Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Những yếu tố ảnh hưởng đến thanh khoản của các ngân hàng thương mại việt nam và giải pháp cải thiện thanh khoản của các ngân hàng thương mại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

PHẠM HÙNG LINH

NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THANH KHOẢN CỦA
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ GIẢI
PHÁP CẢI THIỆN THANH KHOẢN CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Tp.Hồ Chí Minh – Năm 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

PHẠM HÙNG LINH

NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THANH KHOẢN CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP CẢI THIỆN
THANH KHOẢN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN PHƯƠNG THẢO



Tp.Hồ Chí Minh – Năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ: “Những yếu tố ảnh hưởng đến thanh
khoản của những Ngân hàng thương mại Việt Nam và giải pháp cải thiện
thanh khoản của các Ngân hàng thương mại Việt Nam” là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Những số liệu và tài liệu trong luận văn là trung thực và chưa
được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào. Tất cả những tham khảo và
kế thừa đều được trích dẫn và tham chiếu đầy đủ.

Tác giả

Phạm Hùng Linh


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH ẢNH
DANH MỤC BẢNG BIỂU .......................................................................................iv
DANH MỤC HÌNH ẢNH .......................................................................................... v
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI ........................................................................... 6
1.1.

Lý do chọn đề tài ...........................................................................................6


1.2.

Mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................8

1.3.

Câu hỏi nghiên cứu ........................................................................................8

1.4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................8

1.5.

Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................9

1.6.

Nội dung đề tài ...........................................................................................10

1.7. Tính mới của đề tài ......................................................................................11
CHƯƠNG 2. KHUNG LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ............. 12
2.1. Khung lý thuyết ...........................................................................................13
2.1.1. Sự hình thành của Thanh khoản và lý thuyết về sự mong manh ..........13
2.1.2. Đo lường thanh khoản ..........................................................................18
2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến tính thanh khoản ngân hàng ........................22
2.2.1. Đặc điểm ngân hàng ............................................................................22
2.2.2. Kinh tế vĩ mô ........................................................................................28
2.3. Lược khảo những nghiên cứu liên quan ......................................................30
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG THANH KHOẢN CỦA NHỮNG NHTM VÀ

NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÍNH THANH KHOẢN ......................... 44
3.1.

Thực trạng thanh khoản của các ngân hàng ...............................................44

3.2. Thực trạng ảnh hưởng của những yếu tố đến thanh khoản của ngân hàng 49
3.2.1. Vốn ngân hàng .....................................................................................49


3.2.2. Quy mô của ngân hàng ........................................................................50
3.2.3. Tốc độ tăng trưởng cho vay .................................................................51
3.2.4. Nợ xấu ...................................................................................................52
3.2.5. Lợi nhuận ..............................................................................................53
3.2.6. Chênh lệch lãi suất ................................................................................54
3.2.7. Tăng trưởng kinh tế .............................................................................55
3.2.8. Lạm phát ...............................................................................................56
3.2.9. Lãi suất cho vay ...................................................................................57
CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ NHỮNG YẾU TỐ
CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÍNH THANH KHOẢN CỦA NHTM VN .................. 60
4.1.

Mô hình nghiên cứu .....................................................................................60

4.2. Đo lường biến ..............................................................................................60
4.2.1. Biến phụ thuộc ......................................................................................60
4.2.2. Biến độc lập ..........................................................................................63
Nguồn: theo nghiên cứu của tác giả.......................................................................69
4.3.

Dữ liệu nghiên cứu ......................................................................................69


Nguồn: theo dữ liệu được thu thập bởi Stoxplus.com. ..........................................71
4.4.

Phương pháp ước lượng ..............................................................................71

4.5. Kết quả nghiên cứu ......................................................................................72
4.5.1. Thống kê miêu tả và ma trận tương quan .............................................72
4.5.2. Tổng hợp kết quả nghiên cứu ...............................................................83
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN ......................................................................................... 85
5.1.

Kết luận chính ..............................................................................................85

5.2.

Khuyến nghị ................................................................................................86

5.3.

Hạn chế đề tài ..............................................................................................89

5.4. Hướng phát triển đề tài ................................................................................90
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Tổng hợp kết quả nghiên cứu của những nghiên cứu trước đây ..............39
Bảng 4.1. Mô tả chi tiết và kỳ vọng về dấu giữa những biến độc lập với tính thanh

khoản .........................................................................................................................68
Bảng 4.2. Danh sách những NHTM được sử dụng trong luận văn...........................70
Bảng 4.3. Thống kê miêu tả ......................................................................................73
Bảng 4.4. Ma trận tương quan...................................................................................74
Bảng 4.5. Kết quả ước lượng những yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ tài sản thanh khoản
ở trên tổng tài sản ......................................................................................................74
Bảng 4.6. Kết quả ước lượng những yếu tố có ảnh hưởng đến tỷ lệ tài sản thanh
khoản trên tiền gửi và nguồn vốn ngắn hạn ..............................................................80
Bảng 4.7. Kết quả ước lượng những yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ dư nợ cho vay ở
trên tổng tài sản .........................................................................................................81
Bảng 4.8. Tổng hợp kết quả hồi quy .........................................................................83


DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 3.1. Diễn biến tài sản thanh khoản của những ngân hàng trong mẫu nghiên
cứu từ 2002 - 2017 ....................................................................................................45
Hình 3.2. Tình hình tỷ lệ tài sản thanh khoản ở trên tổng tài sản của những ngân
hàng trong mẫu nghiên cứu .......................................................................................46
Hình 3.3. Tình hình tỷ lệ tài sản thanh khoản trên tiền gửi và nguồn vốn ngắn hạn
của những ngân hàng trong mẫu nghiên cứu ...........................................................47
Hình 3.4. Tình hình tỷ lệ dư nợ cho vay ở trên tổng tài sản của những ngân hàng
trong mẫu nghiên cứu ................................................................................................49
Hình 3.5. Mối quan hệ giữa vốn ngân hàng và thanh khoản của những ngân hàng
trong mẫu nghiên cứu ................................................................................................50
Hình 3.6. Mối quan hệ giữa Quy mô của ngân hàng và thanh khoản của những
ngân hàng trong mẫu nghiên cứu .............................................................................51
Hình 3.7. Mối quan hệ giữa tăng trưởng cho vay và thanh khoản của những ngân
hàng trong mẫu nghiên cứu .......................................................................................52
Hình 3.8. Mối quan hệ giữa nợ xấu và thanh khoản của những ngân hàng trong
mẫu nghiên cứu .........................................................................................................53

Hình 3.9. Mối quan hệ giữa lợi nhuận và thanh khoản của những ngân hàng trong
mẫu nghiên cứu .........................................................................................................54
Hình 3.10. Mối quan hệ giữa chênh lệch lãi suất và thanh khoản của những ngân
hàng trong mẫu nghiên cứu .......................................................................................55
Hình 3.11. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thanh khoản của những ngân
hàng trong mẫu nghiên cứu .......................................................................................56
Hình 3.12. Mối quan hệ giữa lạm phát và thanh khoản của những ngân hàng trong
mẫu nghiên cứu .........................................................................................................57
Hình 3.13. Mối quan hệ giữa lãi suất cho vay và thanh khoản của những ngân hàng
trong mẫu nghiên cứu ................................................................................................58


6
CHƯƠNG 1.

1.1.

GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI

Lý do chọn đề tài
Ngân hàng được biết đến như là tổ chức kinh tế tài chính có chức năng trung

gian ở bên trong nền kinh tế thông qua việc điều chuyển vốn từ đơn vị kinh tế thặng
dư vốn đến những đơn vị kinh tế thiếu hụt vốn. Đặc biệt ở những quốc gia đang
phát triển giống như VN, vai trò của thị trường vốn là rất quan trọng và kết quả là
những ngân hàng thương mại (gọi tắt là NHTM) trở thành những tổ chức kinh tế
tài chính có ưu thế nhất trong hệ thống tài chính. Hơn thế nữa, để những ngân hàng
thực hiện tốt những nghĩa vụ của ngân hàng đối với những khách hàng gửi tiền tại
ngân hàng, thì những ngân hàng phải luôn duy trì trạng thái ổn định và đảm bảo
luôn thừa tài sản thanh khoản. Diamon và Dybvig (1983) đã chỉ ra rằng, một trong

những lý do quan trọng mà những ngân hàng có thể không trong tình trạng ổn định
là vì những ngân hàng thực hiện huy động và cho vay với những kỳ hạn không
khớp nhau. Cụ thể, những ngân hàng huy động những khoản ngắn hạn như lại cho
vay trung dài hạn vì những khoản cho vay trung dài hạn sẽ giúp ngân hàng đạt
được nhiều lợi nhuận hơn so với cho vay ngắn hạn. Tuy nhiên, khi những khoản
tiền gửi này đến hạn thì những ngân hàng sẽ phải đối diện với rủi ro thanh khoản
do những khoản tiền gửi này đang được chuyển sang cho vay trung và dài hạn.
Theo Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS) (2008), tính thanh khoản như là
khả năng mà ngân hàng vừa có thể tăng phần tài sản đồng thời đáp ứng những
nghĩa vụ nợ khi đến hạn mà không gây ra những tổn thất đáng kể. Đối với vấn đề
này, khi ngân hàng chuyển đổi những khoản tiền gửi ngắn hạn thành những khoản
cho vay dài hạn thì sẽ có sự không khớp kỳ hạn xảy ra, điều này sẽ gây ra vấn đề
thanh khoản đối với ngân hàng. Kết quả là, những ngân hàng cần phải nắm giữ
những tài sản thanh khoản ở mức tối ưu để duy trì hoạt động kinh doanh. Sự quản
trị hiệu quả thanh khoản là một điều quan trọng hàng đầu khi vấn đề liên quan thanh
khoản xảy ra ở một ngân hàng có thể gây ra hậu quả cho cả toàn ngành ngân hàng.


7
Mặt khác, việc duy trì lượng tài sản thanh khoản lớn sẽ ảnh hưởng đến lợi
nhuận của một ngân hàng, điều này càng làm gia tăng sự quan trọng của việc quản
trị thanh khoản và việc duy trì mức thanh khoản tối ưu là một nghệ thuật thật sự
trong việc quản trị ngân hàng. Trong ngành ngân hàng, việc duy trì mức thanh
khoản tối ưu có liên quan đáng kể với hiệu quả hoạt động của những ngân hàng.
Malik và Rafique (2013) cho rằng khi những ngân hàng không quản trị thanh khoản
một những phù hợp, thì có thể dẫn đến việc mất thanh khoản (trong trường hợp
thanh khoản thấp) hoặc lợi nhuận thấp (trong trường hợp thanh khoản cao) và có thể
phá hoại tài sản của cổ đông cũng như gây ra sự thất bại của những tổ chức tài
chính. Do đó, việc duy trì mức thanh khoản tối ưu đặc biệt quan trọng trong những
hoạt động của ngân hàng và đảm bảo hiệu quả. Greuning và Bratonovic (2004) đề

nghị rằng để quản trị thanh khoản của ngân hàng, những ngân hàng phải có những
chính sách quản trị thanh khoản tốt và phải có chiến lược quản trị tài sản có – tài
sản nợ tốt.
Do đó có thể thấy rằng việc xác định những yếu tố quyết định tính thanh
khoản của ngân hàng cũng như những giải pháp giúp nâng cao, cải thiện thanh
khoản cho ngân hàng là điều hết sức quan trọng trong việc kiểm soát thanh khoản
của ngân hàng. Hơn thế nữa, những nghiên cứu trước đây trong nước và ngoài đều
có sự quan tâm rõ rệt đến thanh khoản của ngân hàng chẳng hạn như Vodova
(2011, 2012, 2013), Tseganesh (2012), Rafique và Malik (2013) và Chagwiza
(2014) cũng nhưTrương Quang Thông (2013), Đặng Văn Dân (2015) và Nguyễn
Thị Mỹ Linh (2017). Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, có nhiều sự kiện sáp nhập
những ngân hàng cũng như những thương vụ mua lại ngân hàng với giá 0 đồng bởi
Ngân hàng nhà nước thì có thể thấy rằng sẽ có sự khác biệt trong những kết quả
nghiên cứu giữa những nhóm ngân hàng hiện tại so với mẫu nghiên cứu của những
ngân hàng của những nghiên cứu trước đây tại VN. Vì vậy, nội dung luận văn sẽ
phân tích các yếu tố ảnh hưởng thanh khoản của các NHTM VN cũng như đưa ra
các giải pháp cải thiện thanh khoản của các NHTM VN dựa trên các kết quả tìm
được.


8
1.2.

Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng đến thanh khoản

của các Ngân hàng thương mại Việt Nam và nêu ra giải pháp để cải thiện tính
thanh khoản của Ngân hàng thương mại Việt Nam. Cụ thể như sau:
-


Trong các yếu tố đặc điểm ngân hàng và các yếu tố kinh tế vĩ mô, yếu tố nào

ảnh hưởng đến thanh khoản của các Ngân hàng thương mại Việt Nam.
-

Dựa trên kết quả nghiên cứu để đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm cải

thiện tính thanh khoản của Ngân hàng thương mại Việt Nam.
1.3.

Câu hỏi nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, luận văn xác định những câu hỏi

nghiên cứu và đi tìm kiếm câu trả lời câu hỏi nghiên cứu để làm rõ mục tiêu
nghiên cứu mà luận văn đề ra, cụ thể:
-

Thanh khoản của các Ngân hàng thương mại Việt Nam như thế nào?

-

Những yếu tố đặc điểm ngân hàng có tác động đến thanh khoản của các

Ngân hàng thương mại Việt Nam không? Tác động đó là như thế nào?
-

Những yếu tố kinh tế vĩ mô có tác động đến thanh khoản của các Ngân hàng

thương mại Việt Nam không? Tác động đó là như thế nào?
-


Làm thế nào để cải thiện thanh khoản của các Ngân hàng thương mại Việt

Nam?
1.4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Để xem xét những yếu tố quyết định tính thanh khoản của các NHTM tại

VN, luận văn sử dụng dữ liệu của những NHTM đang hoạt động tại VN trong giai
đoạn 2002 – 2017 được thu thập bởi Stoxplus.com. Hơn thế nữa, trong luận văn
này, luận văn cũng thực hiện việc loại trừ những ngân hàng không có sẵn dữ liệu
trong 6 năm liên tiếp và những ngân hàng bị sáp nhập cũng như bị mua lại 0 đồng
bởi Ngân hàng nhà nước trong giai đoạn vừa qua. Do đó mẫu nghiên cứu cuối cùng
trong luận văn bao gồm 28 NHTM đang hoạt động tại VN trong giai đoạn 2002 –
2017.


9
Ngoài ra, luận văn cũng thu thập những biến đặc điểm kinh tế vĩ mô từ cơ
sở dữ liệu của Ngân hàng Thế Giới (WorldBank).
1.5.

Phương pháp nghiên cứu
Với mục đích phân tích những yếu tố quyết định tính thanh khoản của 28

NHTM tại VN trong giai đoạn 2002 – 2017, mô hình nghiên cứu trong luận văn
tương tự với phương pháp tiếp cận của những tác giả trước đây khi nghiên cứu đến
tính thanh khoản của ngân hàng chẳng hạn như Vodova (2011) và Rafique và Malik
(2013). Cụ thể, phương trình ước lượng được trình bày như sau:

𝑳𝒊𝒒𝒖𝒊𝒅𝒊𝒕 = 𝜷𝟎 + 𝜷𝟏 ∗ 𝑳𝒊𝒒𝒖𝒊𝒅𝒊𝒕−𝟏 + 𝜷𝟐 ∗ 𝑪𝒂𝒑𝒊𝒕 + 𝜷𝟑 ∗ 𝑺𝒊𝒛𝒆𝒊𝒕 + 𝜷𝟑 ∗
𝑳𝒐𝒂𝒏𝒔𝒈𝒓𝒊𝒕 + 𝜷𝟒 ∗ 𝑵𝒑𝒍𝒊𝒕 + 𝜷𝟓 ∗ 𝑹𝒐𝒂𝒊𝒕 + 𝜷𝟔 ∗ 𝑺𝒑𝒓𝒆𝒂𝒅𝒊𝒕 + 𝜸 ∗ 𝑴𝒂𝒄𝒓𝒐𝒕 + 𝜺𝒊𝒕
Trong đó, 𝑳𝒊𝒒𝒖𝒊𝒅𝒊𝒕 là tính thanh khoản của ngân hàng được đại diện bởi ba
đại diện được miêu tả trong phần 4.3.1. 𝑳𝒊𝒒𝒖𝒊𝒅𝒊𝒕−𝟏 là giá trị trễ của tính thanh
khoản thể hiện tính thanh khoản ở một năm trước; 𝑪𝒂𝒑𝒊𝒕 là vốn an toàn của ngân
hàng được tính bởi vốn chủ sở hữu ở trên tổng tài sản; 𝑺𝒊𝒛𝒆𝒊𝒕 là Quy mô của ngân
hàng được đo lường bởi logarithm tự nhiên của tổng tài sản; 𝑳𝒐𝒂𝒏𝒔𝒈𝒓𝒊𝒕 là tốc độ
tăng cho vay của ngân hàng được tính toán bởi tốc độ tăng trong dư nợ cho vay ở
năm t và năm t – 1; 𝑵𝒑𝒍𝒊𝒕 là nợ xấu của ngân hàng được đo lường bởi tỷ lệ nợ nhóm
3, nhóm 4 & nhóm 5 trên dư nợ cho vay; 𝑹𝒐𝒂𝒊𝒕 là lợi nhuận ngân hàng được tính
bởi LNST trên tổng tài sản; 𝑺𝒑𝒓𝒆𝒂𝒅𝒊𝒕 là chênh lệch lãi suất được tính bởi chênh
lệch giữa tỷ lệ thu nhập từ lãi vay trên cho vay khách hàng và chi phí từ huy động
trên tiền gửi khách hàng. 𝑴𝒂𝒄𝒓𝒐𝒕 là vector đại diện những biến kinh tế vĩ mô bao
gồm tăng trưởng kinh tế, lạm phát và lãi suất cho vay. 𝜺𝒊𝒕 là sai số của mô hình.
Luận văn sử dụng phương pháp ước lượng GMM để hồi quy phương trình
nghiên cứu do phương pháp này có thể khắc phục những giả định mà phương pháp
ước lượng OLS đặt ra khi ước lượng nhưng trong thực tế thì luôn tồn tại. Chẳng hạn
như hiện tượng đa cộng tuyến, hiện tượng tự tương quan, hiện tương phương sai
thay đổi và vấn đề gây ra sự chệch trong kết quả là vấn đề nội sinh tồn tại trong mô
hình nghiên cứu. Đồng thời theo Arellano và Bover (1995) thì phương pháp ước
lượng GMM có thể khắc phục vấn đề nội sinh, phương sai thay đổi và tự tương

(1)


10
quan và những hệ số hồi quy được ước lượng từ phương pháp này sẽ hiêu quả và
phù hợp hơn (Lee và những cộng sự, 2014).
1.6.


Nội dung đề tài
Luận văn bao gồm 5 chương:
Chương 1: Giới thiệu đề tài. Trong chương này luận văn trình bày lý do lựa

chọn đề tài, mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu đồng thời đưa ra phương
pháp nghiên cứu cũng như ý nghĩa mà đề tài mang lại
Chương 2: Khung lý thuyết và tổng quan nghiên cứu trước đây. Luận
văn giới thiệu khung lý thuyết về thanh khoản của ngân hàng bằng những trình bày
sự hình thành của thanh khoản cũng như những những đo lường rủi ro thanh khoản.
Sau đó luận văn đưa ra những yếu tố ảnh hưởng đến tính thanh khoản của những
ngân hàng bao gồm đặc điểm ngân hàng và yếu tố kinh tế vĩ mô. Cuối cùng, luận
văn tổng quan lại bằng chứng thực nghiệm trước đây khi xem xét tính thanh khoản
của những ngân hàng.
Chương 3: Thực trạng thanh khoản của những NHTM và những yếu tố
ảnh hưởng đến tính thanh khoản. Chương này thể hiện thực trạng tình hình thanh
khoản của những ngân hàng có trong mẫu nghiên cứu và nêu lên thực trạng mối
quan hệ giữa những yếu tố được xác định trong chương 2 và tính thanh khoản của
ngân hàng.
Chương 4: Mô hình nghiên cứu – kết quả nghiên cứu tính thanh khoản
của ngân hàng. Luận văntrình bày dữ liệu nghiên cứu cũng như mô hình nghiên
cứu mà luận văn áp dụng trong luận văn này. Sau đó luận văn đưa ra những những
đo lường những biến số có trong luận văn và phương pháp mà luận văn dùng để ước
lượng mô hình nghiên cứu. Tiếp tục luận văn đưa ra những kết quả nghiên cứu mà
luận văn có được từ việc ước lượng.
Chương 5: Kết luận. Trong chương này luận văn tổng quan những kết luận
chính mà luận văn có được từ đó đưa ra những khuyến nghị dành cho những nhà
quản trị ngân hàng cũng như những nhà hoạch định chính sách khi cần cải thiện


11

thanh khoản của những ngân hàng. Đồng thời luận văn cũng đưaa ra hạn chế đề tài
và hướng phát triển đề tài sau này.
1.7.

Tính mới của đề tài
Đề tài nghiên cứu về thanh khoản của các Ngân hàng thương mại đã được

nhiều tác giả khác nghiên cứu trước đây. Trong phạm vi nghiên cứu của mình, về
mặt lý luận, tác giả tổng quan hóa lại lý thuyết cũng như những bằng chứng thực
nghiệm về những nghiên cứu xem xét tính thanh khoản của ngân hàng. Qua đó,
luận văn đóng góp vào kho tàng tài liệu nghiên cứu trước đây tại Việt Nam khi phân
tích thanh khoản của ngân hàng. Bên cạnh đó, về mặt thực tiễn, luận văn cung cấp
những bằng chứng thực nghiệm khi xem xét những yếu tố quyết định đến tính thanh
khoản của những ngân hàng. Từ đó có cơ sở để đưa ra những giải pháp giúp những
nhà quản trị ngân hàng cũng như Chính phủ cải thiện thanh khoản của những ngân
hàng. Tính mới của đề tài được thể hiện ở những điểm cụ thể như sau:
-

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là dữ liệu của những NHTM đang hoạt
động tại VN trong giai đoạn 2002 – 2017 được thu thập bởi Stoxplus.com.
Hơn thế nữa, trong luận văn này, luận văn cũng thực hiện việc loại trừ những
ngân hàng không có sẵn dữ liệu trong 6 năm liên tiếp và những ngân hàng
bị sáp nhập cũng như bị mua lại 0 đồng bởi Ngân hàng nhà nước trong giai
đoạn vừa qua. Do đó mẫu nghiên cứu cuối cùng trong luận văn bao gồm 28
NHTM đang hoạt động tại VN trong giai đoạn 2002 – 2017.

-

Luận văn đã sử dụng cả ba tỷ lệ thanh khoản để đại diện cho thanh khoản của
ngân hàng nhằm tạo tính thuyết phục cho kết quả nghiên cứu hồi quy.



12
CHƯƠNG 2.

KHUNG LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

Thanh khoản được xác định như là khả năng một tổ chức kinh tế tài chính
đối diện với tất cả những nhu cầu về nguồn vốn một những chính đáng (Yeager và
Seitz, 1989). Hơn thế nữa, theo Ủy Ban Basel về giám sát ngân hàng (2008) định
nghĩa tính thanh khoản như là khả năng mà ngân hàng vừa có thể gia tăng tài sản
vừa có thể đáp ứng những nghĩa vụ nợ khi đến hạn mà không gây ra những tổn thất
đáng kể.
Do đó, ngân hàng cần nắm giữ những tài sản có tính thanh khoản để đáp ứng
những nhu cầu tiền mặt của những khách hàng nếu ngân hàng không đủ vốn để đáp
ứng nhu cầu của những khách hàng, và sau đó ngân hàng bắt buộc phải vay mượn
trên thị trường liên ngân hàng hoặc ngân hàng trung ương.
Theo Alger và những cộng sự (1999), tài sản được xem như là tài sản thanh
khoản nếu nó có thể được bán một những nhanh nhất mà không tồn tại bất kỳ sự
thiệt hại đáng kể nào nhưng việc xác định tính thanh khoản của một tài sản vẫn còn
là vấn đề đang được nhiều nhà nghiên cứu tranh cãi trong thời gian qua. Theo
những tài liệu về quản trị ngân hàng, một tài sản được xem như là tài sản thanh
khoản khi mức độ rủi ro của tài sản này là tương đối thấp so với những tài sản khác
(chẳng hạn như nợ của chính phủ) và nếu kỳ hạn của tài sản này là ngắn hạn thì giá
của tài sản sẽ ít nhạy cảm hơn với sự biến động của lãi suất (Garber và Weisbrod,
1992; Hempel và những cộng sự, 1994). Với định nghĩa này, tài sản thanh khoản
của ngân hàng VN sẽ bao gồm tiền mặt, tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước, tín
phiếu Ngân hàng nhà nước, tín phiếu Chính phủ, Tín phiếu kho bạc, chứng khoán
kinh doanh và những khoản vay liên ngân hàng với kỳ hạn rất ngắn (từ 1 đến 3
ngày).

Bordo và những cộng sự (2001) cho rằng yếu tố tâm lý là một trong những
yếu tố ảnh hưởng đáng kể nhất đến hành vi của khách hàng gửi tiền tại ngân hàng.
Đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế tài chính diễn ra, yếu tố tâm lý chính là
yếu tố quyết định việc rút tiền của những khách hàng. Hơn thế nữa, Bordo và những


13
cộng sự (2001) cũng khẳng định rằng khủng hoảng kinh tế tài chính là một phần nội
tại của chu kỳ kinh doanh và là kết quả từ những cú sốc kinh tế căn bản. Khi nền
kinh tế vào thời kỳ suy thoái, tỷ suất sinh lợi của tài sản sẽ được kỳ vọng là sụt giảm
và khi đó người đi vay sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc thanh toán những
khoản vay. Điều này sẽ làm cho người gửi tiền sẽ cố gắng bảo vệ phần tài sản của
mình bằng những rút những khoản tiền gửi ra khỏi ngân hàng. Những ngân hàng
lúc này sẽ phải đối mặt với vấn đề thiếu hụt thanh khoản do một phần người đi vay
không thể hoàn trả những khoản vay nợ và người gửi tiền lại rút những khoản tiền
gửi ra khỏi ngân hàng, nếu tình trạng này tiếp diễn thì ngân hàng sẽ phải đối mặt
với việc phá sản.
Theo những nghiên cứu trước đây, tồn tại nhiều tài liệu nghiên cứu xem xét
vấn đề thanh khoản của ngân hàng (Bryant, 1980; Diamond và Dybvig, 1983;
Holmstrom và Tirole, 2010; Kashyap và những cộng sự, 2002), tuy nhiên, đa số
những nghiên cứu chỉ tập trung vào việc đo lường tính thanh khoản của ngành ngân
hàng (Deep và Schaefer, 2004; Berger và Bouwman, 2008), rất ít nghiên cứu tiếp
cận xác định những yếu tố nào ảnh hưởng đến tính thanh khoản của ngân hàng. Do
đó, trong chương này luận văn sẽ tập trung tổng quan những lý thuyết và bằng
chứng thực nghiệm có liên quan đến tính thanh khoản của các ngân hàng và những
yếu tố xác định tính thanh khoản của ngân hàng.
2.1.

Khung lý thuyết


2.1.1. Sự hình thành của Thanh khoản và lý thuyết về sự mong manh
Những ngân hàng thực hiện nhiều hoạt động có giá trị trên cả hai phương
diện của bảng cân đối kế toán; ở phương diện tài sản (assets), ngân hàng tạo ra
những khoản cho vay đem tới người đi vay bị thiếu thanh khoản hoặc đang gặp khó
khăn về mặt tài chính (gọi chung là những đối tượng có nhu cầu vay vốn), từ đó cải
thiện dòng chảy tín dụng trong nền kinh tế. Ở phương diện nợ (liability), ngân hàng
cung cấp thanh khoản theo nhu cầu từ người gửi tiền (depositor). Theo Diamond và
Rajan (1998) thì người gửi tiền có cơ hội tiếp cận nguồn vốn của họ tốt hơn nếu họ
đầu tư trực tiếp và nhận về cùng một tỷ lệ lợi nhuận kỳ vọng: thanh khoản của ngân


14
hàng được hình thành vào lúc này. Những công ty đi vay cũng có thể nhìn nhận
ngân hàng như đối tượng có nguồn cung vốn đáng tin cậy hơn so với những công
ty hoặc những cá nhân nhỏ lẻ khác: ngân hàng đảm bảo cho người vay tránh được
rủi ro thanh khoản khi vốn có thể bị cắt trước hạn (cut off prematurely).
Hơn thế nữa, Diamond và Dybvig (1983) đã nêu ra rằng những ngân hàng
có thể chuyển đổi tài sản thanh khoản kém trở thành những món tiền gửi có tính
thanh khoản cao. Thông qua chức năng là nhà cung cấp thanh khoản, những ngân
hàng tạo ra thanh khoản khi họ giữ những tài sản thanh khoản kém và cung cấp tiền
và tài khoản tiền gửi cho phần còn lại của nền kinh tế. Hơn thế nữa, những tác giả
cũng nhấn mạnh “sự ưu tiên của thanh khoản” dưới sự bất ổn của những cơ quan
kinh tế khác nhằm minh chứng (justify) cho sự tồn tại của ngân hàng: Ngân hàng
tồn tại vì họ cung cấp sự bảo đảm cho thanh khoản so với những đối tượng khác
trong thị trường tài chính; tuy nhiên, khi ngân hàng là nơi bảo đảm thanh khoản thì
những ngân hàng phải đối mặt với rủi ro giao dịch và có thể bộc lộ nguy cơ rủi ro
khi điều hành tài khoản huy động. Ngoài ra,sự tạo ra thanh khoản càng nhiều cho xã
hội, thì rủi ro của ngân hàng càng cao khi ngân hàng phải đối mặt với những tổn
thất từ việc buộc phải thanh lý những tài sản thanh khoản kém để đáp ứng các nhu
cầu thanh khoản (trả tiền) cho khách hàng. Tầm quan trọng thực tế của tính thanh

khoản trong những cuộc khủng hoảng càng trở nên cấp thiết dựa trên các lý thuyết
về trung gian tài chính mà trong đó chỉ ra rằng sự hình thành của thanh khoản là lý
do quan trọng cho sự tồn tại của ngân hàng.
Những đóng góp đầu tiên từ Bryan (1980), Diamond và Dybvig (1983) cho
rằng những ngân hàng tạo ra thanh khoản từ việc phân bổ vốn từ những tài sản
thanh khoản thấp (như những khoản nợ kinh doanh) sang những khoản nợ thanh
khoản cao (như những tài khoản thanh toán – transaction deposits). Trong khi
những đóng góp gần đây của Holmstrom và Tirole (2010), Kashyap và cộng sự
(2002) đều cho rằng những ngân hàng tạo ra thanh khoản (dựa trên những tài sản)
không thuộc vào bảng CĐKT (balance sheet) thông qua những khoản nợ có đảm
bảo và những khoản nợ có quyền đòi tương tự nhằm tạo ra thanh khoản.


15
Có thể thấy rằng những tổ chức kinh tế tài chính bao gồm ngân hàng và
những tổ chức tín dụng (gọi tắt là TCTD) khác có vai trò rất quan trọng ở trong quá
trình vận hành của nền kinh tế, cũng như trong việc cung cấp nguồn thanh khoản
của những ngân hàng. Để kiểm tra điều này những nghiên cứu trước đâyđược tiến
hành bởi nhiều nhà nghiên cứu, trong đó mô hình nghiên cứu đầu tiên được thực
hiện bởi Bryant (1980), Diamond và Dybvig (1983). Những nhà nghiên cứu đã chỉ
ra rằng đầu tư vào những khoản nợ thiếu thanh khoản và phân phối chúng thành
những tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, ngân hàng có thể được xem như “nhà cung
cấp thanh khoản” (pools of liquidity) nhằm đem đến cho dân cư sự bảo đảm trước
những cú sốc mang tính đặc trưng của việc tiêu xài. Tuy nhiên, cấu trúc này cũng là
nguồn dẫn của sự yếu ớt tiềm tàng (potential fragility) của ngân hàng bởi trong
trường hợp có sự đột biến tăng nhanh về số lượng người gửi tiền quyết định đi rút
hết nguồn tiền của họ vì nhiều lý do khác nhau thay vì là do nhu cầu phát sinh thanh
khoản, thì sẽ kéo theo việc “đổ xô rút tiền” trên toàn hệ thống ngân hàng (bank
run).
Những mô hình của Bryant-Diamond/Dybvig trở thành động lực cho một

lượng lớn những nghiên cứu về sau, nhằm mở rộng hoặc kiểm tra cho mô hình này.
Từ đó, nghiên cứu liên quan đến vần đề này là các bài nghiên cứu của Calomiris và
Kahn (1991), Qi (1998), và Diamond và Rajan (2001) mà trong đó những nghiên
cứu đều triển khai và nhấn mạnh ý tưởng rằng những khoản tiền gửi không kỳ hạn
sẽ là những gợi ý thúc đẩy đáng lưu ý trong việc đưa quản trị ngân hàng vào nề nếp
kỷ luật.
Có thể giải thích điều này như là: trên mục Tài sản của các ngân hàng sẽ có
những khoản vay thanh khoản thấp mà giá trị thị trường thường thấp hơn so với giá
trị thực của chính những khoản ấy nếu có phát sinh thanh lý. Việc cần phải bán hoặc
trả nợ trước hạn những khoản nợ này sẽ dẫn đến khoản lỗ; trong khi phần quan
trọng của những hoạt động mà ngân hàng thực hiện và cần thực hiện khi giám sát
những khoản vay nợ, mà bao gồm sự liên quan tích cực trong việc quản lý những
doanh gnhiệp đi vay, lại không thực sự được chú ý bởi người ngoài (outsiders).


16
Nhưng ít ra một phần chắc chắn trong tổng nợ của ngân hàng chính là những khoản
tiền gửi không kỳ hạn mà theo định nghĩa hay theo quy định pháp luật là đều phải
được hoàn trả khi được yêu cầu và trên cơ sở ai đến trước nhận trước (first come
first serve). Nguyên tắc phân phối này khiến người gửi tiền thận trọng xem liệu họ
có thể bị chậm trễ hay ở đứng ở khoảng những quá xa trong danh sách chờ đợi
trong trường hợp ngân hàng gặp phải những vấn đề hay không (về thanh khoản) và
nó khiến họ thậm chí nhận ra rằng lượng thông tin mà họ nắm giữ về những hoạt
động quản trị của ngân hàng thật sự ít ỏi đến thế nào. Điều này có thể dẫn đến hiện
tượng “đổ xô rút tiền toàn hệ thống ngân hàng” (bank run), và sự nguy hiểm của
điều này nằm ở chỗ nó thúc đẩy những ngân hàng làm theo điều mà người gửi tiền
mong muốn, đó là trở thành những người giám sát được phân quyền, trên tinh thần
của nhà nghiên cứu Diamond (1984). Dựa trên lý lẽ này, Diamon và Rajan (2001)
đã nêu ra câu hỏi liệu rằng sự yếu ớt về tài chính (financial fragility) có là trạng thái
đáng mong ước cho những ngân hàng hay không. Họ lập luận rằng sự tồn tại của

việc mong manh/yếu ớt (fragility) đẩy ngân hàng đến những thúc đẩy cần thiết để
tạo ra thanh khoản. Theo họ, bất kỳ là điều luật nào, ví dụ như những chuẩn mực về
vốn, đều làm suy yếu sự hình thành thanh khoản và vị vậy, cần phải được giảm
tránh.
Kashyap và cộng sự (2002) đã thực hiện một nghiên cứu liên quan nhằm
minh chứng cho sự tồn tại của việc hình thành thanh khoản của ngân hàng. Họ cho
rằng bởi vì những ngân hàng thực hiện đồng thời cho vay và huy động, sự đồng bộ
buộc phải có giữa hai hành động trên. Sự đồng bộ này có thể nhận thấy thông qua
những mà những tài khoản tiền gửi và cam kết cho vay được bảo đảm bằng những
nắm giữ những tài sản thanh khoản cao như khoản thế chấp cho việc rút tiền gửi
(withdrawal). Họ xem những tài sản này chi phí hoạt động. Những chi phí này có
thể chia ra dựa trên hai chức năng tách biệt.
Diamond và Rajan (2005) cung cấp nghiên cứu chi tiết về mối liên kế giữa
thiếu hụt thanh khoản với khủng hoảng hệ thống ngân hàng. Và nó được lập luận
rằng sự sụp đổ (hay phá sản) của một ngân hàng có thể nhấn chìm nguồn thanh


17
khoản sẵn có đến mực mà những ngân hàng khác cũng bị ảnh hưởng theo, vì vậy
gây ra hiệu ứng dây chuyền (contagion effect). Tuy nhiên, bởi vì khả năng trả nợ và
ảnh hưởng của thanh khoản ảnh hưởng lân nhau, khó để xác định được gốc lõi của
khủng hoảng kinh tế tài chính.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về tính thanh khoản đã được đưa ra trong
những nguồn cơ sở lý thuyết (chẳng hạn như Jenkinson, 2008; Diamond và Rajan,
2001; Chaplin và những cộng sự, 2000). Theo đó, việc phân tích lý thuyết cho thấy
rủi ro thanh khoản là một rủi ro mà một ngân hàng không thể đáp ứng được những
nghĩa vụ của nó (Jenkinson, 2008) khi người gửi tiền họ có nhu cầu rút vốn của họ
ở một thời điểm không thuận tiện (inconvenient time), gây nên việc bán tháo tài sản
(fire sale of assets) (Diamond và Rajan, 2001). Đồng thời theo người điều
phối/kiểm soát (comptroller) tiền tệ tại Mỹ, định nghĩa rủi ro thanh khoản là một rủi

ro phát sinh từ việc Ngân hàng mất khả năng đáp ứng nghĩa vụ khi chúng tới hạn
mà không gây ra những khoản lỗ không chấp nhận được (Comptroller’s Hand
book,2001). Theo định nghĩa của hội đồng Basel về việc giám sát hoạt động ngân
hàng (1997), rủi ro thanh khoản phát sinh từ việc ngân hàng mất khả năng trong
vấn đề điều tiết hài hòa những hao hụt trong tổng nợ hoặc sự gia tăng nguồn vốn
trong phần tài sản.
Vì vậy trong những thuật ngữ đơn giản hơn, thanh khoản có thể định nghĩa
như rủi ro của việc không thể chấm dứt một trạng thái kịp thời tại mức giá hợp lý
(Muranaga và Ohsawa, 2002). Nhìn chung, rủi ro thanh khoản sinh ra từ vai trò cơ
bản của những ngân hàng trong quá trình chuyển dịch kỳ hạn từ những tài khoản
tiền gửi ngắn hạn sang dài hạn. Theo Ủy ban Basel về Giám sát hoạt động của ngân
hàng (2008), nó bao gồm hai loại rủi ro: rủi ro thanh khoản về nguồn vốn và rủi ro
thanh khoản về thị trường.
Rủi ro thanh khoản về nguồn vốn là khi ngân hàng không thể đáp ứng một
những hiệu quả cả dòng tiền dự kiến và không thể dự kiến trong hiện tại và tương
lại, cũng như những nhu cầu tài sản thế chấp mà không gây ảnh hưởng đến hoạt
động thường nhật hay tình hình tài chính công ty trong khi rủi ro thanh khoản thị


18
trường là khi một ngân hàng không thể dễ dàng đền bù hoặc chấm dứt một trạng
thái (position) tại giá trị thị trường.
Dựa theo Crockett (2008), khía cạnh của thanh khoản thị trường bao gồm
chiều sâu của thị trường (khả năng thực hiện những giao dịch lớn mà không ảnh
hưởng quá mức đến giá cả); sự thắt chặt – tightness (khoảng những giữa giá chào
bán và chào mua); tính trung gian (tốc độ xử lý giao dịch); và độ đàn hồi
(resilience) (là tốc độ mà giá cơ sở - underlying prices – có thể phục hồi sau khi bị
xáo trộn).
Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính cuối năm 2007 và đầu 2008 làm bật lên
vấn đề quan trọng cốt lõi của thanh khoản đối với sự vận hành của thị trường và

ngành ngân hàng, cũng như những liên kết giữa rủi ro thanh khoản nguồn vốn và
rủi ro thanh khoản thị trường, mối tương quan lẫn nhau giữa rủi ro thanh khoản
nguồn vốn với rủi ro tín dụng, ảnh hưởng về mặt thương hiệu/danh tiếng lên thanh
khoản, và những mối liên hệ khác giữa thanh khoản và những mặt khác nhau của
ngành ngân hàng. Vì vậy, rủi ro thanh khoản không phải là “rủi ro tách biệt” như
của rủi ro tín dụng hay rủi ro thị trường; mặc dù rủi ro tín dụng thường phát sinh khi
có thiếu hụt thanh khoản lúc những khoản trả lại được lên lịch từ trước đến hạn
thanh toán nhưng nó là “rủi ro mang tính hậu quả” (consequential risk), với những
đặc tính nội tại riêng biệt của nó mà có thể bị gây ra hoặc làm trầm trọng hơn bởi
rủi ro hoạt động và những rủi ro tài chính khác trong quá trình hoạt động của các
ngân hàng (Chen và cộng sự, 2005).
2.1.2. Đo lường thanh khoản
Như đã biết thì những định chế tài chính có thể tận dụng một lượng lớn
nguồn vốn để đáp ứng các nhu cầu thanh khoản, vì dụ chấp nhận những khoản tiền
gửi mới, thanh lý tài sải, mượn nợ và/hoặc sử dụng những khoản vay tiền từ Ngân
hàng Nhà nước. Từ nguồn tiếp ân đó, đo lường và quản trị thanh khoản là hoạt động
cần thiết cho hầu hết những ngân hàng thương mại. Trước khi xem xét những
phương thức đo lường rủi ro thanh khoản, cần phải giới thiệu về những khả năng
phát sinh rủi ro thanh khoản và những những khả dĩ để vượt qua nó.


19
Có ba khả năng dẫn đến thanh khoản: đầu tiên là trên mục Tổng nợ của bảng
CĐKT, có một sự bất ổn khá lớn về khối lượng rút tiền từ tài khoản tiền gửi hoặc
việc đảo nợ trên những khoản vay liên ngân hàng, đặc biệt khi một ngân hàng
đang thuộc diện nghi ngờ về khả năng không thể thanh toán nợ (insolvency) hoặc
khi có sự thiếu hụt lớn về thanh khoản. Thứ hai là trên khoản mục Tài sản của Bảng
cân đối kế toán, cũng có sự thiếu chắc chắn đối khi khối lượng yêu cầu cho vay
mới mà một ngân hàng sẽ nhận trong tương lai gia tăng, và thứ ba là những hoạt
động ở bên ngoài bảng CĐKT, như những khoản mục tín dụng và những cam kết

vay khác, những trạng thái thực hiện bởi ngân hàng trên thị trường phái sinh
(Rochet, 2008).
Hơn thế nữa, bởi vì thanh khoản là một hiện tượng nghiêm trọng của những
ngân hàng, do đó có một số phương pháp để giải quyết vấn đề này. Cụ thể, có ba
những mà những ngân hàng có thể sử dụng để đảm bảo an toàn cho các ngân hàng
trước khi những khủng hoảng về thanh khoản xảy ra: đầu tiên, ngân hàng cần có
“tấm đệm – buffer” đối với tài sản thanh khoản cao (trên mục Tài sản); một “tấm
đệm” lớn về tài sản như tiền mặt, những khoản cân đối với ngân hàng trung ương
và những ngân hàng khác, chứng khoán nợ phát hành bởi nhà nước và những
chứng khoán tương tự hoặc những “Giao dịch mua giấy tờ có giá có cam kết bán
lại” (Reverse Repo) sẽ làm giảm thiểu khả năng khi mà nhu cầu thanh khoản có thể
đe dọa đến khả năng trụ vững của ngân hàng (viability). Chiến lược thứ hai có liên
quan đến mục Tổng nợ ở trên bảng CĐKT. Những ngân hàng có thể dựa vào thị
trường liên ngân hàng nơi mà họ mượn tiền từ những ngân hàng khác trong trường
hợp có nhu cầu về thanh khoản; tuy nhiên chiến lược này là liên hệ trực tiếp đến rủi
ro thanh khoản thị trường. Chiến lược cuối cùng cũng liên quan đến phần Tổng nợ.
Ngân hàng trung ương thường hành động như “người cho vay cuối cùng” (lender
of last resort/LOLR) nhằm cũng cấp sự hỗ trợ cấp bách về thanh khoản cho những
tổ chức đặc biệt thiếu thanh khoản, và hỗ trợ tổng thể thanh khoản trong trường hợp
có sự thiếu hụt trên toàn hệ thống (Aspach và cộng sự, 2005).


20
Quá trình đo lường thanh khoản của những ngân hàng cần tương xứng với
quy mô, sự phức tạp, và hồ sơ rủi ro về thanh khoản của chính ngân hàng đó.
Giống với những giới hạn và mục tiêu của chính sách một ngân hàng, sự đo lường
thanh khoản cần toàn diện và hướng đến tương lại. Để toàn diện, việc đo lường cần
kết hợp tất cả những dòng tiền và sự liên quan thanh khoản từ tất cả những tài sản,
tổng nợ, những trạng thái không thuộc bảng CĐKT, và những hoạt động khác, bao
gồm những hợp đồng quyền chọn ở trên cả hai cột Tài sản và Tổng nợ của TCTD.

Vì vậy, những phương thức đo lường trạng thái về thanh khoản của những
ngân hàng để hỗ trợ định vị rủi ro thanh khoản thực sự của họ và giúp thi hành
những chiến lược quản trị rủi ro thanh khoản thích hợp nhằm giúp các ngân hàng
hoạt động hiệu quả và có lời. Việc đo lường rủi ro thanh khoản giúp hiển thị được
trạng thái thanh khoản về mặt con số và hình dạng. Như đã được nêu ra trong những
cơ sở lý thuyết khác, có rất nhiều những để đo lường rủi ro thanh khoản.
Có hai phương pháp truyền thống cơ bản nhằm đo lường thanh khoản, đó là:
phương pháp tiếp cận chênh lệch/dòng chảy thanh khoản, và phương pháp tiếp cận
chỉ số thanh khoản. Phương pháp đầu được diễn đạt là sự khác nhau giữa Tài sản và
Tổng nợ ở cả thời điểm hiện tại và trong tương lai. Tại bất cứ ngày nào, chênh lệch
tích cực (positive gap) giữa Tài sản và Tổng nợ là tương đượng với thâm hụt đã
được bù đắp. Phương pháp này tập trung vào so sánh độ biến thiên dòng tiền ra và
vào nhằm xác định số lượng dự trữ cần thiết trong suốt khoảng thời gian đó.
Phương pháp tiếp cận thứ hai đó là những chỉ số thanh khoản mà tập trung
vào tài khoản Tài sản và Tổng nợ trên bảng CĐKT mà áp dụng những chỉ số nhằm
định dạng được xu hướng thanh khoản. Những chỉ số này thể hiện được sự thật rằng
ngân hàng cần phải đảm bảo những nguồn vốn phù hợp, chi phí thấp luôn sẵn có
trong ngắn hạn. Điều này có thể liên quan việc nắm giữ danh mục về đầu tư tài sản
mà có thể dễ dàng bán ra (dự trữ tiền mặt, dự trữ bắt buộc tối thiểu, hoặc chứng
khoán nợ nhà nước), việc nắm giữ số lượng những tài khoản tiền gửi từ tổ chức
kinh tế và dân cư đủ lớn hoặc duy trì dòng tín dụng với những tổ chức kinh tế tài
chính khác (Moore và Bassis, 2009).


21
Tuy nhiên, cả hai cách tiếp cận đối với việc đo lường thanh khoản đều có
những hạn chế của nó. Vì vậy, hạn chế cơ bản của phương pháp tiếp cận chênh
lệch/dòng chảy thanh khoản đó là có quá nhiều dữ liệu chuyên sâu và không có một
kỹ thuật tiêu chuẩn để dự đoán dòng tiền vào và ra. Trong khi phương pháp chỉ số
thanh khoản thì ngay cả khi có khả thi trong việc tính toán chúng mặc dù dựa trên

duy nhất những dữ liệu công cộng sẵn có từ bảng CĐKT của ngân hàng và có thể
dễ dàng diễn giải những giá trị của chúng, bất lợi của chỉ số này trên thực tế là
chúng không phải luôn bắt trọn đầy đủ tất cả, hoặc một phần rủi ro về thanh khoản
(Vodová, 2013).
Đo lường tính thanh khoản cũng có thể là một chiều hoặc đa chiều. Đo lường
rủi ro một chiều chỉ quan tâm đến 1 biến số, trong khi đo lường đa chiều bao quát
nhiều biến số khác. Hơn nữa, những phương pháp đo lường có thể chia nhỏ hơn nữa
dựa trên: liên hệ về thời gian, liên hệ về số lượng, và mô hình dựa trên đó; cũng có
những những khác để đo lường rủi ro thanh khoản, ví dụ như Báo cáo thanh khoản
ròng, trong những thức này ngân hàng có thể tiếp cận trạng thái thanh khoản của họ
bằng những liệt kê những nguồn tài nguyên và việc sử dụng thanh khoản. Chỉ số
thanh khoản đo lường những khoản lỗ tiền ẩn mà TCTD có thể gặp phải khi có việc
bất ngờ hoặc thanh lý tài sản gấp gáp khi so sánh với số lượng mà nó có thể nhận
trong tình hình kinh tế bình thường khi việc thanh lý có thể diễn ra trong tình trạng
không vội vã (Vonwyss, 2004).
Quan trọng hơn, Ủy ban Basel về Giám sát hoạt động ngân hàng đề xuất
dùng khoảng lệch huy động vốn (financing gap) của ngân hàng để đánh giá rủi ro
thanh khoản. khoảng lệch huy động vốn là sự khác biệt giữa trung bình khoản nợ và
trung bình tài khoản tiền gửi của một ngân hàng chia cho tổng Tài sản của ngân
hàng đó. Khoảng lệch càng lớn, ngân hàng đó càng phải vay mượn nhiều hơn nữa ở
trên thị trường tiền tệ và vấn đề thanh khoản càng trầm trọng trong tương lai, do sự
gia tăng rút tiền gửi và/hoặc sự gia tăng thực hiện cam kết vay vốn (loan
commitment) (Ủy ban Basel về Giám sát hoạt động ngân hàng, 2000). Những nhà
nghiên cứu (ví dụ như Rafique và Malik, 2013; Vodova, 2011) đã sử dụng khoảng


22
lệch huy động vốn nhằm đánh giá thanh khoản trong nghiên cứu của họ. Vì vậy,
nhằm phục vụ cho bài luận này khoảng lệch huy động vốn đã được sử dụng để đo
lường tính thanh khoản của những NHTM của Ethiopia.

2.2.

Những yếu tố ảnh hưởng đến tính thanh khoản ngân hàng

2.2.1. Đặc điểm ngân hàng
2.2.1.1.

Vốn an toàn

Vốn là một trong những nhân tố đặc trưng của ngân hàng về thanh khoản và
có thể được định nghĩa như là cổ phiếu thông thường cộng với thặng dư (surplus) cổ
phiếu cộng với lợi nhuận sau thuế chưa phân phối cộng với dự phòng cho những
trường hợp bất ngờ và những khoản dự phòng vốn khác; ngoài ra những khoản dự
phòng tổn thất cho vay của một ngân hàng cũng phục vụ như một vùng đệm để hấp
thụ những khoản lỗ, một định nghĩa rộng hơn của vốn ngân hàng bao gồm tài
khoản này (Patheja ,1994). Vốn của những ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng
trong việc duy trì sự an toàn và tính gắn kết trong những ngân hàng và sự bảo đảm
tính an toàn cho toàn hệ thống ngân hàng nói chung khi nó tiêu biểu cho cánh cửa
vùng đệm mà ngăn ngừa những thất thoát không dự trù được mà những ngân hàng
có phải gặp phải, điều mà có thể ảnh hưởng tới nguồn quỹ của người gửi tiền trong
bối cảnh ngân hàng hoạt động trong môi trường cực kỳ không ổn định có thể dẫn
đến việc gặp phải nhiều rủi ro và tổn thất (Moh’d và Fakhris 2013).
Trái ngược với quan điểm tiêu chuẩn về sự hình thành thanh khoản khi mà
ngân hàng tạo ra thanh khoản từ việc chuyển đổi những khoản nợ thanh khoản cao
sang cho những tài sản thanh khoản kém, trong những học thuyết gần đây chỉ ra
rằng những ngân hàng có thể tạo ra nhiều hơn hoặc ít hơn thanh khoản đơn giản
bằng những chuyển đổi những nguồn vốn mà ngân

hàng đang huy động được


(Diamond và Rajan, 2000; Gorton và Winton, 2000). Thakor (1996) cho rằng nguồn
vốn cũng có thể ảnh hưởng sự cấu thành của danh mục đầu tư về tài sản của những
ngân hàng, từ đó ảnh hưởng sự hình thành thanh khoản thông qua việc thay đổi sự
phối hợp đầu tư (asset mix).


23
Trong những cơ sở lý thuyết gần đây, có hai những nhìn trái chiều nhau mà
liên quan đến mối quan hệ giữa nguồn vốn ngân hàng và sự hình thành thanh
khoản, sự bất ổn tài chính – hiệu ứng lấn át và sự thẩm thấu rủi ro. Như được thảo
luận bởi Berger và Bouwman (2009), dưới cái nhìn đầu tiên, nguồn vốn ngân hàng
hướng đến việc cản trở sự hình thành thanh khoản qua hai tác động riêng biệt: cấu
trúc tài chính yếu ớt và hiệu ứng lấn át lên những tài khoản tiền gửi. Cấu trúc tài
chính yếu ớt mô tả đặc điểm bởi nguồn vốn thấp và có xu hướng ủng hộ cho sự hình
thành thanh khoản (Diamond và Rajan 2000). Và họ tạo mô hình cho mối quan hệ
khi ngân hàng tăng nguồn vốn từ nhà đầu tư để cung cấp vốn vay cho một doanh
nghiệp. Doanh nghiệp có thể không nỗ lực hết sức, gây giảm thiểu số lượng vốn cấp
có thể đạt được. Quan trọng hơn, ngân hàng này cũng có thể không nỗ lực hết sức,
làm giới hạn đến khả năng huy động vốn của ngân hàng. Một hợp đồng tiền gửi
làm giảm bớt vấn đề này của ngân hàng bởi người gởi có thể rút tiền nếu ngân
hàng đe dọa không nỗ lực hết sức và từ đó tối đa hóa sự hình thành thanh khoản.
Người cấp vốn không thể rút vốn khẩn cấp, điều mà giới hạn sự sẵn lòng cung cấp
vốn của họ, và từ đó giảm sự hình thành thanh khoản. Vì vậy, tỉ lệ vốn của ngân
hàng càng cao, khả năng để tạo ra thanh khoản của nó càng giảm.
Quan điểm thứ hai có liên quan đến giả thuyết hấp thụ rủi ro; tỷ lệ vốn càng
cao sẽ cải thiện được khả năng tạo thanh khoản của ngân hàng, quan điểm này
được dựa vào hai hướng theo những nghiên cứu trước đây. Hướng đầu tiên bao gồm
những nghiên cứu thực nghiệm của Diamon và Dybvig (1993), Allen và Santomero
(1998) và Allen và Gale (2004) đã khẳng định rằng vấn đề tạo thanh khoản của
những ngân hàng làm cho những ngân hàng phải đối mặt với rủi ro. Những nhiều

tài sản thanh khoản được tạo thành thì xác suất
2.2.1.2.

Quy mô của ngân hàng

Khi Quy mô của ngân hàng phát triển, nó sẽ giúp họ vượt qua được rủi ro
nhưng cần lưu ý rằng nó có thể dẫn đến thất bại. Theo lập luận của lý thuyết "quá
lớn để thất bại"(too big to fail), những ngân hàng lớn sẽ được hưởng một khoản
đảm bảo tiềm ẩn, do đó những ngân hàng này có thể giảm chi phí tài trợ và cho


×