh dịch vụ xúc
tiến thương mại ) cho dù Luật thương mại quy định đối tượng áp dụng của Luật là
thương nhân và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến hoạt động thương mại.
Theo các quy định Luật thương mại thì “ tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến hoạt
động thương mại” được hiểu là tổ chức, cá nhân có quan hệ thương mại với thương
nhân và trở thành một bên trong quan đó ( ví dụ: Cơ quan báo chí trong hoạt động phát
hành sản phẩm quảng cáo với thương nhân ).
Chủ thể của hoạt động xúc tiến thương mại phải có tư cách pháp lý độc lập, là
thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài. Pháp luật không cho phép các
văn phòng đại diện tiến hành khuyến mãi, quảng cáo… và chỉ cho phéo chi nhánh

được xúc tiến thương mại phù hợp với nội dung hoạt động ghi trong giấy phép.
Thứ ba, về mục đích: Xúc tiến thương mại nhằm mục đích trực tiếp là tìm
kiếm, thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và thông qua đó mục đích
lợi nhuận của thương nhân đạt được. Mặc dù đầu tư được coi là một loại hoạt động
thương mại ( Khoản 1 Điều 3 Luật thương mại 2005 ) nhưng theo quy định của Luật
thương mại, mục đích của xúc tiến thương mại không bao gồm việc tìm kiếm cơ hội
thúc đấy đầu tư ( xúc tiến đầu tư ). Về mặt mặt lý luận, hoạt động thương mại hàng


14
hóa, thương mại dịch vụ và hoạt động đầu tư mang bản chất khác nhau nhưng cách
thức để xúc tiến những hoạt động đó thì có nhiều nét tương đồng. Trong mọi trường
hợp, các biện pháp thông tin, quảng cáo, triển lãm… nhằm giới thiệu khuyến khuếch
trương cho thương nhân và hoạt động thương mại của họ mang đến hiệu quả thương
mại, bao gồm cả đầu tư.
Thứ tư, về cách thức thực hiện: Do có đối thượng áp dụng chủ yếu là thương
nhân nên Luật thương mại chỉ quy định các cách thức xúc tiến thương mại do thương
nhân tiến hành, bao gồm thương nhân tự mình tiếp xúc thương mại cho mình, với các
hoạt động cụ thể: khuyến mại, quảng cáo, hội trợ triển lãm thương mại, trưng bày, giới
thiệu hàng hóa dịch vụ.

1.1.3. Vai trò của xúc tiến thương mại.
Xúc tiến thương mại là cầu nối giữa doanh nghiệp với khách hàng, hoặc giữa
các doanh nghiệp với nhau trong cùng một dây chuyền sản xuất, một hệ thống phân
phối sản phẩm. Xúc tiến thương mại đóng vai trò trung gian giữa các công ty qua việc
sử dụng một loạt các công cụ của mình.
Xúc tiến thương mại thể hiện năng lực, uy tín, hình ảnh công ty, cho người tiêu
dùng thấy doanh nghiệp có gì, có thể làm gì và sẵn sàng làm gì. Với các bạn hàng, đối
tác, xúc tiến thương mại góp phần thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác hai bên cùng có
lợi, đẩy mạnh sự lưu thông, phân phối hàng hóa.

Xúc tiến thương mại tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tồn tại và phát triển
trên thị trường một cách bình đẳng, hiệu quả với nguồn lực của mình. Trước tiên, mọi
doanh nghiệp đều có thể triển khai hoạt động xúc tiến thương mại, không phụ thuộc
vào ngành nghề, loại sản phẩm. Xúc tiến thương mại cũng có thể giúp doanh nghiệp
phát huy thế mạnh hoặc rút ngắn khoảng cách với các doanh nghiệp dẫn đầu thị trường.
Ở khía cạnh thứ nhất, một chiến dịch quảng cáo có thể giúp nâng cao hình ảnh, định vị
thương hiệu trong lòng người tiêu dùng, giúp doanh nghiệp khắc sâu một hay một số
đặc tính vượt trội, dẫn đầu thị trường của mình. Ở khía cạnh thứ hai, xúc tiến thương
mại tạo ra nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp bắt kịp với thị trường, một thương hiệu


15
mới vẫn có thể tiếp cận tốt với khách hàng nhờ triển khai hoạt động xúc tiến hợp lý.
Một sản phẩm không phải là tốt nhất vẫn có thể tồn tại trên thị trường nếu biết áp dụng
hoạt động xúc tiến thông minh, sáng tạo.
Xúc tiến thương mại tác động và góp phần làm thay đổi cơ cấu tiêu dùng. Nhu
cầu của người tiêu dùng không cố định, họ luôn có những nhu cầu ở dạng tiềm ẩn và
vai trò của xúc tiến thương mại là phải đánh thức những nhu cầu đó và kích thích
người tiêu dùng sẵn sàng chi trả cho những sản phẩm mới.
Xúc tiến thương mại hỗ trợ hoạt động bán hàng, giúp cho việc bán hàng dễ
dàng và năng động hơn, đưa hàng hóa vào kênh phân phối hợp lý, có lợi thế cho doanh
nghiệp, từ đó giúp giảm chi phí và đạt doanh thu cao. Xúc tiến thương mại còn là một
công cụ quan trọng trong Marketing, chính nhờ việc giao tiếp có hiệu quả giữa các
thành viên trong tổ chức và giữa các công ty với khách hàng mà sự vận động của nhu
cầu và hàng hoá xích lại gần nhau hơn mặc dù nhu cầu của khách hàng làm phong phú
và biến đổi không ngừng.
Như vậy hoạt động xúc tiến thương mại không chỉ là những biện pháp hỗ trợ
cho chính sách giá, chính sách sản phẩm mà còn trực tiếp nâng cao hiệu quả của những
chính sách đó, cũng chính là nâng cao hiệu quả kinh doanh. Điều đó cón nghĩa là xúc
tiến thương mại còn tạo ra tính ưu thế trong cạnh tranh.


1.1.4. Khái niệm về xúc tiến thương mại.
Như đã đề cập, xúc tiến thương mại là hoạt động thương mại của thương nhân
nhằm thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vu. Bởi vậy, xúc tiến
thương mại tác động trước hết tới khách hàng, nhưng cũng đồng thời tới môi trường
cạnh tranh. Điều đó làm phát sinh nhu cầu và yêu cầu về điều chỉnh pháp luật đối với
hoạt động xúc tiến thương mại, một mặt nhằm tạo ra cơ sở pháp lý đầy đủ, an toàn cho
chính các thương nhân tiến hành các hoạt động đó, mặt khác nhằm bảo vệ được khách
hàng nói chung người tiêu dùng nói riêng trước các biện pháp của thương nhân có thể
làm lệch lạc nhận thức của họ về hàng hóa ,dịch vụ về chính thương nhân đó. Đồng
thời, hoạt động xúc tiến thương mại cũng tác động đến môi trường cạnh tranh, thậm chí


16
được sử dụng là biện pháp cạnh tranh. Bởi vậy sự điều chỉnh pháp luật cũng nhằm đảm
bảo một môi trường cạnh tranh công bằng, lành mạnh.Thêm vào đó, hoạt động xúc tiến
thương mại cũng có thể tác động đến lợi ích xã hội, lợi ích nhà nước một cách tiêu cực,
đòi hỏi pháp luật phải đặt ra các điều kiện hoặc giới hạn mà khi thương nhân vượt qua
các giới hạn đó thì hoạt động xúc tiến thương mại của họ trở nên bất hợp pháp. Hoạt
động xúc tiến thương mại của thương nhân cũng có thể làm phát sinh các qua hợp
đồng cung ứng dịch vụ, khi thương nhân xúc tiến thương mại sử dụng dịch vụ xúc tiến
thương mại của thương nhân khác và vì vậy cũng cần được pháp luật điều chỉnh.
Như vậy, hoạt động xúc tiến thương mại có thể được điểu chỉnh pháp luật từ
các góc độ khác nhau. Trên thực tế, pháp luật thương mại, pháp luật cạnh tranh,pháp
luật bảo vệ quyền lợi người tieu dùng, pháp luật về quảng cáo đều chứa đựng các quy
phạm trực tiếp hoặc gián tiếp điều chỉnh hoạt động xúc tiến thương mại của thương
nhân. Thực tế đó trong chừng mức nhất định đã dẫn đến sự giao thoa trong phạm vi
điều chỉnh của các ngành luật hoặc lĩnh vực pháp luật liên quan, đôi khi còn dẫn đến sự
chồng chéo hay mâu thuẫn giữa các quy phạm pháp luật thuộc các ngành luật hoặc
lĩnh vực pháp luật khác nhau đó. Nhưng thực tế này cũng dẫn đến một hiệu ứng khá

thú vị , đó là một hành vi của thương nhân trong hoạt động xúc tiến thương mại có thể
đồng thời vi phạm quy định của luật thương mại, luật Cạnh Tranh và luật Bảo Vệ
quyền lợi người tiêu dùng và làm phát sinh các loại trách nhiệm pháp lý khác nhau theo
các luật khác nhau. Người có quyền và lợi ích bị xâm phạm có thể lựa chọn các biện
pháp khác nhau theo các luật khác nhau nhằm buộc thương nhân phải chịu trách nhiệm
đối với hành vị vi phạm pháp luật của họ.
1.1.5. Các hình thức xúc tiến thương mại.
Hoạt động xúc tiến bán hàng trong kinh doanh thương mại ở Việt Nam gồm có
bốn hoạt động :
Thứ nhất hoạt động khuyến mại được quy định tại khoản 1 Điều 88 LTM 2005
“ Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc
mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích
nhất định”.


17
Thứ hai hoạt động quảng cáo bán hàng được quy định tại Điều 102 LTM 2005
“ Quảng cáo thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới
thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của mình”.
Thứ ba hoạt động trưng bày ,giới thiệu hàng hóa được quy định tại điều 117
LTM 2005 “Trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ là hoạt động xúc tiến thương mại
của thương nhân dùng hàng hoá, dịch vụ và tài liệu về hàng hoá, dịch vụ để giới thiệu
với khách hàng về hàng hoá, dịch vụ đó”.
Thứ tư hoạt động hội chợ triễn lãm được quy định tại Điều 129 LTM 2005
“Hội chợ, triển lãm thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại được thực hiện tập
trung trong một thời gian và tại một địa điểm nhất định để thương nhân trưng bày, giới
thiệu hàng hoá, dịch vụ nhằm mục đích thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội giao kết hợp đồng
mua bán hàng hoá, hợp đồng dịch vụ”.



18
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Trong chương 1 của chuyên đề tác giả đã trình bày những quy định cơ bản về
pháp luật về xúc tiến bán hàng, khái niệm ,đặc điểm và vai trò của xúc tiến bán hàng
trong kinh doanh thương mại .Thông qua đó có thể biết được những đặc điểm mang
tính đặc thù của lĩnh vực thương mại và tầm quan trọng của việc xúc tiến thương mại
trong nền kinh tế của nước ta.


19
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT, THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRONG XÚC TIẾN
BIẾN HÀNG TRONG KINH DOANH THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
2.1. Các hoạt động xúc tiến bán hàng trong kinh doanh thương mại ở Việt Nam.

2.1.1.

Khuyến mại
2.1.1.1
Khái niệm khuyến mại
Khuyến mại (hay còn gọi là xúc tiến bán ) là một trong những công cụ xúc tiến
hiệu quả của hoạt động Marketing của các doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa ,dịch vụ
nói chung. Trên thực tế có rất nhiều định nghĩa khái niệm khuyến mại theo nhiều cách
khác nhau.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 88 LTM 2005 thì “ Khuyến mại là hoạt động
xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa ,cung ứng
dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định ”.
Theo giáo trình Marketing căn bản, GS.TS Trần Minh Đạo chủ biên “ Khuyến
mại là một hoạt động truyền thông trong đó sử dụng các công cụ tác động trực tiếp
tạo lợi ích vật chất bổ sung cho khách hàng. Chúng khuyến khích mua hàng hóa đưa

ra những lợi ích phụ thêm do mua hàng hóa của doanh nghiệp ”
Trong giáo trình Luật Cạnh Tranh, TS Tăng Văn Nghĩa có viết “ Khuyến mại
là việc doanh nghiệp thúc đẩy việc mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bằng cách
dành cho khách hàng những lợi ích tăng thêm nhất định , với cách thức đó người bán
thu hút, lôi kéo khách hàng tốt hơn và qua đó có thể nâng cao doanh số, mở rộng thị
trường”
Tuy nhiên, bên cạnh thuật ngữ “khuyến mại’’ được LTM 2005 sử dụng thực
tiễn thương mại còn sử dụng một cách khá phổ biến thuật ngữ “khuyến mãi. Cả hai
thuật ngữ này đều là từ Hán - Việt với ý nghĩa khác nhau. Theo nghĩa Hán – Việt “
mại” là bán , còn “mãi” là mua. Như vậy “ khuyến mại” là khuyến khích việc bán hàng
vốn dùng để chỉ các biện pháp chính sách của thương nhân nhằm khuyến khích nhân
viên của chính mình thúc đẩy việc tiếp thị để tiêu thụ hàng hóa và là biện pháp, chính


20
sách nội bộ của thương nhân. Trong khi đó “ khuyến mãi” là khuyến khích việc mua
hàng của khách hàng vì vậy không phải là biện pháp nội bộ mà trực tiếp hướng ra thị
trường. Vì thế, pháp luật thương mại phải sử dụng thuật ngữ “khuyến mãi” mới chính
xác. Tuy nhiên, cho đến khi các nhà lập pháp sửa lại việc sử dụng thuật ngữ cho phù
hợp về mặt ngôn ngữ, thì thuật ngữ “khuyến mại” vẫn cần được sử dụng với tư cách là
thuật ngữ pháp lý với ý nghĩa mà pháp luật dành cho nó.
So với LTM năm 1997, luật thương mại hiện hành khi định nghĩa về khuyến
mại có bổ sung hai điểm về mục đích của khuyến mại và cách thức khuyến mại thông
qua quan hệ dịch vụ. Cụ thể là, mục đích của khuyến mại không chỉ nhằm xúc tiến
việc bán hàng mà còn nhằm xúc tiến việc mua hàng. Mặc dù khuyến mại để bán hàng
là hoạt động phổ biến của thương nhân , do thương nhân tiến hành như một nhu cầu tất
yếu để cạnh tranh mở rộng thị phần nhưng đối với các doanh nghiệp thương mại, việc
khuyến mại để mua hàng, gom hàng cũng có thể trở thành nhu cầu cần thiết. Để đáp
ứng yêu cầu thực tế này, pháp luật hiện hành quy định khuyến mại là hoạt động thương
mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ ( chứ

không phải chỉ là xúc tiến việc bán hàng như trước đây)

2.1.1.2

Đặc điểm của khuyến mại
Trên cơ sở định nghĩa khái niệm như vậy, có thể nhận thấy hoạt động khuyến

mại có các đặc điểm như sau:
Thứ nhất, phù hợp với mục đích của xúc tiến thương mại nói chung ,khuyến
mại cũng nhằm mục đích xúc tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ của
thương nhân. Với khuyến mại thương nhân luôn kỳ vọng sẽ mua bán được hàng hóa
hoặc cung ứng được dịch vụ với khối lượng và giá trị tối ưu mà mình đặt ra khi thực
hiện một chương trình khuyến mại cụ thể dù áp dụng một hình thức khuyến mại nào .
Thứ hai, về mặt chủ thể: Chủ thể thực hiện hành vi khuyến mại là thương
nhân. Để tăng cường cơ hội thương mại, thương nhân được phép tự mình tổ chức thực
hiện việc khuyến mại. Tức là để thúc đẩy kinh doanh, chủ thể của các doanh nghiệp
được tổ chức các hoạt động mang đến cho khách hàng những lợi ích nhất định, tuân


21
theo trình tự và thủ tục do pháp luật quy định. Ngoài ra, thương nhân còn có thể thực
hiện chương trình khuyến mại hàng hóa, dịch vụ cho thương nhân khác để hưởng lợi
nhuận. Quan hệ dịch vụ này được hình thành trên cơ sở hợp đồng dịch vụ khuyến mại
giữa thương nhân có nhu cầu khuyến mại và thương nhân kinh doanh dịch vụ.
Thứ ba, đối tượng được khuyến mại: Có thể là khách hàng là người tiêu dùng
hoặc trung gian phân phối như đại lí bán hàng. Một chương trình khuyến mại có thể chỉ
áp dụng đối với một nhóm đối tượng khách hàng nhất định. Trường hợp nhóm đối
tượng khách hàng là người tiêu dùng thì chương trình khuyến mại thường được công
bố rộng rãi trên phương tiện thông tin đại chúng ngoài việc phải thông báo công khai
theo quy định tại Điều 97,98 LTM 2005. Còn đối với khách hàng là đại lý bán hàng,

trên thực tế, hiện tượng này chúng ta vẫn thường xuyên bắt gặp, những người đưa hàng
cho các đại lí bán hàng lớn ngoài số lượng mặt hàng cần giao, thì ngoài ra còn có
khuyến mại thêm một sản phẩm cùng loại hoặc sản phẩm mới do công ty sản xuất.
Thứ tư, hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại phải là hàng hóa, dịch vụ kinh
doanh hợp pháp, và đây là dùng để tặng, thưởng, cho… không thu tiền khách hàng.
Hàng hóa, dịch vụ được thương nhân dùng để khuyến mại là hàng hóa, dịch vụ thương
nhân đó đang kinh doanh hoặc là của thương nhân khác. Chính phủ quy định hạn mức
tối đa về giá trị của hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại, mức giảm giá tối đa cho
hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại mà thương nhân được thực hiện trong hoạt động
khuyến mại.
Thứ năm, bên cạnh việc thực hiện hoạt động khuyến mại theo các cách thức
truyền thống, ngày nay việc sử dụng dịch vụ khuyến mại của các thương nhân kinh
doanh dịch vụ khuyến mại trực tiếp đang trở thành xu hướng phổ biến.

2.1.1.3

Vai trò và chức năng của khuyến mại
Khuyến mại mang nghĩa là "khuyến khích mua hàng hoá, dịch vụ" do đó mục

đích chính của khuyến mại là kích cầu tiêu dùng, thúc đẩy người tiêu dùng mua và
mua nhiều hơn các hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp hoặc phân phối. Phù
hợp với mục đích của xúc tiến thương mại nói chung.


22
Ngoài ra, hoạt động khuyến mãi còn nhằm mục đích quảng bá thương hiệu sản
phẩm và doanh nghiệp. Khuyến mại còn đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động
marketing nói chung và hoạt động chiêu thị nói riêng. Ngân sách khuyến mãi của các
khách sạn, nhà hàng ngày càng tăng so với ngân sách dành cho các hoạt động
marketing và chiêu thị khác như quảng cáo…

Các chương trình khuyến mại diễn ra nhiều giúp cho người tiêu dùng biết
thêm nhiều sản phẩm và có thể dùng và lựa chọn được những sản phẩm phù hợp cho
mình và các doanh nghiệp có thể có thể tung ra thị trường một lượng lớn về sản phẩm
và giúp cho mình có thêm doanh thu.

2.1.1.4

Nguyên tắc khuyến mãi.
Thứ nhất, Chương trình khuyến mại phải được thực hiện hợp pháp, trung thực,

công khai, minh bạch và không được xâm hại đến lợi ích hợp pháp của người tiêu
dùng, của các thương nhân, tổ chức hoặc cá nhân khác.
Thứ hai, Không được phân biệt đối xử giữa các khách hàng tham gia chương
trình khuyến mại trong cùng một chương trình khuyến mại.
Thứ ba, Thương nhân thực hiện chương trình khuyến mại phải bảo đảm
những điều kiện thuận lợi cho khách hàng trúng thưởng nhận giải thưởng và có nghĩa
vụ giải quyết rõ ràng, nhanh chóng các khiếu nại liên quan đến chương trình khuyến
mại (nếu có).
Thứ tư,Thương nhân thực hiện khuyến mại có trách nhiệm bảo đảm về chất
lượng hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại và hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại.
Thứ năm, Không được lợi dụng lòng tin và sự thiếu hiểu biết, thiếu kinh
nghiệm của khách hàng để thực hiện khuyến mại nhằm phục vụ cho mục đích riêng
của bất kỳ thương nhân, tổ chức hoặc cá nhân nào.
Thứ sáu, Việc thực hiện khuyến mại không được tạo ra sự so sánh trực tiếp
hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ của thương nhân, tổ chức hoặc cá
nhân khác nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh.


23
Thứ bảy, Không được dùng thuốc chữa bệnh cho người (kể cả các loại thuốc

đã được phép lưu thông) để khuyến mại.

2.1.1.5

Các hình thức khuyến mãi.
Các hình thức khuyến mại được quy định tại Điều 92 LTM 2005 theo hướng

mở, theo đó bên cạnh 8 hình thức khuyến mại được mô tả cụ thể thương nhân còn áp
dụng các hình thức khuyến mại khác.Tám hình thức khuyến mại được quy định cụ thể
ở đó đều là các hình thức khuyến mại được áp dụng phổ biến trong thực tiễn thương
mại. Khi áp dụng các hình thức khuyến mại này thương nhân chỉ cần thực hiện thủ tục
thông báo hoặc đăng ký, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chấp thuận. Như
vậy, về nguyên tắc pháp luật thương mại tôn trọng quyền tự do lựa chọn các hình thức
khuyến mại của thương nhân , không chỉ là sự tự do lựa chọn các hình thức đã quy
định cụ thể chỉ nhằm mục đích và cũng chỉ được nhằm mục đích xem xét tính hợp
pháp của chúng trên cơ sở pháp luật hiện hành.
Việc quy định tám hình thức khuyến mại cụ thể đối với từng hình thức
khuyến mại đó. Các điều kiện được đặt ra đều nhằm hoặc bảo vệ quyền lợi chính đáng
của khách hàng, đặc biệt là người tiêu dùng hoặc bảo vệ một môi trường cạnh trạnh
công bằng lành mạnh. Cụ thể đó là các hình thức khuyến mại sau đây:
Thứ nhất, Đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử
không phải trả tiền. Đây là hình thức khuyến mại thường được thương nhân sử dụng để
chuẩn bị đưa ra thị trường sản phẩm hàng hóa dịch vụ mới. Hàng mẫu đưa cho khách
hàng, dịch vụ mẫu cung ứng cho khách hàng dùng thử phải là hàng hoá, dịch vụ được
kinh doanh hợp pháp mà thương nhân đang hoặc sẽ bán, cung ứng trên thị trường. Khi
nhận hàng mẫu, dịch vụ mẫu, khách hàng không phải thực hiện bất kỳ nghĩa vụ thanh
toán nào. Thương nhân thực hiện chương trình khuyến mại theo hình thức đưa hàng
mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu phải chịu trách nhiệm về chất lượng của hàng mẫu, dịch vụ
mẫu và phải thông báo cho khách hàng đầy đủ thông tin liên quan đến việc sử dụng
hàng mẫu, dịch vụ mẫu. Có thể dễ dàng nhìn thấy thương nhân áp dụng hình thức

khuyến mại này khi khách hàng được sử dụng hàng hóa mẫu dưới dạng đóng gói với


24
một khối lượng hay thể tích nhỏ hơn hàng hóa thương mại và thể hiện trên bao bì dòng
chữ “ hàng mẫu không bán” hoặc tương tự. Pháp luật không đưa ra hạn chế nào về mặt
thời gian áp dụng chương trình khuyến mại hay giá trị khuyến mại đối với hình thức
này.
Thứ hai, Tặng hàng hóa cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền;
không kèm theo việc mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.Thương nhân thực hiện
chương trình khuyến mại bằng hình thức tặng hàng hoá cho khách hàng, cung ứng dịch
vụ không thu tiền, không kèm theo việc mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ. Phải
chịu trách nhiệm về chất lượng của hàng hoá, tặng cho khách hàng, dịch vụ không thu
tiền và phải thông báo cho khách hàng đầy đủ thông tin liên quan đến việc sử dụng
hàng hoá, dịch vụ đó.Tuy nhiên đối với hình thức khuyến mại này có sự bất cập trong
giải thích của các văn bản hướng dẫn thi hành: trong khi theo quy định tại Điều 8 Nghị
định 37/2006/NĐ-CP thì hình thức khuyến mại này được thực hiện “không kèm với
theo việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ”. Nhưng theo quy định tại Điều 7 thông
tư số 11/2010/TT-BTTTT thì hình thức khuyến mại này (chưa được giải thích tại Điều 8
NĐ 37/2006/NĐ-CP) “được thực hiện trong trường hợp hàng hóa tặng,dịch vụ cung
ứng không thu tiền không phải là hàng hóa chuyên dùng thông tin di động, dịch vụ
thông tin di động”. Điều đó có nghĩa là hàng hóa chuyên dùng thông tin di động có thể
được tặng,dịch vụ thông tin di động có thể được cung ứng không thu tiền kèm theo
việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Thực tiễn cho thấy khuyến mại dưới hình
thức tặng hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Thực tiễn cho thấy khuyến mại dưới hình thức
tặng hàng hóa, cung ứng dịch vụ không thu tiền kèm theo việc mua bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ là phổ biến. Cách giải thích của Nghị định 37/2006/NĐ-CP mặc dù không
loại trừ việc thương nhân thực hiện khuyến mại theo hình thức tặng hàng hóa, cung
ứng dịch vụ không thu tiền kèm theo việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, nhưng
dường như lại vô tình đưa hình thức này sang dạng phải được sự chấp thuận của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại ( khoản 9 Điều 92 LTM 2005). Như
vậy, nghị định 37/2006/NĐ-CP là bất hợp lý và cần được sửa đổi.


25
Thứ ba, Bán hàng, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán hàng, cung ứng
dịch vụ trước đó, được áp dụng trong thời gian khuyến mại đã đăng ký hoặc thông
báo.Trong trường hợp thực hiện khuyến mại bằng hình thức giảm giá thì mức giảm giá
hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại trong thời gian khuyến mại tại bất kỳ thời điểm
nào phải tuân thủ quy định tại Điều 6 Nghị định này. Không được giảm giá bán hàng
hoá, giá cung ứng dịch vụ trong trường hợp giá bán hàng hoá, dịch vụ thuộc diện Nhà
nước quy định giá cụ thể. Không được giảm giá bán hàng hoá, giá cung ứng dịch vụ
xuống thấp hơn mức giá tối thiểu trong trường hợp giá bán hàng hoá, giá cung ứng
dịch vụ thuộc diện Nhà nước quy định khung giá hoặc quy định giá tối thiểu.Tổng thời
gian thực hiện chương trình khuyến mại bằng cách giảm giá đối với một loại nhãn hiệu
hàng hoá, dịch vụ không được vượt quá 90 (chín mươi) ngày trong một năm; một
chương trình khuyến mại không được vượt quá 45 (bốn mươi lăm) ngày. Nghiêm cấm
việc lợi dụng hình thức khuyến mại này để bán phá giá hàng hóa, dịch vụ. Các quy
định về mức giảm giá tối đa cũng như thời gian hay tổng thời gian tối đa thực hiện
chương trình khuyến mại bằng hình thức giảm giá đối với một nhãn hiệu hàng hóa,
dịch vụ nhằm để bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh, tránh để xảy ra tình trạng
thương nhân có tiềm lực tài chính mạnh dùng hình thức khuyến mại này để loại bỏ các
đối thủ cạnh tranh ít tiềm lực tài chính ra khỏi thị trường.
Thứ tư, Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng, phiếu sử
dụng dịch vụ. Phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ kèm theo hàng hóa được bán,
dịch vụ được cung ứng là phiếu để mua hàng hóa, nhận cung ứng dịch vụ của chính
thương nhân đó hoặc để mua hàng hóa, nhận cung ứng dịch vụ của thương nhân, tổ
chức khác. Giá trị tối đa của phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ được tặng kèm
theo một đơn vị hàng hóa được bán, dịch vụ được cung ứng trong thời gian khuyến mại
phải tuân thủ quy định hạn mức tối đa về giá trị vật chất dùng để khuyến mại quy định

tại( Điều 5 ngị định 37/2006/NĐ-CP).
Thứ năm, bán hàng ,cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu dự thi cho khách
hàng để chọn người trao thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố. Khuyến mại
dưới hình thức này không bị khống chế về mức hoặc tổng mức giá trị giải thưởng, nên


×