Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Sử dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực trong dạy địa lí 11, nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh tại trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (746.52 KB, 29 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
I. Bối cảnh của giải pháp
1. Về không gian
Sáng kiến sử dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực trong dạy Địa lí 11 tại
trường THPT Sốp Cộp
2. Về thời gian
Một số kĩ thuật dạy học tích cực đã được giáo viên thực hiện trong quá trình
dạy thực nghiệm ở một số lớp thuộc môn Địa lí 11 trong năm học 2018 - 2019.
3. Thực trạng của việc thực hiện vấn đề
Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4 tháng 11 năm 2013 của Ban
chấp hành Trung ương "Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế". Nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục là
đào tạo thế hệ trẻ thành những người lao động có ý thức làm chủ, có tri thức, thành
thạo nghề nghiệp và có thái độ lao động tích cực, sáng tạo…Đó là nhiệm vụ nặng
nề, phức tạp đòi hỏi mỗi môn học trong trường phổ thông phải dựa dựa vào đặc
trưng môn học để xác định vị trí, chức năng và nhiệm vụ của mình trong nhiệm vụ
chung.
Trong số các môn học thì môn Địa lí là một trong những môn học có nhiều
khả năng bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy, trí tưởng tượng và óc thẩm mỹ,
rèn luyện cho học sinh một số kỹ năng có ích trong đời sống và sản xuất. Cùng với
các môn học khác, môn Địa lí góp phần bồi dưỡng cho học sinh ý thức trách nhiệm,
lòng ham hiểu biết khoa học, tình yêu thiên nhiên, con người, quê hương, đất nước.
Vì vậy, Địa lí là môn học không thể thiếu được trong hệ thống các môn học của nhà
trường, nhằm góp phần vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục phổ thông như luật
giáo dục đã nêu.
1


Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân, mà thực tế hiện nay có thể thấy rất ít HS có
niềm đam mê đối với môn Địa lí. Vậy thực tế này có nguyên nhân từ đâu, làm thế


nào để có thể khắc phục tình trạng này. Đây cũng là trăn trở của nhiều giáo viên
đang dạy học Địa lí nói chung và giáo viên dạy Địa lí ở trường THPT Sốp Cộp nói
riêng.
4. Tổng quan những thông tin về vấn đề cần nghiên cứu.
Hiện nay cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin việc học các môn văn
hóa nói chung và môn Địa lí nói riêng đã có nhiều thay đổi, nhất là trong dạy học
môn Địa lí hiện nay cần giảm tối đa những yêu cầu nhớ máy móc, đồng thời tăng
cường các yêu cầu phân tích, giải thích những sự kiện, hiện tượng địa lý trong quá
trình dạy và học, tăng cường ứng dụng các kiến thức vào giải quyết các tình huống
cụ thể. Với yêu cầu như vậy, đòi hỏi giáo viên phải nhanh chóng đổi mới phương
pháp dạy học, trên cơ sở tích cực các hoạt động học của học sinh, giảm giảng dạy
theo kiểu dạy chay, dạy một chiều trên lớp mà tăng cường các hoạt động độc lập.
Giáo viên đóng vai trò là người thiết kế, người kích thích, người điều khiển nhằm
định hướng học tập cho học sinh vào mục tiêu quan trọng nhất là giúp cho các em
đạt đến sự trưởng thành và phát triển các năng lực.
II. Lý do chọn giải pháp:
Trước yêu cầu ngày càng cao đối với người lao động để có thể thích ứng với
xu thế hội nhập và phát triển. Sự nghiệp giáo dục của nước ta càng phải tiếp tục đổi
mới nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó đổi mới phương pháp dạy
và phương pháp học là một trong những con đường quan trọng và là công cụ thiết
yếu của đổi mới giáo dục. Bên cạnh các phương pháp dạy học truyền thống, các cơ
sở giáo dục đều đã và đang tiến hành đổi mới giáo dục ở tất cả các môn học, các
bậc học với mục tiêu là lấy học sinh làm trung tâm, nhằm phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của người học.
2


Tuy nhiên thực tế việc đổi mới phương pháp giáo dục hiện nay nhiều khi vẫn
mang tính hình thức và chưa được thực hiện thường xuyên, chưa tạo được sự
chuyển biến rõ nét về chất lượng giáo dục. Thực tế này có nhiều nguyên nhân,

trong đó phải kể đến là chương trình SGK thiết kế vẫn còn nặng về trang bị kiến
thức là chủ yếu, chính vì vậy GV ít có điều kiện giúp cho HS phát triển các kĩ năng,
năng lực cần thiết. Bên cạnh đó còn nhiều GV chưa thực sự hiểu rõ và vận dụng
thành thạo các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực, nếu có thì chỉ vận dụng
một số phương pháp được xem là tích cực hiện nay như thảo luận nhóm, đàm thoại
gợi mở,….và thường xuyên lặp đi lặp lại trong các tiết học, khiến cho giờ học trở
nên đơn điệu và nhàm chán, HS mất dần hứng thú đối với môn học.
Đối với chương trình địa lí cấp THPT chương trình Địa lí 11 có sự kế thừa,
nâng cao kiến thức Địa lí Trung học cơ sở và ở lớp 10, đồng thời góp phần tạo cơ
sở cho việc trang bị kiến thức về Địa lí Việt Nam ở lớp 12. Có thể thấy rằng
chương trình Địa lí 11 đã cung cấp cho học sinh cái nhìn toàn cảnh về nền kinh tế
xã hội thế giới, các khu vực và các quốc gia lớn trên thế giới. Vì vậy nội dung kiến
thức của lớp 11 rất phong phú, đa dạng. Tuy nhiên để học sinh thực sự yêu thích và
hứng thú đối với môn học Địa lí nói chung trong đó có chương trình Địa lí 11 đòi
hỏi GV phải thực sự tâm huyết để đầu tư, tìm tòi cập nhật các kiến thức và ứng
dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực để có thể khơi dậy niềm đam mê
và hứng thú học tập cho HS, đồng thời giúp các em phát triển các năng lực của bản
thân.
Qua quá trình bồi dưỡng thường xuyên và thực tế giảng dạy nhiều năm tôi
nhận thấy việc xác định nội dung kiến thức cơ bản của bài giảng là một khâu rất
quan trọng, nhưng để học sinh tích cực, chủ động tiếp cận, lĩnh hội tri thức là một
khoa học và nghệ thuật. Điều đó phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp giảng dạy
của giáo viên. Giáo viên cần lựa chọn hình thức và phương pháp, kĩ thuật dạy học
thích hợp nhất với từng đơn vị kiến thức, từng bài để học sinh lĩnh hội được kiến
3


thức bài học một cách sâu sắc và bền vững, không những thế giáo viên cần phải tạo
cho học sinh thói quen chủ động khai thác kiến thức. Tuy nhiên trong thực tế có thể
thấy không một phương pháp nào là vạn năng và sử dụng trong toàn bộ quá trình

dạy học, mà tuỳ vào nội dung bài giảng mà ta sử dụng phương pháp nào là hiệu quả
hơn cả hoặc là sự kết hợp nhiều phương pháp, kĩ thuật dạy học mới có thể đạt được
hiệu quả. Xuất phát từ thực tế nêu trên tôi đã mạnh dạn áp dụng sáng kiến "Sử
dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực trong dạy Địa lí 11, nhằm tạo hứng thú
học tập cho học sinh tại trường THPT Sốp Cộp"
III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
1. Phạm vi của sáng kiến.
Sáng kiến sử dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực trong dạy Địa lí 11 tại
trường THPT Sốp Cộp.
2. Về đối tượng nghiên cứu
Hoạt động dạy và học bằng một số kĩ thuật dạy học tích cực trong chương
trình Địa lí 11 tại trường THPT Sốp Cộp.
IV. Mục đích nghiên cứu
Từ thực tế của việc dạy và học Địa lí hiện nay còn có những điểm hạn chế
chưa khơi dậy niềm đam mê và hứng thú học tập và chưa phát huy hết các năng lực
của HS. Vì vậy sáng kiến đề xuất một số giải pháp sử dụng các kĩ thuật dạy học
tích cực nhằm tạo hứng thú cho học sinh, đồng thời giúp cho giáo viên và học sinh
chuyển đổi từ phương pháp dạy học truyền thống sang các phương pháp dạy học
mới lấy học sinh làm trung tâm. Thông qua cách dạy học theo phương pháp và kĩ
thuật dạy học tích cực còn góp phần đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng
giáo dục của bộ môn Địa lí tại trường THPT Sốp Cộp.

4


PHẦN NỘI DUNG
I. Thực trạng của giải pháp đã biết
1. Thực trạng dạy học Địa lí 11 tại trường THPT Sốp Cộp
Trong chương trình địa lí cấp THPT có thể thấy chương trình SGK Địa lí lớp
11 cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản và phổ thông về địa lí bao gồm

một loạt các khái niệm chung về kinh tế thế giới hiện đại, toàn cầu hóa, tri thức
hóa…Các đặc trưng cơ bản về các nước phát triển và đang phát triển, một số khu
vực và các quốc gia trên thế giới như: Hoa Kì, Nhật Bản, Trung Quốc, các khu vực
Đông Nam Á, Mĩ La Tinh, Tây Nam Á…có thể thấy nội dung kiến thức khá là
phong phú trong khi thời lượng dành cho chương trình lại rất ít 1 tiết/tuần vì thế đối
với GV thường lựa chọn đảm bảo cung cấp đầy đủ kiến thức cho mỗi bài mà ít chú
trọng đến việc đổi mới phương pháp dạy học vì sợ mất thời gian không đảm bảo
được chương trình nên các phương pháp GV thường dùng trong các tiết học chỉ là
giảng giải, thuyết trình, vấn đáp, đàm thoại là chủ yếu, vì vậy tiết học diễn ra tương
đối trầm và GV phải làm việc nhiều, ít có sự tham gia của HS.
Đối với HS các em từ lâu đã quá quen với các phương pháp dạy học truyền
thống, đã quen đến lớp chỉ việc nghe giảng và ghi chép bài đầy đủ mà không cần
chuẩn bị gì nhiều cho bài học mới vì thế đã tạo ở các em sức ì quá lớn, khó tiếp
nhận cái mới, khó thay đổi….nhiểu em chưa xác định được nhiệm vụ học tập của
bản thân xem việc cung cấp kiến thức là của thẩy cô còn bản thân chỉ việc tiếp nhận
kiến thức một cách thụ động, ít có sự chủ động tìm tòi khám phá kiến thức mới.
2. Ưu nhược điểm của giải pháp đã áp dụng
2.1. Ưu điểm
Với việc thực hiện các phương pháp dạy học như đã nêu trên cũng đã có
những ưu điểm, đó là dễ thực hiện, đảm bảo được thời gian quy định trong mỗi tiết
học mà GV vẫn đạt được các mục tiêu kiến thức của từng bài; Thực hiện đầy đủ các
tiến trình lên lớp, mà không phải mất nhiều chi phí và thời gian đầu tư cho mỗi tiết
5


học. HS cũng không phải mất nhiều thời gian để chuẩn bị cho bài học mới, nếu có
chỉ cần đọc qua bài một lượt, đến lớp thì chỉ cần nghe giảng và ghi chép được đầy
đủ nội dung chính của bài học.
2.2. Nhược điểm.
Hiện nay với việc thay đổi cách tiếp cận mục tiêu giáo dục trong những năm

gần đây việc giáo dục không chỉ cung cấp kiến thức mà còn hướng tới định hướng
phát triển những phẩm chất, năng lực cần thiết để HS có thể áp dụng và đi vào cuộc
sống lao động sản xuất. Vì vậy với phương pháp dạy học như trên đã không phát
huy được đầy đủ những phẩm chất, năng lực cần có ở HS. Ngược lại làm cho HS bị
gò bó trong tiếp nhận kiến thức, quen với cách học tập thụ động, đến lớp chỉ ghi
chép bài một cách máy móc, không có thói quen chuẩn bị bài ở nhà và tham gia xây
dựng kiến thức cho bài học mới. Vì thế kiến thức của bài học trở nên đơn điệu và rất
khó nhớ, hoặc có thể học bài nào biết bài đó, cô lập nội dung kiến thức của từng bài,
không kích thích được tính sáng tạo của cá nhân và tập thể, việc vận dụng kiến thức
vào các bài học tiếp theo cũng như vận dụng vào thực tiễn còn rất hạn chế. Bên cạnh
đó học sinh luôn cảm thấy mất tự tin khi đứng trước tập thể, không biết làm thế nào
để trình bày một vấn đề cho logic và mang tính thuyết phục dẫn đến nhiều học sinh
không tập trung trong giờ học, mất tự tin khi đến lớp, thậm chí là chán nản, thất
vọng và đánh mất sự hứng thú với môn học.
3. Một số nguyên nhân chủ yếu
Thứ nhất là do chương trình sách giáo khoa Địa lí 11 với nội dung kiến thức
khá rộng vừa mang tính khái quát vừa cụ thể trong khi thời lượng dành cho chương
trình lại ít nên đã gây không ít khó khăn cho GV trong việc áp dụng các phương
pháp dạy học mới, vừa phải đảm bảo cung cấp đầy đủ các đơn vị kiến thức của từng
bài nhưng đồng thời phải giúp cho học sinh rèn luyện các kĩ năng và năng lực phẩm
chất cần thiết.

6


Thứ hai là do giáo viên đã quá quen với các phương pháp dạy học truyền thống
theo kiểu thầy đọc trò chép, nên việc áp dụng các phương pháp mới chưa thường
xuyên, thiếu sự đầu tư, chuẩn bị cho tiết dạy vì vậy chưa kích thích được tư duy sáng
tạo và thói quen chủ động, tích cực của học sinh, chưa tạo được hứng thú trong học
tập.

Thứ ba là đối với học sinh trường THPT Sốp Cộp là một trường vùng sâu,
vùng xa, đa phần học sinh là con em đồng bào dân tộc thiểu số mặt bằng nhận thức
và khả năng giao tiếp còn hạn chế, nhiều em còn khá rụt rè chưa dám thể hiện bản
thân và ngại giao tiếp. Đặc biệt các em chưa có thói quen đọc trước bài hoặc chuẩn
bị bài mới trước khi đến lớp, vì thế việc giúp các em nâng cao trình độ nhận thức,
tiếp thu bài học nhanh, phát huy tính tích cực, sáng tạo, khả năng tư duy và tự giác
học tập là một vấn đề nan giải đối với đội ngũ giáo viên của trường.
Từ kinh nghiệm giảng dạy của bản thân tôi nhận thấy nếu giáo viên có sự đầu
tư cho bài giảng và biết vận dụng linh hoạt các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích
cực vào từng nội dung hoặc từng bài cụ thể sẽ lôi cuốn được học sinh tham gia một
cách tích cực, chủ động, phát huy được tiềm năng sáng tạo của học sinh, giúp các
em đạt được các phẩm chất và năng lực cần thiết. Vì vậy trong phạm vi sáng kiến
này tôi đã áp dụng các kĩ thuật dạy học tích cực trong dạy một số bài thuộc chương
trình Địa lí 11 nhằm giúp cho HS phát triển được các năng lực của bản thân.
II. Nội dung của sáng kiến
1. Bản chất của giải pháp mới
Với mong muốn làm phong phú thêm các phương pháp và kĩ thuật dạy học
Địa lí theo hướng tích cực đồng thời khắc phục những nhược điểm và hạn chế nêu
trên, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, vừa tăng cường hiệu
quả học tập vừa phát triển được các kĩ năng như trình bày, giao tiếp với các bạn và
giáo viên, tạo không khí lớp học thân thiện, cởi mở và hợp tác. Sáng kiến đã đưa ra
7


các bước tiến hành áp dụng các kĩ thuật dạy học tích cực trong nội dung cụ thể của
một số bài thuộc chương trình Địa lí 11, góp phần phát triển năng lực cho HS,
đồng thời giúp giáo viên có thể vận dụng linh hoạt và có hiệu quả các phương pháp
và kĩ thuật dạy học tích cực, góp phần đổi mới phương pháp và nâng cao chất
lượng giáo dục. Cụ thể tác giả đã đề xuất giải pháp sử dụng các kĩ thuật mảnh ghép,
kĩ thuật động não, kĩ thuật đặt tiêu đề cho một đoạn văn, kĩ thuật tổ chức trò chơi là

những kĩ thuật còn rất mới mẻ chưa được các giáo viên áp dụng trong dạy học môn
Địa lí tại trường THPT Sốp Cộp.
Thực chất kĩ thuật dạy học tích tích cực (KTDHTC) chính là những động tác,
cách thức hành động của GV và HS trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực
hiện và điều kiển quá trình dạy học với các kĩ thuật mới nhằm phát huy tính tích
cực, sáng tạo của người học như: kĩ thuật động não, kĩ thuật mảnh ghép, kĩ thuật
đặt tiêu đề cho một đoạn văn, kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật tia chớp, kĩ thuật
KWL, ….
Dưới đây là các giải pháp sử dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực trong dạy
một số bài Địa lí 11 mà tôi đã áp dụng tại trường THPT Sốp Cộp.
1.1. Giải pháp 1. Sử dụng kĩ thuật mảnh ghép
Là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập kết hợp giữa cá nhân, nhóm và liên kết
giữa các nhóm nhằm giải quyết một nhiệm vụ phức hợp, kích thích sự tham gia tích
cực của HS cũng như vai trò cơ bản của cá nhân trong quá trình hợp tác.
* Mục đích.
Rèn luyện cho học sinh khả năng tự học, tự nghiên cứu và phát huy năng lực của
bản thân, tăng cường hiệu quả học tập vừa phát triển kĩ năng trình bày, giao tiếp với
các bạn và giáo viên, tạo không khí lớp học thân thiện và hợp tác.

8


Sơ đồ các bước tiến hành: gồm 2 vòng
- Vòng 11:

1

1

1


2

3

2

2

2

3

3

3

3

1

2

3

- Vòng 2
Vòng 2

1


1

2

- Vòng 1: Thành lập nhóm chuyên gia
- Vòng 1: Thành lập nhóm chuyên gia.

GV chia lớp học thành các nhóm. Mỗi nhóm được giao một nhiệm vụ với
những nội dung học tập khác nhau. Ví dụ:
+ Nhóm 1: Nhiệm vụ A
+ Nhóm 2: Nhiệm vụ B
+ Nhóm 3: Nhiệm vụ C
Các cá nhân trong mỗi nhóm làm việc độc lập trong vài phút, suy nghĩ về câu
hỏi, chủ đề và ghi lại những ý kiến của mình. Khi thảo luận nhóm phải đảm bảo
mỗi thành viên trong từng nhóm đều trả lời được tất cả các câu hỏi trong nhiệm vụ
được giao và trở thành chuyên gia của lĩnh vực đã tìm hiểu.
- Vòng 2: Nhóm mảnh ghép
Mỗi nhóm ở vòng 1 sẽ được tách ra và chia đều vào các nhóm mới để thành
lập nhóm mảnh ghép ở vòng 2 theo sơ đồ. Ví dụ: Hình thành nhóm mới khoảng 3
- 6 người (bao gồm 1 - 2 người từ nhóm 1; 1-2 người từ nhóm 2; 1 - 2 người từ
nhóm 3; …) gọi là nhóm mảnh ghép.
Các câu hỏi và câu trả lời ở vòng 1 được chia sẻ bởi các thành viên trong
nhóm mới.
9


Khi mọi thành viên trong nhóm mới đều nắm được các nội dung ở vòng 1 thì
nhiệm vụ mới sẽ được giao cho các nhóm giải quyết (lưu ý nhiệm vụ mới này phải
gắn liền với kiến thức thu được ở vòng 1).
Các nhóm mới thực hiện nhiệm vụ trình bày và chia sẻ kết quả.

Lưu ý: Khi áp dụng kĩ thuật mảnh ghép trong giảng dạy địa lí giáo viên cần:
- Trước khi lên lớp giáo viên phải giới thiệu trước cho học sinh một số tài liệu có
liên quan đến các nội dung bài học mình giảng dạy để học sinh có thời gian tìm
kiếm và tự nghiên cứu.
- Khoảng thời gian trên lớp giáo viên giao cho từng nhóm học sinh một chủ đề nào
đó để nghiên cứu kỹ, các chủ đề nhỏ trong bài học phải có sự liên quan gắn bó chặt
chẽ với nhau. Mỗi nhóm học sinh sẽ thảo luận tìm ra nội dung theo yêu cầu của
giáo viên.
- Khi HS đã chuẩn bị tốt tâm thế học tập như tài liệu và nội dung bài học thì việc
sử dụng kỹ thuật các mảnh ghép là khâu cuối cùng để HS có cơ hội nêu ý kiến của
mình và ai cũng được tham gia vào nội dung của bài học hay một vấn đề mà GV
nêu ra.
- Về phía GV thì trong quá trình sử dụng kĩ thuật mảnh ghép phải dành thời gian
theo dõi HS thảo luận nhóm và trình bày kết quả, có như vậy thì người học có điều
kiện trao đổi trực tiếp với giáo viên và ý thức rằng mình làm việc một cách nghiêm
túc, đồng thời để đảm bảo các nhóm hoàn thành nhiệm vụ đúng thời gian quy định.
- Thành lập nhóm mới "nhóm mảnh ghép” cần đảm bảo có đủ thành viên của các
nhóm chuyên sâu. Đặc điểm của nhiệm vụ mới ở vòng 2 là một nhiệm vụ phức hợp
và chỉ có thể giải quyết được trên cơ sở nắm vững những kiến thức đã có ở vòng 1.
Do đó cần xác định rõ những yếu tố cần thiết về kiến thức, kĩ năng, thông tin,…
cũng như các yếu tố hỗ trợ cần thiết để giải quyết nhiệm vụ phức hợp này.
10


* Để đảm bảo hiệu quả của nhóm, các thành viên trong nhóm cần được phân công
các nhiệm vụ như sau:
Vai trò
Nhiệm vụ
Trưởng nhóm
Phân công nhiệm vụ

Hậu cần
Chuẩn bị đồ dùng , tài liệu cần thiết
Thư kí
Ghi chép kết quả
Phản biện
Đặt các câu hỏi phản biện
Liên lạc với các nhóm khác Liên hệ với các nhóm khác
Liên lạc với giáo viên
Liên lạc với giáo viên để xin trợ giúp.
Ví dụ 1. Sử dụng kĩ thuật mãnh ghép ở Bài 6: Hợp chúng quốc Hoa Kì - Tiết
1: Tự nhiên và dân cư.
Trong dạy nội dung phần II. Điều kiện tự nhiên của Hoa Kì. GV có thể áp
dụng kĩ thuật mảnh ghép như sau
Cách tiến hành:
- Vòng 1: Thành lập nhóm chuyên gia: mỗi nhóm “chuyên gia” tìm hiểu kĩ đặc
điểm tự nhiên của từng vùng lãnh thổ của Hoa Kì.
GV chia lớp thành 4 nhóm, yêu cầu HS dựa vào nội dung SGK, Bản đồ tự nhiên
Hoa Kì, kết hợp với hiểu biết của bản thân thực hiện nhiệm vụ sau:
+ Nhóm 1: Tìm hiểu các đặc điểm tự nhiên của vùng phía Tây
+ Nhóm 2: Tìm hiểu các đặc điểm tự nhiên của vùng phía Đông
+ Nhóm 3: Tìm hiểu các đặc điểm tự nhiên của vùng Trung Tâm
+ Nhóm 4: Tìm hiểu đặc điểm tự nhiên của bán đảo Alaxca và quần đảo Haoai.
Nội dung phiếu học tập các nhóm như sau:
Vùng

Phí a Tây

Phía Đông

Phạm vi

11

Trung tâm

Alaxca và
Ha - Oai


Địa hình
Khí hậu
Tài nguyên nổi
bật của vùng
Các nhóm thực hiện nhiệm vụ được giao, tìm hiểu thảo luận đảm bảo mỗi
thành viên trong nhóm phải nắm chắc được các đặc điểm tự nhiên của mỗi vùng để
trình bày trong nhóm mới - nhóm mảnh ghép ở vòng 2. Như vậy vai trò của cá
nhân trong nhóm không chỉ hoàn thành nhiệm vụ hoạt động cá nhân mà còn phải
trình bày truyền đạt lại kết quả và thực hiện tiếp nhiệm vụ ở mức độ cao hơn.
Phần lãnh thổ ở trung tâm lục địa Bắc Mĩ phân hóa thành 3 vùng tự nhiên
Vùng
Phí a Tây
Trung tâm
Phía Đông
Phạm
Gồm vùng núi Coóc-đi- Nằm giữa dãy A-pa- Gồm dãy A-pa-lát
vi
e và các đồng bằng ven lát và dãy Rốc-ki.
và các đồng bằng
TBD.
ven ĐTD.
Địa

hình

- Các dãy núi cao - Phía tây và bắc là
>2000m chạy song song gồ đồi thấp.
theo hướng bắc – nam.
- Phía nam là đồng
- Xen giữa là các bồn bằng châu thổ.
địa và cao nguyên.

- Dãy núi già A-palát, có nhiều thung
lũng cắt ngang.
- Các đồng bằng ven
ĐTD khá rộng lớn.

Khí hậu - Ở các các bồn địa và Khí hậu ôn đới và cận Khí hậu ôn đới hải
cao nguyên có khí hậu nhiệt đới.
dương và cận nhiệt
khô hạn
đới.
- Ven TBD có khí hậu
cận nhiệt và ôn đới hải
dương.
Tài
nguyên
nổi bật
của
vùng

- Khoáng sản phong - Khoáng sản: than,
phú: vàng, đồng, bôxit, sắt, dầu khí.

chì.
- Các đồng cỏ, đất
- Thủy năng, rừng, đồng màu mỡ.
cỏ, đất trồng.

12

- Khoáng sản: than
đá, sắt.
- Đất phì nhiêu, thủy
năng.


Bán đảo Alaxca và quần đảo Ha-oai
Đặc điểm tự nhiên
Bán đảo Alaxca
- Là bán đảo nằm ở tây bắc Bắc Mĩ.
- Nhiều núi cao, khí hậu lạnh giá, giàu
dầu khí, thủy sản.
Quần đảo Ha-oai
- Là quần đảo giữa TBD.
- Nhiều đảo núi lửa, san hô; khí hậu nhiệt
đới ẩm.
- Vòng 2: Nhóm mảnh ghép
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở vòng 1, mỗi thành viên từ các nhóm chuyên
sâu khác nhau hợp lại thành các nhóm mới, gọi là nhóm “mảnh ghép”. Lúc này,
mỗi học sinh “chuyên gia” trở thành những mảnh ghép trong “nhóm mảnh ghép”
.Từng học sinh từ các nhóm “chuyên gia” trong nhóm “mảnh ghép” lần lượt trình
bày lại nội dung tìm hiểu của nhóm mình nêu được các đặc điểm tự nhiên của các
vùng lãnh thổ phía Đông, phía Tây, vùng Trung Tâm,..... Đảm bảo tất cả các thành

viên trong nhóm “mảnh ghép” nắm bắt được đầy đủ nội dung của các nhóm chuyên
sâu. Sau đó các “nhóm mảnh ghép” tiếp tục thực hiện nhiệm vụ mới: Đánh giá
ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên đến sự phát triển các ngành kinh tế của Hoa

- Các thành viên trong các nhóm “mảnh ghép” tiến hành thảo luận thực hiện
nhiệm vụ.
- GV đề nghị đại diện thành viên ở “nhóm mảnh ghép” trình bày kết quả
- Các nhóm khác bổ sung kiến thức và có ý kiến phản hồi khác
- Giáo viên nhận xét đánh giá và chuẩn kiến thức.
Ví dụ 2: Tương tự có thể áp dụng kĩ thuật mảnh ghép trong phần I. 2. Đặc điểm
tự nhiên của Đông Nam Á ở Bài 11. Khu vực Đông Nam Á - Tiết 1: Tự nhiên, dân
cư và xã hội
- Vòng 1: Thành lập nhóm chuyên sâu
GV chia lớp thành 4 nhóm: Yêu cầu HS dựa vào nội dung SGK, Bản đồ tự
nhiên Châu Á (ĐNÁ), kết hợp với hiểu biết của bản thân thực hiện nhiệm vụ sau:
13


Nhóm 1,2: Tìm hiểu đặc điểm tự nhiên của Đông Nam Á lục địa
Nhóm 3,4: Tìm hiểu đặc điểm tự nhiên của Đông Nam Á biển đảo
Đặc điểm tự nhiên
Đông Nam Á lục địa
Đông Nam Á biển đảo
Địa hình
Đất đai
Khí hậu
Sông Ngòi
Sinh vật
Khoáng sản
Biển

Các cá nhân trong nhóm thực hiện nhiệm vụ được giao đảm bảo tất cả các thành
viên đều trả lời được các nội dung của nhóm ở vòng 1
Đặc điểm
nhiên
Địa hình

Đất đai
Khí hậu
Sông ngòi
Sinh vật
Khoáng sản
Biển

tự Đông Nam Á lục địa

Đông Nam Á biển đảo

- Chia cắt mạnh nhiều đồi núi Tập trung nhiều đảo, quần
(60% diện tích.
đảo.
- Có nhiều đồng bằng lớn.
- Ít đồng bằng, nhiều đồi,
núi, núi lửa
- Đất phù sa, đất đỏ badan, Đất đỏ badan màu mỡ, …
feralit.
- Nhiệt đới ẩm gió mùa, phân Nhiệt đới gió mùa và khí hậu
hóa đa dạng.
xích đạo.
- Có nhiều sông lớn, chế độ Nhiều sông chế độ nước điều
nước theo mùa.

hòa, ngắn, nhiều thác ghềnh.
Rừng nhiệt đới ẩm.
Rừng xích đạo.
Dầu mỏ, than, sắt, thiếc.
Giàu có dầu mỏ, kim loại.
- Đường bờ biển dài (trừ Lào - Biển bao quanh, rộng lớn
không giáp biển)

- Vòng 2: Thành lập nhóm mảnh ghép
GV yêu cầu HS thành lập nhóm mới bằng cách tách các thành viên của các
nhóm trên, các thành viên trong nhóm mới thực hiện trao đổi kết quả thực hiện
nhiệm vụ ở vòng 1 và đảm bảo mỗi thành viên đều nắm được các đặc điểm tự nhiên
của cả Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á biển đảo. Sau đó các nhóm mảnh
14


ghép thực hiện nhiệm vụ mới: 3. Đánh giá ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên của
Đồng Nam Á đến sự phát triển kinh tế .
* Các nhóm “ mảnh ghép” thực hiện nhiệm vụ.
- GV đề nghị đại diện thành viên các “nhóm mảnh ghép” trình bày kết quả.
- Các nhóm khác bổ sung kiến thức và có ý kiến phản hồi khác.
- Giáo viên nhận xét đánh giá và chuẩn kiến thức.
Đánh giá điều kiện tự nhiên của Đông Nam á
a. Thuận lợi
- Khí hậu nóng ẩm + đất trồng phong phú (đất phù sa, đất đỏ badan, feralit) mạng
lưới sông ngòi dày đặc
⇒ phát triển nông nghiệp nhiệt đới đa dạng các sản phẩm.

- Có lợi thế về biển ⇒ phát triển tổng hợp kinh tế biển (trừ Lào) và có lượng mưa
dồi dào.

- Có nhiều sông lớn => Phát triển giao thông, thủy lợi, thủy điện.
- Giàu khoáng sản => Phát triển công nghiệp,
- Có diện tích rừng lớn: Rừng xích đạo và rừng nhiệt đới phong phú và đa dạng=>
khai thác, chế biến lâm sản.
b. Khó khăn
- Có vị trí kề sát vành đai lửa Thái Bình Dương, đây là nơi hoạt động của áp thấp
nhiệt đới nên chịu ảnh hưởng của nhiều thiên tai như bão, lũ lụt..
- Diện tích rừng đang bị thu hẹp, tài nguyên bị khai thác quá mức.
* Tính mới của giải pháp
Học sinh bước đầu được làm quen với một kĩ thuật dạy học mới "kĩ thuật
mảnh ghép" và được đóng vai trò tích cực, chủ động trong việc tham gia xây dựng
kiến thức của bài học mới, khuyến khích động cơ và hiệu quả học tập cao hơn.

15


Đồng thời còn có thể đào tạo ra những chuyên gia giàu kinh nghiệm trong xử lí,
giải quyết công việc nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả.
Sử dụng kĩ thuật này còn có thể khắc phục được những nhược điểm của
phương pháp tổ chức hoạt động nhóm thông thường đó là nhóm nào tìm hiểu nội
dung nào thì chỉ biết nội dung đó cô lập nội dung kiến thức của mỗi bài mà không
nắm kĩ nội dung của toàn bài vì thế hiệu quả học tập không cao.
1.2. Giải pháp 2. Kĩ thuật đặt tiêu đề cho một đoạn văn
Một đoạn văn có nội dung thông tin nhất định, thông qua việc đọc kĩ một
đoạn văn người đọc có thể tìm ra nội dung cốt lõi nhất và đặt tiêu đề cho đoạn văn
đó. Tìm được tiêu đề đặt tên cho đoạn văn tức là người đọc đã hiểu được đoạn văn.
Kĩ thuật này thường được dùng trong các bài, các mục có nội dung dài viết dưới
dạng văn bản, thay bằng phải giảng giải hoặc phát vấn, giáo viên dùng kĩ thuật này
để phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong học tập.
* Các bước tiến hành

- Bước 1. Lựa chọn nội dung bài học cần đặt tiêu đề.
- Bước 2. HS cả lớp tiến hành đọc và tìm hiểu kĩ nội dung của đoạn văn bản
để đề xuất tiêu đề cho đoạn văn.
- Bước 3. GV cử đại diện một số HS cho ý kiến, HS khác bổ sung
- Bước 4. Nhận xét, đánh giá của giáo viên và chốt kiến thức.
Ví dụ: Sử dụng kĩ thuật đặt tiêu đề cho một đoạn văn ở Bài 3: Một số vấn đề
mang tính toàn cầu. GV có thể áp dụng kĩ thuật này cho các nội dung của phần II.
Môi trường:
1. Biến đổi khí hậu toàn cầu và suy giảm tầng ô dôn.
2. Ô nhiễm nguồn nước ngọt, biển và đại dương.
3. Suy giảm đa dạng sinh học.
16


GV yêu cầu HS đọc kĩ thông tin của từng mục để hiểu được nội dung cốt lõi nhất
và đặt tiêu đề cho đoạn văn đó.
- Bước 1: GV lựa chọn nội dung mục 1. Biến đổi khí hậu toàn cầu và suy giảm tầng
ô dôn.
- Bước 2: GV yêu cầu HS tìm hiểu kĩ nội dung đoạn văn bản dưới đây để đề xuất
đặt tiêu đề cho đoạn văn:
"Lượng C02 tăng đáng kể trong khí quyển gây ra hiệu ứng nhà kính, làm cho
nhiệt độ Trái Đất tăng lên. Ước tính trong vòng 100 năm trở lại đây, Trái Đất nóng
lên 0,60C. Dự báo đến năm 2100, nhiệt độ Trái Đất sẽ tăng thêm từ 1,40C đến 5,60C.
Hoạt động công nghiệp và sinh hoạt, đặc biệt ở các nước phát triển đã đưa
vào khí quyển một lượng lớn khí thải gây ra mưa axit ở nhiều nơi trên Trái Đất.
Đồng thời, khí thải CFCs đã làm cho tầng ô dôn mỏng dần và lỗ thủng tầng ô dôn
ngày càng rộng ra".
- Bước 3: GV mời đại diện HS trả lời, HS khác bổ sung.
- Bước 4. GV nhận xét và đánh giá và chốt kiến thức.
Như vậy thay bằng giáo viên phát vấn: “Cho biết nguyên nhân, biểu hiện của biến

đổi khí hậu toàn cầu và suy giảm tầng ô dôn”, GV yêu cầu học sinh tự đọc kĩ nội
dung mục II. 1 SGK và cho biết nội dung đoạn văn trên nói về vấn đề gì. Học sinh
đọc đoạn văn và dễ dàng chỉ ra được đoạn văn nói về biểu hiện và nguyên nhân của
biến đổi khí hậu toàn cầu và suy giảm tầng ô dôn. Tương tự GV thực hiện kĩ thuật
này đối với mục 2 và 3 (ô nhiễm nguồn nước ngọt, biển và đại dương; Suy giảm đa
dạng sinh vật)
* Tính mới của giải pháp

17


Học sinh được làm quen với một kĩ thuật dạy học mới, giúp cho HS có thêm
cách tiếp cận kiến thức hoàn toàn khác so với cách thức truyền thống. Ở giải pháp
này HS được đóng vai trò tích cực, chủ động trong việc tham gia xây dựng kiến
thức của bài học mới, khuyến khích động cơ và hiệu quả học tập cao hơn.
1.3. Giải pháp 3: Sử dụng kĩ thuật động não.
Kĩ thuật động não là một trong những kĩ thuật dạy học tích cực, dùng để giải
quyết nhiều loại vấn đề khác nhau, giúp cho người học trong thời gian ngắn nảy
sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó. Kĩ thuật này có thể
thực hiện vào đầu tiết học, hoặc bắt đầu một vấn đề, một nội dung ở giữa bài học .
* Mục đích
- Giúp HS trả lời nhanh vấn đề được GV nêu ra.
- Phát triển tư duy logic.
- Giúp cho các em tự tin hơn, mạnh dạn hơn trong trình bày ý kiến của mình.
* Các bước tiến hành.
- Bước 1. GV lựa chọn và nêu vấn đề/ chủ đề (có thể gắn với phương tiện
trực quan) cần tìm hiểu trước lớp hoặc trước nhóm kèm theo câu hỏi kích thích suy
nghĩ của người học.
- Bước 2. Yêu cầu cả lớp động não đóng góp ý kiến bằng cách ghi ý kiến của
mình vào giấy nhỏ dán lên bảng phụ hoặc từng người phát biểu ý kiến.

- Bước 3. GV Liệt kê tất cả các ý kiến, không loại trừ ý kiến nào, trừ trường
hợp trùng lập, tiến hành phân loại các ý và làm sáng tỏ từng ý kiến chưa rõ ràng.
- Bước 4. Thảo luận và đánh giá khái quát về công dụng và tính khả thi từng
ý kiến.
Ví dụ: Cũng trong nội dung Bài 3: Một số vấn đề mang tính toàn cầu, sau
khi dạy phần II. Môi trường với các nội dung cụ thể (Biến đổi khí hậu và suy giảm
18


tầng ô dôn; Ô nhiễm nguồn nước ngọt, biển và đại dương; Suy giảm đa dạng sinh
vật).
Giáo viên có thể sử dụng kĩ thuật động não theo các bước như sau:
Bước 1: GV nêu câu hỏi yêu cầu HS giải thích câu nói: Trong bảo vệ môi
trường, cần phải "tư duy toàn cầu, hành động địa phương"
Bước 2: Yêu cầu HS cả lớp động não suy nghĩ để tìm câu trả lời.
Bước 3: GV gọi một số em nêu suy nghĩ của mình. GV tập hợp các ý kiến
ghi lên bảng
- Bước 4: GV cùng HS toàn lớp thảo luận sâu từng ý, chọn và đánh dấu vào
ý kiến cho là hợp lí nhất.
(Cần phải tư duy toàn cầu vì: môi trường Trái Đất là ngôi nhà chung của tất cả mọi
người. Môi trường tự nhiên là một thể thống nhất và hoàn chỉnh. Hoạt động phá
hoại môi trường ở nơi này sẽ làm ảnh hưởng đến nhiều nơi khác và cả trên phạm vi
toàn cầu, chứ không phải chỉ tại một số quốc gia hay môt khu vực nào trên Trái Đất
(làm biến đổi khí hậu toàn cầu, ô nhiễm môi trường nước và sự suy giảm đa dạng
sinh học)
- Hành động địa phương vì: sự biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và suy giảm
đa dạng sinh học ở các quốc gia, các khu vực khác nhau trên Trái Đất, không giống
nhau về mức độ. Do vậy, ở các địa phương khác nhau trên Trái Đất tùy theo mức
độ ô nhiễm môi trường mà có những biện pháp cụ thể khác nhau)
- Lưu ý: Để kĩ thuật động não đạt được hiệu quả dạy học cao:

+ GV cần nêu ra trước HS các vấn đề có nhiều khả năng tạo cơ hội bộc lộ
nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau.
+ Các ý kiến của HS phải được tôn trọng và tập hợp, dù cho ý kiến đó có thể
không hoàn toàn hợp lí.
* Tính mới của giải pháp
19


Sử dụng kĩ thuật động não giúp cho GV huy động được sự tham gia tích cực
của HS trong việc xây dựng và hình thành kiến thức của bài học. Khai thác được
tiềm năng sáng tạo của HS, giúp cho HS được tự do tham gia vào các hoạt động để
tìm ra kiến thức mà không quan tâm đến những hạn chế của cá nhân, từ đó giúp cho
các em mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp và trình bày ý kiến của mình.
1.4. Giải pháp 4. Kĩ thuật tổ chức Trò chơi
Tổ chức các trò chơi trong hoạt động học tập nói chung và trong môn Địa lí
nói riêng cần được áp dụng rộng rãi bởi nó được xem là một trong những biện pháp
tích cực trong hoạt động dạy và học hiện nay. Có thể thực hiện vào đầu tiết học,
hoặc bắt đầu một vấn đề, một nội dung ở giữa bài học hoặc áp dụng trong các tiết
ôn tập.
* Mục đích:
- Giúp HS tự tin, mạnh dạn và nhanh nhẹn hơn.
- Tạo cho HS niềm đam mê, hứng thú học tập đối với môn học
- Lôi cuốn được sự tham gia tích cực của HS,...
* Cách tiến hành
- Bước 1: GV cần tìm hiểu kĩ nội dung của bài học.
- Bước 2. Lựa chọn nội dung bài học và hình thức tổ chức trò chơi.
- Bước 3. GV thiết kế nội dung trò chơi
- Bước 4. Tổ chức trò chơi.
Lưu ý: GV yêu cầu HS tìm hiểu trước nội dung bài học và sưu tầm các tài liệu
liên quan. Trước khi tiến hành GV chia lớp thành các đội chơi, đưa ra luật chơi và

cử 1 số HS làm trọng tài giám sát việc thực hiện trò chơi của các nhóm; có hình
thức khen thưởng đối với cá nhân hoặc đội chơi giành chiến thắng hoặc ngược lại
đối với đội thua hay phạm quy.
20


Ví dụ 1: GV tổ chức trò chơi: Ai là nhà thông thái trong tiết ôn tập học kì 1Địa lí 11. Sau khi tìm hiểu về một số châu lục, khu vực hoặc các quốc gia.
- GV chia lớp thành 2 hoặc 3 đội, cử 1 hoặc 2 quản trò và 1 hoặc 2, 3 người hỗ
trợ quản trò hay trọng tài.
- GV hướng dẫn quản trò đưa ra luật chơi cho các bạn, phát cho quản trò bộ
chữ gợi ý (khoảng 10 cụm từ - mỗi nhóm 5 cụm từ)
- Quản trò nêu luật chơi: khi nhóm bốc thăm được cụm từ nào thì trong vòng
10 giây nhóm đó phải nói được đặc trưng của cụm từ đó hoặc phải trả lời được câu
hỏi đó. Sau 10 giây nhóm bốc thăm không có câu trả lời thì sẽ giành quyền trả lời
cho các đội còn lại.
Ví dụ: Khi đưa cụm từ Tây Nam Á và Trung Á, thì HS có thể trả lời là khu
vực giàu tài nguyên dầu mỏ hoặc chính trị không ổn định hoặc xung đột sắc tộc, tôn
giáo; Khi HS bốc được từ châu Phi có thể trả lời châu lục giàu tài nguyên khoáng
sản hoặc đói nghèo, dịch bệnh,...Khi bốc được từ Mĩ la tinh HS có thể trả lời chính
trị không ổn định, lệ thuộc vào nước ngoài, đô thị hóa tự phát hay chênh lệch giàu
nghèo lớn; hoặc cụm từ Nhật Bản HS có thể đưa ra các đặc trưng quốc gia nghèo
khoáng sản hay nhiều thiên tai như động đất, sóng thần,...
- Nhóm thắng cuộc GV có thể cho điểm hoặc tặng mỗi HS một cây bút hoặc
món quà là những con hạc giấy, học sinh tự chấm mắt và vẽ trang trí lên hạc giấy
và yêu cầu HS về tìm hiểu tại sao cô lại tặng hạc giấy trong buổi học hôm nay?
Ví dụ 2: Tổ chức trò chơi: Ai nhanh hơn khi học Bài 11. Khu vực Đông Nam
Á (4 tiết), trong tiết 1 để tạo hứng thú cho HS, vừa có thể giới thiệu khái quát về
khu vực này. GV có thể áp dụng trò chơi nhìn cờ đoán tên các quốc gia Đông Nam
Á.
- GV chia lớp thành 4 nhóm và nêu luật chơi như sau:


21


- Mỗi nhóm có thời gian tối đa là 3 phút quan sát hình ảnh lá cờ của các nước
trong khu vực Đông Nam Á trên phông chiếu, mỗi lá cờ được đánh số thứ tự từ 1 11 và yêu cầu HS các nhóm điền tên các quốc gia tương ứng.
- Nhóm nào điền đúng, đủ và nhanh nhất tương ứng sẽ là đội nhất, nhì, ba
- Phần thưởng sẽ tương ứng với số điểm hoặc món quà từ cao xuống thấp.
* Tính mới của giải pháp
Sử dụng kĩ thuật tổ chức trò chơi có tác dụng mở rộng, nâng cao hiểu biết và
các kĩ năng hoạt động của học sinh. Tổ chức trò chơi tốt vừa phát huy được sự
nhanh trí, sáng tạo, vừa rèn luyện tính tự lập và tinh thần tập thể của các em. Ngoài
ra hứng thú học tập, niềm tin và tình cảm của học sinh được nâng cao. Nội dung
học tập trở nên sinh động, gần gũi và thiết thực hơn đối với các em.
2. Ưu nhược điểm của các giải pháp mới:
2.1. Ưu điểm
Một số kĩ thuật được đề cập trong sáng kiến đã góp phần làm phong phú
thêm các hình thức dạy học tích cực trong môn Địa lí.
Tạo cho HS có thói quen chuẩn bị bài ở nhà và đào sâu kiến thức trong từng
lĩnh vực và phát huy hiểu biết của học sinh trong giải quyết vấn đề.
Phát triển tinh thần hợp tác làm việc theo nhóm và phát huy trách nhiệm
của từng cá nhân, khuyến khích động cơ học tập chủ động và tích cực hơn.
Hình thành cho học sinh những năng lực và phẩm chất cần thiết trong cuộc
sống như năng lực hợp tác, sáng tạo, linh hoạt trong giải quyết các tình huống xảy
ra trong thực tiễn tốt hơn. Giúp các em tự tin hơn, mạnh dạn hơn trong trình bày
trao đổi ý kiến của mình.
2.2. Nhược điểm.

22



Bên cạnh những ưu điểm thì khi tổ chức thực hiện các kĩ thuật dạy học này
cũng có những nhược điểm nhất định đó là trong kĩ thuật mảnh ghép, kết quả thảo
luận phụ thuộc vào vòng thảo luận thứ nhất, nếu vòng thảo luận này không có
chất lượng thì cả hoạt động sau sẽ không có hiệu quả. Hơn nữa nếu số lượng
thành viên không được tính toán kỹ sẽ dẫn đến tình trạng nhóm thừa, nhóm thiếu.
Do đặc thù của các kĩ thuật dạy học tích cực đó là HS là người được trực tiếp
tham gia vào quá trình hình thành kiến thức mới bằng các cách thức khác nhau nên
sẽ dễ làm mất thời gian và có thể gây ồn ào, lộn xộn, hơn nữa số lượng HS trong
một lớp quá đông cũng gây không ít khó khăn cho việc tổ chức dạy học bằng các kĩ
thuật tích cực, vì vậy cần phải có sự điều khiển khéo léo của giáo viên.
III. Khả năng áp dụng của sáng kiến.
Sáng kiến vận dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực nêu trên đã được tôi
thực hiện ở nhiều tiết học trong dạy Địa lí lớp 11 tại trường THPT Sốp Cộp. Với
việc cung cấp đầy đủ, chi tiết các cách tiến hành thực hiện đối với từng kĩ thuật cụ
thể, có thể giúp cho GV dạy địa lí nói riêng và cả GV thuộc các bộ môn khác nhau
ở các trường phổ thông trong cả nước đều có thế vận dụng linh hoạt và hiệu quả
vào giảng dạy bộ môn của mình, với yêu cầu GV phải thực sự tâm huyết và đầu tư,
chuẩn bị nhiều hơn cho mỗi bài dạy có như vậy hiệu quả và chất lượng giáo dục
mới có thể được nâng cao.

IV. Hiệu quả của sáng kiến.
1. Hiệu quả kinh tế
Tùy theo nội dung của bài dạy mà GV có thể áp dụng linh hoạt và có hiệu
quả đối với từng kĩ thuật dạy học nêu trên. Nếu bài học hoặc một nội dung của bài
nào phù hợp với một trong những kĩ thuật dạy học tích cực trong sáng kiến đã đưa
23


ra thì khi vận dụng GV cũng phải không mất nhiều chi phí đầu tư cho các phương

tiện dạy học mà cần thiết nhất là giáo viên phải nghiên cứu kĩ lưỡng từng nội dung
của mỗi bài dạy để sử dụng sao cho hiệu quả các bước thực hiện đối với mỗi
phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực.
2. Hiệu quả xã hội
Đối với giáo viên khi áp dụng sáng kiến có thêm nhiều kinh nghiệm trong tổ
chức các hoạt động dạy học cho học sinh bằng các phương pháp và kĩ thuật dạy học
tích cực góp phần đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học.
Đối với HS việc vận dụng kết hợp các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích
cực trong mỗi bài dạy Địa lí, bước đầu đã làm thay đổi nhận thức về cách học của
HS đối với môn Địa lí, HS trở nên sôi nổi hơn, hào hứng hơn, yêu thích sự tìm tòi
khám phá và hứng thú hơn với môn học. Với cách học này HS được chủ động tham
gia xây dựng kiến thức, phát huy được tính tích cực, tự giác, sáng tạo, ngoài ra còn
phát triển được nhiều các kĩ năng cần thiết trong thực tiễn của cuộc sống, giúp HS
tự tin hơn trong giao tiếp, trong trình bày và giải quyết vấn đề, phát triển được các
năng lực của bản thân.
* Kết quả thực nghiệm về mức độ hứng thú của HS đối với giờ học
Để kiểm tra cụ thể tôi đã tiến hành dạy thực nghiệm ở một số lớp bằng các
phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để so sánh với những lớp dạy bằng
phương pháp giảng giải, thuyết trình vấn đáp thường dạy trước đây. Tôi đã phát
phiếu điều tra ở hai lớp khác nhau, kết quả thu được như sau:
Lớp

Số HS

Rất hứng Hứng thú

Bình

Không


Thực

35

thú
17

13

thường
5

hứng thú
0

nghiệm

(100 %)

48,6%

37,1%

14,3%

0%

11b1
24



Đối chứng
11b2

40

8

10

19

3

(100%)
20%
25%
47,5%
7,5%
Như vậy có thể thấy việc áp dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích

cực trên đã góp phần làm thay đổi thái độ học tập của HS đối với môn Địa lí. Các
em đã hào hứng hơn với các tiết học Địa lí có sử dụng các phương pháp và kĩ thuật
dạy học tích cực, các em trở nên có ý thức hơn trong học tập. Tham gia tích cực
vào các hoạt động học tập và đó sẽ là tiền đề cho việc nâng cao chất lượng giáo
dục.
PHẦN KẾT LUẬN
1. Bài học kinh nghiệm
Trong quá trình áp dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực trong các bài Địa lí
11 từ đó có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau: Trước hết tôi nhận thấy

cho dù là phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực nhưng mỗi phương pháp đều có
những ưu điểm và nhược điểm nhất định. Không có phương pháp nào là vạn năng
và sử dụng được trong suốt quá trình dạy học.
Vì vậy để có thể áp dụng thành công các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích
cực thì mỗi GV phải có sự đầu tư, nghiên cứu kĩ lưỡng từng nội dung của bài học
và tùy vào đối tượng HS để có thể áp dụng sao cho phù hợp.
Đối với HS cần có sự chủ động, tích cực thực hiện các yêu cầu của GV khi
được phân công nhiệm vụ chuẩn bị ở nhà cũng như thực hiện nhiệm vụ trên lớp. Để
chất lượng giáo dục được nâng cao trước hết phải có sự thành công trong mỗi bài
học, mỗi tiết học, mỗi môn học…phải có sự phối hợp từ cả hai phía GV và HS.
2. Kiến nghị, đề xuất.
Thông qua quá trình áp dụng sáng kiến trong thực tiễn giảng dạy và với
những kết quả bước đầu đã đạt được như trên, tôi mạnh dạn đề xuất một số nội
dung như sau:

25


×