Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

CƠ sở lí LUẬN của PHỐI hợp các lực LƯỢNG xã hội TRONG GIÁO dục kĩ NĂNG SỐNG CHO học SINH TIỂU học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.36 KB, 84 trang )

CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA PHỐI HỢP CÁC LỰC
LƯỢNG XÃ HỘI TRONG GIÁO DỤC KĨ
NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TIỂU HỌC

1


Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Những nghiên cứu trên thế giới
Hoạt động GD KNS cho HS (đặc biệt là HS Tiểu học) ở
các nước phát triển được đánh giá quan trọng, ngang bằng, thậm
chí còn được đề cao hơn so với các hoạt động truyền thụ kiến
thức. Theo đó, những nghiên cứu về giáo dục KNS đối với HS
nói chung và HS Tiểu học nói riêng tương đối đa dạng. Có thể
kể đến một số nghiên cứu như:
(1). Nghiên cứu của Tri Suminar, Titi Prihatin, and
Muhammad Ibnan Syarif với tiêu đề Model of Learning
Development on Program Life Skills Education for Rural
Communities (Phương thức học tập chương trình phát triển GD
KNS cho cộng đồng nông thôn). Theo đó, phân tích của các tác
giả chỉ ra rằng việc học các KNS cần thực hiện dựa trên nhu cầu
của người học và các khả năng của địa phương. Sự hiểu biết của
các nhà quản lý giáo dục về mục đích của việc học KNS thông
qua cộng đồng nông thôn vẫn còn hạn chế trong các KN đào
tạo, GD. Việc nắm vững các nội dung của các chương trình đào
tạo KN và hoạt động giáo dục KNS trên tinh thần chủ động của
2


các trường nói chung và các nhà tổ chức giáo dục nói riêng chưa
được đầy đủ. Những người làm công tác đào tạo KNS cho trẻ


không được phép dựa trên các nguyên tắc học của người trưởng
thành để áp dụng đối với HS Tiểu học.
Nghiên cứu này nhằm mục đích phát triển một mô hình
học tập trong chương trình giáo dục KNS có giá trị đối với cộng
đồng nông thôn để nâng cao sức cạnh tranh từ nguồn nhân lực
chính tại các địa phương. Quá trình hình thành KNS của HS tập
trung vào năm thành phần:
Học tập mô hình cú pháp
Hệ thống định mức không khí học tập hiện hành xã hội
Phản ứng của các mô hình quản lý hệ thống học tập tương
tác
Hỗ trợ, trang thiết bị, vật liệu và môi trường học tập
Các tác động từ các kết quả của giảng dạy và học tập
Các địa điểm nghiên cứu được xác định dựa trên các đặc
điểm địa lý, vùng miền núi của Wonosobo, khu vực ven biển
Kendal và trung tâm công nghiệp nằm vùng Pekalongan. Dữ
3


liệu được thu thập thông qua quan sát, phỏng vấn và tài liệu
hướng dẫn. Tính hợp lệ của dữ liệu được xác định bằng cách
kiểm tra độ tin cậy bao gồm: tam giác, quan sát sự kiên trì, thảo
luận, và sau đó các dữ liệu được xử lý bằng cách định tính mô
tả. Nghiên cứu này dẫn đến các mô hình nghiên cứu khái niệm
được thiết kế dựa trên bốn trụ cột của chương trình GD KNS.
(2). Nghiên cứu của Schubert Foo, Shaheen Majid với tiêu
đề Information Literacy Skills of Secondary School Students in
Singapore (KN đọc và viết của HS trung học ở Singapore).
Nghiên cứu này nhằm mục đích để đánh giá kiến thức của HS
phổ thông tại Singapore (tuổi từ 6 đến 12 tuổi) và KN của HS

trong việc tìm kiếm, đánh giá và sử dụng thông tin. Theo đó, KN
tổng hợp kiến thức thông tin là khả năng xác định vị trí, truy cập,
tìm kiếm, đánh giá và sử dụng thông tin trong các bối cảnh khác
nhau (ALA, 1989). Thông tin đang ngày càng được số hóa, cùng
với công nghệ thông tin và truyền thông đang dần phổ biến trong
cuộc sống hàng ngày người dân Singapore, IL (Information
Literacy - hiểu biết về thông tin) đã trở thành một KN ngày càng
cần thiết để định hướng cho HS bởi lượng thông tin quá lớn đủ để
đáp ứng những yêu cầu trong cuộc sống của từng cá nhân.
4


Theo nghiên cứu này thì một công cụ thích hợp để đo
lường và đánh giá KN đánh giá thông tin, cũng như khám phá
triết lý giáo dục để cải thiện KN đó cho HS được cho là rất cần
thiết trong việc tìm hiểu tác động giáo dục và hiệu quả của các
phương thức giáo dục trong việc bồi dưỡng những KN trong
tương lai cho HS. Tại Singapore, GD IL (hiểu biết về thông tin)
đã trở lại vào cuối những năm 1990. Tuy nhiên cho đến nay,
chưa có đánh giá với quy mô lớn được tiến hành để tìm ra mức
độ KN IL (hiểu biết về thông tin), cũng như KN IL cụ thể của
từng HS Singapore mà mỗi HS được đánh giá là giỏi hay yếu.
Nghiên cứu này nhằm mục đích thu thập dữ liệu về HS phổ
thông Singapore đối với KN trong việc tìm kiếm, đánh giá và sử
dụng thông tin nói chung. Theo đó, một công cụ kiểm tra toàn
diện bao gồm các KN cơ bản IL, bao gồm kích thước mức độ sử
dụng và nhận thức đối với tìm kiếm thông tin đã được phát triển
và được sử dụng để thu thập dữ liệu là kết quả của nội dung
nghiên cứu.
(3). Nghiên cứu của Albert J. Petitpas và cộng sự với tiêu

đề A Life Skills Development Program for High School StudentAthletes (Chương trình phát triển KN nói cho HS, sinh viên
5


trường mình). Theo đó, bài nghiên cứu chỉ ra rằng các hoạt
động thể dục thể thao và các hoạt động ngoài giờ lên lớp được
xác định là nơi giúp thanh thiếu niên phát triển các sáng kiến và
cảm xúc của bản thân một cách hiệu quả. Mục đích của bài viết
mô tả sự phát triển và thực hiện các chương trình can thiệp quốc
gia có sử dụng việc tham gia các môn thể thao như một phương
tiện để tăng cường phát triển KNS trong thanh niên thành thị.
Từ việc đánh giá các dữ liệu, số liệu được cung cấp, kết hợp với
một số lợi thế tiềm năng của việc sử dụng thể thao và các hoạt
động sau giờ học để thúc đẩy năng lực xã hội của các HS được
thảo luận trong nghiên cứu này.
(4). Dự án “Improving Students: Teaching Improvisation
to High School Students to Increase Creative and Critical
Thinking” (Giảng dạy ứng xử choHS để tăng cường tư duy sáng
tạo và khả năng phê bình)của tác giả Beth D. Slazak (2013).
Đây là dự án được triển khai bởi Trung tâm nghiên cứu sáng tạo
quốc tế (International Center for Studies in Creativity). Dự án
tập trung vào việc dạy HS những KN mang tính ngẫu hứng
nhằm nâng cao KN tư duy sáng tạo và tầm quan trọng của
những suy nghĩ tích cực cho HS. Nội dung trình bày các công
6


cụ để thực hiện đào tạo các KN sáng tạo giải quyết vấn đề, các
quy tắc và khái niệm của các hoạt động trải nghiệm ngẫu hứng
và KN tư duy tình cảm. Các dự án đã hoàn thành bao gồm các

kế hoạch bài học, một bảng tính, một đoạn video hỗ trợ HS và
các nhà giáo dục trong giảng dạy các KN này.
(5). Những nghiên cứu về giáo dục KNS cho HS Tiểu học
tại Bỉ đã khẳng định một trong những sứ mạng của trường Tiểu
học là giúp cho trẻ tự lập và tạo điều kiện, tạo môi trường để trẻ
phát triển KNS. Theo đó, cần cho trẻ học KNS và KN tự lập sẽ
hình thành cho trẻ nhân cách tốt. Hay "Giáo dục các giá trị
sống để có các KNS ngày càng được nhìn nhận là có sức mạnh
vượt lên khỏi lời răn dạy đạo đức chi tiết đến mức hạn chế
trong cách nhìn hoặc những vấn đề thuộc về tư cách công dân.
Nó đang xem là trung tâm của tất cả thành quả mà giáo viên và
nhà trường tâm huyết có thể hi vọng đạt được thông qua việc
dạy về giá trị, KNS".
Ở các nước
Kỹ năng sống và vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho con
người đã xuất hiện và được nhiều người quan tâm từ xa xưa như
học ăn, học nói, học gói, học mở, học để đối nhân xử thế, học
7


để đối phó với thiên nhiên. Đó là những kĩ năng đơn giản nhất
mang tính chất kinh nghiệm, phù hợp với đời sống và giai cấp
của xã hội ở những thời điểm khác nhau. Nghiên cứu kỹ năng ở
mức độ khái quát, đại diện cho nghiên cứu này có P.I.Galperin,
V.A. Crutexki, P.V.Petropxki, … P.I.Galperin trong các công
trình nghiên cứu của mình chủ yếu đi sâu vào vấn đề hình thành
tri thức và kỹ năng theo lý thuyết hình thành hành động trí tuệ
theo giai đoạn. Nghiên cứu kỹ năng ở mức độ cụ thể, các nhà
nghiên cứu kỹ năng ở các lĩnh vực hoạt động khác nhau như kỹ
năng lao động gắn với những tên tuổi các nhà tâm lý - giáo dục

V.V. Tseburseva, kỹ năng học tập gắn với G.X.Cochiuc, kỹ năng
hoạt động sư phạm gắn với tên tuổi X.I.Kixegops.
Kỹ năng sống có chủ yếu trong các chương trình hành
động của UNESCO (Tổ chức văn hóa, khoa học, và giáo dục
của Liên hợp quốc), WHO ( Tổ chức y tế thế giới), UNICEF
(Qũy Nhi Đồng Liên Hiệp Quốc) cũng như trong các chương
trình hành động của các tổ chức xã hội trong và ngoài nước… ở
hướng nghiên cứu này, các tác giả chủ yếu xây dựng hệ thống
các kỹ năng của từng loại hoạt động, mô tả chân dung các kỹ

8


năng cụ thể và các điều kiện, quy trình hình thành và phát triển
hệ thống các kỹ năng đó.
Giáo dục Kỹ năng sống ở Lào được bắt đầu quan tâm từ
năm 1997 với cách tiếp cận nội dung quan tâm đến giáo dục
cách phòng chống HIV/AIDS được tích hợp trong chương trình
giáo dục chính quy. Năm 2001 giáo dục kỹ năng sống ở Lào
được mở rộng sang các lĩnh vựcnhư giáo dục dân số, giới tính,
sức khỏe sinh sản, vệ sinh cá nhân, giáo dục môi trường,…
Giáo dục Kỹ năng sống ở Malaysia được xem xét và
nghiên cứu dưới 3 góc độ:Các kỹ năng thao tác bằng tay, kỹ
năng thương mại và đấu thầu, kỹ năng sống trong đời sống gia
đình.
Giáo dục Kỹ năng sống ở Campuchia được xem xét dưới
góc độ năng lực sống của con người, kỹ năng làm việc. Vì vậy,
giáo dục Kỹ năng sống được triển khai theo hướng là giáo dục
các kỹ năng cơ bản cho con người trong cuộc sống hàng ngày
và kỹ năng nghề nghiệp.

Ở Ấn Độ giáo dục kỹ năng sống cho học sinh xem xét
dưới góc độ giúp cho con người sống một cách lành mạnh về
9


thể chất và tinh thần, nhằm phát triển năng lực con người. Các
kỹ năng sống được khai thác giáo dục là các kỹ năng: giải quyết
vấn đề, tư duy phê phán, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ra quyết
định,….
Ở Bangladesh giáo dục Kỹ năng sống được khai thác dưới
góc độ các kỹ năng hoạt động xã hội, kỹ năng phát triển, kỹ
năng chuẩn bị cho tương lai.
Những nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, năm 2001-2005, giáo dục KNS dưới sự hỗ trợ
của UNICEF nhằm hướng tới cuộc sống khoẻ mạnh cho trẻ em
và trẻ em chưa thành niên trong và ngoài nhà trường ở một số
dự án như: Dự án “Trường học nâng cao sức khoẻ” của Bộ GD
& ĐT, Bộ Y tế, Tổ chức Y tế thế giới, Dự án “Giáo dục KNS
cho HS Tiểu học” của Bộ GD & ĐT. Ngành giáo dục đã triển
khai chương trình đưa giáo dục KNS vào hệ thống giáo dục
chính quy và không chính quy. Nội dung giáo dục của nhà
trường phổ thông được định hướng bởi mục tiêu giáo dục KNS.
Các nội dung giáo dục KNS cơ bản đã được triển khai ở các
trường Tiểu học là: KN tự nhận thức, KN giao tiếp, KN hợp tác,

10


…khả năng tự học suốt đời; định hướng học để biết, học để làm,
học để chung sống và học để tự khẳng định.

Một trong những người có những nghiên cứu mang tính hệ
thống về KNS và giáo dục KNS ở Việt Nam là tác giả Nguyễn
Thanh Bình. Với một loạt các bài báo, các đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ và giáo trình, tác giả Nguyễn Thanh Bình đã
góp phần đáng kể vào việc tạo ra những hướng nghiên cứu về
KNS và giáo dục KNS ở Việt Nam.
Một số công trình nghiên cứu khác trong nước đề cập đến
vấn đề KNS nói chung và KNS trong nhà trường nói riêng như:
KNS cho tuổi vị thành niên của tác giả Nguyễn Thị Oanh; Cẩm
nang tổng hợp KN hoạt động thanh thiếu niên của tác giả Phạm
Văn Nhân ; giáo dục KNS của tác giả Nguyễn Kỳ Anh - Giám
đốc Trung tâm giáo dục môi trường và sức khoẻ cộng đồng.
Giáo dục giá trị sống và KNS cho HS tiểu học của các tác giả
Ngô Thị Tuyên, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa, Bùi
Thị Thúy Hằng cũng chỉ ra vai trò quan trọng của giáo dục KNS
trong các nhà trường và cho rằng thiếu KNS con người sẽ thiếu
nền tảng giá trị sống. Theo các tác giả thì HS phải tham gia chủ
động vào các hoạt động giáo dục KNS mới làm thay đổi hành vi
11


của các em. Tài liệu cũng đưa ra các phương pháp giáo dục giá
trị sống, KNS và cách thức tổ chức hoạt động giáo dục KNS
cho HS.
Giáo dục KNS có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong
quá trình giáo dục HS, sinh viên ở Việt Nam và hầu hết các
nước trên thế giới. Tuy nhiên phần lớn các quốc gia hầu hết mới
bước đầu triển khai giáo dục KNS nên cơ sở lí luận về vấn đề
này dù khá phong phú song chưa thật toàn diện và sâu sắc. Các
nghiên cứu đều cho thấy tầm quan trọng của giáo dục KNS và

những ảnh hưởng lớn của hoạt động này tới việc phát triển nhân
cách HS, sinh viên song mới chỉ có rất ít quốc gia đưa nó vào
giảng dạy thành một bộ môn cụ thể trong toàn hệ thống giáo
dục mà hầu hết mới chỉ lồng ghép vào các môn học và các hoạt
động giáo dục.
Khái niệm Kỹ năng sống thực sự được hiểu với nội hàm đa
dạng sau hội thảo “ Chất lượng giáo dục và kỹ năng sống” do
UNICEF, Viện chiến lược và chương trình giáo dục tổ chức từ
ngày 23 - 25 tháng 10 năm 2003 tại Hà Nội. Từ đó người làm
công tác giáo dục ở Việt Nam đã hiểu đầy đủ hơn về kỹ năng
sống. Từ năm học 2002 - 2003 ở Việt Nam đã thực hiện đổi mới
12


giáo dục phổ thông trong cả nước. Trong chương trình Tiểu học
đổi mới đã hướng đến giáo dục kỹ năng sống thông qua lồng
ghép một số môn học: Đạo đức, Tự nhiên xã hội ( ở lớp 1,2,3)
và môn khoa học ( ở lớp 4,5).
Nhìn chung giáo dục kỹ năng sống cho con người nói
chung, cho học sinh nói riêng đã được các nước trên thế giới và
Việt Nam quan tâm khai thác, nghiên cứu với các góc độ khác
nhau nhưng
Kỹ năng sống
Định nghĩa
Có nhiều định nghĩa và quan niệm khác nhau về KNS. Mỗi
định nghĩa được thể hiện dưới những cách thức tiếp cận khác
nhau. Thông thường, KNS được hiểu là những kỹ năng thực
hành mà con người cần để có được sự an toàn, cuộc sống khỏe
mạnh với chất lượng cao.
Theo tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc

( UNESCO), KNS là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các
chức năng và tham gia vào cuộc sống hằng ngày, những kỹ năng
đó gắn với 4 trụ cột của giáo dục
13


+ Học để biết: gồm các kỹ năng tư duy phê phán, tư duy
sáng tạo, ra quyết định vấn đề, nhận thức được hậu quả của việc
làm,…
+ Học để làm việc: gồm các kỹ năng thực hiện công việc
và nhiệm vụ như kỹ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm…
+ Học để làm người: gồm các kỹ năng cá nhân như ứng
phó với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin,…
+ Học để chung sống: gồm các kỹ năng như giao tiếp,
thương lượng, khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể
hiện sự thông cảm,…
Theo tổ chức y tế thế giới ( WHO), KNS là thiết thực mà
con người cần để có cuộc sống an toàn và khỏe mạnh, đó là
những kỹ năng tâm lý xã hội và giao tiếp mà mỗi cá nhân có thể
có để tương tác với những người khác một cách hiệu quả hoặc
ứng phó với những vấn đề hay thách thức của cuộc sống hằng
ngày.
Tương đồng với quan niệm của WHO còn có quan niệm
KNS là những kỹ năng tâm lý xã hội liên quan đến những tri
thức những giá trị và những thái độ cuối cùng thể hiện ra bằng
14


những hành vi làm cho cá nhân có thể thích nghi và giải quyết
có hiệu quả các yêu cầu và thách thức của cuộc sống.

Theo UNICEFF, KNS là tập hợp rất nhiều kỹ năng tâm lý
xã hội và kỹ năng giao tiếp cá nhân giúp cho con người đưa ra
quyết định có cơ sở, giao tiếp một cách có hiệu quả, phát triển
kỹ năng tự xử lý và quản lý bản thân nhằm giúp họ có một cuộc
sống lành mạnh và có hiệu quả.
Theo Nguyễn Thanh Bình: “ KNS là năng lực, khả năng
tâm lý - xã hội của con người có thể ứng phó với những thách
thức trong cuộc sống, giải quyết các tình huống một cách tích
cực và giao tiếp có hiệu quả ”.
Theo tác giả Nguyễn Thị Tính: “ KNS là năng lực làm cho
hành vi và sự thay đổi của cá nhân phù hợp với cách ứng xử tích
cực, giúp con người có thể kiểm soát, quản lý có hiệu quả các
nhu cầu và những thách thức trong cuộc sống hằng ngày để
sống thành công hiệu quả”.
Từ những quan niệm trên có thể thấy KNS bao gồm một
loạt các kỹ năng cụ thể cần thiết cho cuộc sống hằng ngày của
con người. KNS là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người,
15


khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội,
khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.
1.2.2.Vai trò của kĩ năng sống
KNS có vai trò hết sức quan trọng đối với mỗi người.
Nhiều nghiên cứu đã cho phép đi đến kết luận là trong các yếu
tố quyết định sự thành công của con người, KNS đã góp đến
khoảng 85%. Theo UNESCO ba thành tố góp thành năng lực
con người là: kiến thức, kỹ năng, thái độ. Hai yếu tố sau thuộc
KNS, có vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách, bản
lĩnh, tính chuyên nghiệp,…

Thành công chỉ thật sự đến với những người biết thích
nghi để làm chủ hoàn cảnh và có khả năng chinh phục hoàn
cảnh. Vì vậy, KNS sẽ là hành trang không thể thiếu. Biết sống,
biết làm và thành đạt là ước mơ không quá xa vời là khao khát
chính đáng của những ai biết trang bị cho mình những KNS cần
thiết và hữu ích.
KNS tốt thúc đẩy thay đổi cách nhìn nhận bản thân và thế
giới, tạo dựng niềm tin, lòng tự trọng, thái độ tích cực và động
lực cho bản thân, tự mình quyết định số phận cho mình.
16


KNS giúp giải phóng và vận dụng năng lực tiềm tàng
trong mỗi con người để hoàn thiện bản thân, tránh suy nghĩ theo
lối mòn và hành động theo thói quen trên hành trình biến ước
mơ thành hiện thực.
Khối lượng kiến thức của chúng ta trở nên lỗi thời nhanh
chóng trong thời đại mới. Trong môi trường không ngừng biến
động con người luôn đối diện với áp lực cuộc sống từ những
yêu cầu ngày càng đa dạng, ngày càng cao trong quan hệ xã hội,
trong công việc và cả trong quan hệ gia đình. Qúa trình hội nhập
với thế giới đòi hỏi phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
ngoài kiến thức chuyên môn, yêu cầu về các KNS ngày càng trở
nên quan trọng. Thiếu KNS con dễ hành động tiêu cực, nông
nổi. Giáo dục cần trang bị cho người học những kỹ năng thiết
yếu như ý thức về bản thân, làm chủ bản thân, đồng cảm, tôn
trọng người khác, biết cách hợp tác và giải quyết hợp lý và mâu
thuẩn, xung đột.
Phân loại kĩ năng sống
Có nhiều cách phân loại kỹ năng sống, tùy theo quan niệm

về kỹ năng sống mà có nhiều cách phân loại khác nhau. Theo

17


UNESCO, WHO, UNICEF, có thể xem kỹ năng sống gồm các
kỹ năng cốt lõi sau:
+ Kỹ năng giải quyết vấn đề
+ Kỹ năng suy nghĩ hay tư duy phê phán
+ Kỹ năng giao tiếp hiệu quả
+ Kỹ năng ra quyết định
+ Kỹ năng tư duy sáng tạo
+ Kỹ năng giao tiếp, ứng xử cá nhân
+ Kỹ năng tự nhận thức hay tự trọng và tự tin của bản thân,
xác định giá trị
+ Kỹ năng thể hiện sự thông cảm
+ Kỹ năng ứng phó với căng thẳng và cảm xúc
Trong nền giáo dục của nước ta, những năm vừa qua, kỹ
năng sống thường được phân theo các mối quan hệ, bao gồm
các nhóm sau:

18


+ Nhóm với kỹ năng nhận biết và sống với chính mình bao
gồm các kỹ năng sống cụ thể như: tự nhận thức xác định giá trị,
ứng phó căng thẳng, tìm kiếm hỗ trợ, tự trọng, tự tin,…
+ Nhóm kỹ năng nhận biết và sống với người khác bao
gồm những kỹ năng sống cụ thể như: giao tiếp có hiệu quả, giải
quyết mâu thuẫn; thương lượng, từ chối, bày tỏ sự cảm thông,

hợp tác,…
+ Nhóm kỹ năng ra quyết định bao gồm các kỹ năng sống
cụ thể như: tìm kiếm và xử lý thông tin, tư duy phê phán, tư duy
sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề.
Có một cách phân loại khác cũng được phổ biến rộng rãi.
Với cách phân loại này kỹ năng sống được chia thành 2 loại: Kỹ
năng cơ bản và kỹ năng nâng cao.
+ Kỹ năng cơ bản gồm: Kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, múa,
hát, đi, đứng, chạy, nhảy v.v…
+ Kỹ năng nâng cao là sự kế thừa và phát triển các kỹ năng
cơ bản dưới một dạng thức mới hơn. Nó bao gồm: Các kỹ năng
tư duy logic, sáng tạo, suy nghĩ nhiều chiều, phân tích, tổng
hợp, so sánh, nêu khái niệm, đặt câu hỏi…Ở tiểu học, đối với
19


các lớp đầu cấp, kỹ năng cơ bản được xem trọng, còn các lớp
cuối cấp nâng dần cho các em về kỹ năng nâng cao. Theo đó,
chúng ta cần tập trung rèn luyện cho các em 2 nhóm kỹ năng
sống sau đây:
Nhóm kỹ năng giao tiếp - hòa nhập cuộc sống:
Các em biết giới thiệu về bản thân, về gia đình, về trường
lớp học và bạn bè thầy cô giáo.
Biết chào hỏi lễ phép trong nhà trường, ở nhà và ở nơi
công cộng.
Biết nói lời cảm ơn, xin lỗi. Thực tế trong nhà trường,
thông qua môn Đạo đức, các hoạt động tập thể HS được dạy
cách lễ phép nhưng khi đi vào thực tế, nhiều em thiếu kỹ năng
giao tiếp, không có thói quen chào hỏi, tự giới thiệu mình với
người khác, thậm chí có nhiều em còn không dám nói hoặc

không biết nói lời xin lỗi khi các em làm sai.
Biết phân biệt hành vi đúng sai, phòng tránh tai nạn. Đây
là kỹ năng quan trọng mà không phải em nào cũng xử lý được
nếu chúng ta không rèn luyện thường ngày.

20


Nhóm kỹ năng trong học tập, lao động - vui chơi giải trí:
Các kỹ năng nghe, đọc, nói, viết, kỹ năng quan sát, kỹ
năng đưa ra ý kiến chia sẻ trong nhóm.
Kỹ năng giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh chung.
Kỹ năng kiểm soát tình cảm - kỹ năng kìm chế thói hư tật
xấu sở thích cá nhân có hại cho bản thân và người khác.
Kỹ năng hoạt động nhóm trong học tập vui chơi và lao
động.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học
Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh tiểu học
Đặc điểm về thể chất của trẻ: Cơ thể trẻ em là nền tảng vật
chất của trí tuệ và tâm hồn. Nền tảng có vững thì trí tuệ và tình
cảm mới có khả năng phát triển tốt. “Thân thể khoẻ mạnh thì
chứa đựng một tinh thần sáng suốt”, ngược lại “tinh thần sáng
suốt thì cơ thể có điều kiện phát triển”. Trong cuộc sống thực tế
cho thấy những trẻ có thể lực yếu thường hay ỷ lại, phụ thuộc
nhiều vào những người thân trong gia đình những việc làm tự
phục vụ mà lẽ ra chính trẻ phải tự làm, tự lập dần: rửa chân tay,
21


mặc quần áo,... Một yếu tố nữa ảnh hưởng đến việc tự lập của

HS là hệ thần kinh của trẻ. Hệ thần kinh của trẻ tiểu học đang
trong thời kì phát triển mạnh. Bộ óc của các em phát triển về
khối lượng, trọng lượng và cấu tạo. Đến 9, 10 tuổi hệ thần kinh
của trẻ căn bản được hoàn thiện và chất lượng của nó sẽ được
giữ lại trong suốt cuộc đời. Khả năng kìm hãm(khả năng ức
chế) của hệ thần kinh còn yếu. Trong khi đó bộ óc và hệ thần
kinh của các em đang phát triển đi dần đến hoàn thiện nên các
em dễ bị kích thích. Thầy cô giáo và cha mẹ, người thân của các
em cần chú ý đến đặc điểm này để giúp trẻ hình thành tính tự
chủ, lòng kiên trì, sự kìm hãm của bản thân trước những kích
thích của hoàn cảnh xung quanh, biết giữ gìn trật tự nơi công
cộng và trong lớp học. Mặt khác không được mắng, doạ dẫm,
đe nạt các em vì làm như thế không những bị tổn thương đến
tình cảm mà còn gây tác hại đến sự phát triển thần kinh và bộ óc
của các em.
Khi trẻ bắt đầu gia nhập cuộc sống nhà trường - đi học tiểu
học, các em được học thêm những điều chưa hề có trong 6 năm
đầu đời; khi gia nhập cuộc sống nhà trường các em phải tiến
hành hoạt động học - hoạt động nghiêm chỉnh có kỉ cương, nề
22


nếp với những yêu cầu nghiêm ngặt. Chuyển từ hoạt động chủ
đạo là vui chơi sang hoạt động chủ đạo là học tập; chắc chắn trẻ
không tránh khỏi sự bỡ ngỡ vì thế phải chuẩn bị cho các em tâm
lí chuẩn bị sẵn sàng đi học.Việc giáo dục kỹ năng sống cho HS
tiểu học cũng được bắt đầu ngay từ những buổi đầu các em đến
trường. Nếu không chuẩn bị chu đáo về mặt tâm lí cho trẻ trước
khi đi học sẽ dẫn đến những tình huống như: đòi theo bố mẹ về
nhà, không dám nói chuyện với bạn bè, không dám chào hỏi

thầy cô, không dám xin phép cô khi ra vào lớp,... không ít
những tình huống dở cười, dở mếu vì trẻ lớp 1 không dám xin đi
vệ sinh rồi bậy ra quần ngay tại trong lớp, hoặc có trẻ xin ra
ngoài đi vệ sinh nhưng lại tranh thủ đi chơi để GV phải đi tìm.
Đặc điểm quá trình nhận thức của trẻ bao gồm quá trình tri giác,
chú ý, trí nhớ, tưởng tượng, tư duy. Đặc điểm nhân cách của trẻ
tiểu học gồm có: tính cách, nhu cầu nhận thức, tình cảm, sự phát
triển của năng khiếu. Sự nhận thức của trẻ ảnh hưởng rất lớn
đến phát triển nhân cách, ảnh hưởng đến việc hình thành và rèn
luyện kĩ năng sống của trẻ. Sự nhận thức đúng đắn sẽ giúp trẻ
có được kiến thức vận dụng trong cuộc sống sinh hoạt, giao
tiếp, ứng xử phù hợp với yêu cầu chuẩn mực xã hội. Một đặc
điểm quan trọng trong lứa tuổi tiểu học là tính hay bắt chước.
23


HS tiểu học thích bắt chước hành vi, cử chỉ, lời nói,...của các
nhân vật trong phim, của các thầy cô giáo, của những người
thân trong gia đình. tính bắt chước là con dao “hai lưỡi”, vì trẻ
em bắt chước cái tốt cũng nhiều, cái xấu cũng nhiều. Chính vì
vậy những tính cách hành vi của những người xung quanh là
môi trường ảnh hưởng trực tiếp đến tính cách, hành vi, ứng xử
của trẻ.
Các dạng hoạt động của trẻ em được thực hiện trong các
quan hệ:
Trẻ em - Gia đình; Trẻ em - Đồ vật; Trẻ em - Nhà trường;
Trẻ em - Xã hội.
Trong các mối quan hệ, quan hệ thầy trò là mối quan hệ
đặc biệt của mối quan hệ người - người. Ở tiểu học, do uy tín
của người thầy giáo các quan điểm, niềm tin, toàn bộ những

hành vi cử chỉ của người thầy thường là những mẫu mực cho
hành vi của học sinh nói chung. Nó ảnh hưởng sâu sắc đến thái
độ và cách ứng xử của các em trong quan hệ với người khác và
với xã hội. Các em thường tin tưởng tuyệt đối ở nơi thầy, cô
giáo nên chúng thường bắt chước những cử chỉ tác phong của
thầy, cô giáo mình. ở trường các em còn được tiếp xúc với bạn
24


bè, với tập thể nhóm bạn, tổ, lớp; những hoạt động tập thể cũng
ảnh hưởng không ít đến việc hình thành, phát triển nhân cách và
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Các yếu tố của quá trình giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh tiểu học
Đối với học sinh tiểu học giáo dục KNS nhằm trang bị cho
các em những kiến thức hiểu biết về một số chuẩn mực về hành
vi đạo đứcvà pháp luật trong mối quan hệ của các em với những
tình huống cụ thể, những lời nói việc làm của bản thân vối
những người thân trong gia đình, bạn bè và công việc của lớp,
của trường, với Bác Hồ và những người có công với đất nước
với dân tộc… cũng như với môi trường sống xung quanh. Giúp
các em học tập, rèn luyện kỹ năng nói, nhận xét, đứng trước tập
thể lựa chọn thực hiện hành vi ứng xử và quyết đoán. Giúp các
em có trách nhiệm đối với những việc làm và lời nói của bản
thân, tự tin vào khả năng của bản thân. Biết yêu thương ông bà,
cha mẹ, anh chị em, Bác Hồ, các chú bộ đội… cũng như biết
bảo vệ môi trường.
Mục đích giáo dục kĩ năng sống

25



×