Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Bài thảo luận Đường lối ĐCSVN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.11 KB, 24 trang )

Bài thảo luận – Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

MỤC LỤC

I.

II.

III.
IV.

V.
VI.

LỜI MỞ ĐẦU
Bối cảnh lịch sử trong nước và thế giới giai đoạn 1939-1945
1. Bối cảnh lịch sử trong nước
2. Bối cảnh lịch sử thế giới
Thực trạng nạn đói và nạn dốt ở nước ta năm 1945
1. Thực trạng nạn đói 1945
2. Thực trạng nạn dốt 1945
Ai là thủ phạm gây ra thảm cảnh năm 1945 ?
Đảng ta đã làm gì trong tình hình lúc bấy giờ ?
1. Đường lối thực thi của Đảng để giải quyết nạn đói
2. Đường lối thực thi của Đảng để giải quyết nạn dốt
Đánh giá đường lối của Đảng ta lúc bấy giờ.
Bài học cho thế hệ trẻ ngày nay
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

LỜI MỞ ĐẦU



ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – Nhóm 02

Trang số


Bài thảo luận – Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Chúng ta tự hào bởi lịch sử dân tộc hào hùng và kiêu hãnh. Nhưng chúng ta
cũng không thể quên những đau thương, mất mát của dân tộc mình. Những người
đang sống hạnh phúc hôm nay không hẳn ai cũng nhớ tới nỗi khổ nhục kinh
hoàng nhất trong lịch sử dân tộc Việt với hơn 2 triệu đồng bào đã chết trong sự
đày đọa đến tận cùng của cái đói. Năm đó, 1945, cũng là năm Ất Dậu, cách đây
67 vòng quay của vũ trụ. Tiết xuân thanh khiết, đắm ngọt trong gió lành và lộc
biếc. Con đường
phẳng rộng thênh thênh chạy từ phố xá phồn hoa đến làng mạc trù phú. Lúa
chiêm xanh non trải từ bờ ruộng mải miết đến tận chân trời. 67 năm trước, nơi
đây là một địa ngục thảm khốc...
Nhà thơ Bảng Bá Lân đã viết bài thơ “ Đói “ vẽ lên một phần thảm
cảnh nạn đói Ất Dậu 1945 :
“Năm Ất Dậu, tháng ba, còn nhớ mãi
Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương!
Những thây ma thất thểu đầy đường,
Rồi ngã gục không đứng lên vì... đói!
Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,
Đói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm.
Khắp đường xa những xác đói rên nằm…”
Chúng ta cùng đi tìm hiểu chuyện gì thảm khốc đã xảy ra vào năm 1945…

BỐI CẢNH LỊCH SỬ TRONG NƯỚC

VÀ THẾ GIỚI GIAI ĐOẠN 1939-1945


ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – Nhóm 02

Trang số


Bài thảo luận – Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

1.

Bối cảnh lịch sử thế giới giai đoạn 1939-1945
Ngày 1-9-1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan, hai ngày sau Anh và
Pháp tuyên chiến với Đức, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Phát xít
Đức lần lượt chiếm các nước châu Âu. Đế quốc Pháp lao vào vòng chiến.
Chính phủ Pháp đã thi hành biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong
nước và phong trào cách mạng ở thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ.
Đảng cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.
Tháng 6- 1940, Đức tấn công Pháp. Chính phủ Pháp đầu hàng Đức.
Lợi dụng lúc Pháp thua Đức, ngày 22-9-1940 phát xít Nhật đã tiến vào
Lạng sơn và đổ bộ vào Hải Phòng. Ngày 23-9-1940, tại Hà Nội, Pháp ký
hiệp định đầu hàng Nhật. Từ dó, nhân dân ta chịu cảnh một cổ hai tròng áp
bức, bóc lột của Pháp - Nhật. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta và đế quốc – phát
xít (Pháp và Nhật) trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
Ngày 22-6-1941, quân phátxít Đức tấn công Liên Xô. Từ khi Phát xít
Đức xâm lược Liên Xô, tính chất chiến tranh đế quốc chuyển thành chiến
tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với các lực lượng
phát xít do Đức cầm đầu.
Cuối năm 1944, đầu năm 1945 chiến tranh thế giới lần thứ II đi vào

giai đoạn kết thúc. Hồng quân Liên Xô quét sạch Phát xít Đức ra khỏi lãnh
thổ của mình và tiến như vũ bão về Beclin. Ở Tây Âu, Anh – Mỹ mở mặt
trận thứ 2 đưa quân vào nước Pháp và tiến về phía Tây của nước Đức. Pháp
được giải phóng vào tháng 8/1945, còn ở Miến Điện, Nhật bị Anh đánh bại,
Mỹ đến Philipin để khống chế đường biển từ Nhật đến Indonesia. Cùng lúc
đó, mâu thuẫn giữa Nhật và Pháp vô cùng gay gắt. 20h30p ngày 9/3/1945
Pháp và Nhật nổ súng gây chiến lẫn nhau, Nhật hòng chiếm đoạt Đông
Dương, Pháp nhanh chóng đầu hàng quân Nhật.

2.

Bối cảnh lịch sử trong nước giai đoạn 1939-1945
Chiến tranh thể giới thứ hai đã ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến
Đông Dương và Việt Nam. Ngày 28-9-1939, Toàn quyền Đông Dương ra
nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, cấm lưu hành, tàng trữ tài liệu cộng
sản, đặt Đảng Cộng sản Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật, giải tán các
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – Nhóm 02

Trang số


Bài thảo luận – Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

hội hữu ái, nghiệp đoàn và tịch thu tài sản của các tổ chức đó, đóng cửa các
tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập đông người.
Trong thực tế, ở Việt Nam và Đông Dương, thực dân Pháp đã thi
hành chính sách thời chiến rất trắng trợn. Chúng phátxít hóa bộ máy thống
trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân, tập trung lực
lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Hàng nshìn cuộc khám xét
bất ngờ đã diễn ra khắp nơi. Một số quyền tự do, dân chủ đã giành được

trong thời kỳ 1936-1939 bị thủ tiêu. Chúng ban bố lệnh tổng động viện,
thực hiện chính sách "kinh tế chỉ huy" nhằm tăng cường vơ vét sức người,
sức của để phục vụ chiến tranh của đế quốc. Hơn bảy vạn thanh niên bị bắt
sang Pháp để làm bia đỡ đạn.
Lợi dụng lúc Pháp thua Đức, ngày 22-9-1940 phát xít Nhật đã tiến
vào Lạng sơn và đổ bộ vào Hải Phòng. Ngày 23-9-1940, tại Hà Nội, Pháp
ký hiệp định đầu hàng Nhật. Từ dó, nhân dân ta chịu cảnh một cổ hai tròng
áp bức, bóc lột của Pháp - Nhật. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta và đế quốc,
phátxít Pháp — Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
Thực dân Pháp và phát xít Nhật đã thi hành một loạt các chính sách
đã gây ra nạn đói kinh hoàng 1945 và nạn “ngu dân”. Dân ta phải chịu trực
tiếp 2 ách thống trị thực dân và phát xít “một cổ mà hai tròng”

THỰC TRẠNG NẠN ĐÓI VÀ NẠN
DỐT Ở NƯỚC TA NĂM 1945

1.

Thực trạng nạn đói 1945
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – Nhóm 02

Trang số


Bài thảo luận – Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Nạn đói từ năm 1944 đến năm 1945 đã cướp đi sinh mạng của
hơn 2 triệu dân trên khắp nước ta. Trong cuốn sách "Lịch sử biên niên
Đảng Cộng sản Việt Nam – Tập II", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, phát
hành năm 2008, trang 921, có ghi: "Do chính sách vơ vét của đế quốc phát

xít Pháp - Nhật, các cuộc ném bom của Đồng minh ngăn chặn sự thông
thương Bắc - Nam, do mất mùa, từ cuối năm 1944 đến đầu năm 1945, nạn
đói trầm trọng đã diễn ra ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ. Đây là nạn đói khủng
khiếp nhất trong lịch sử dân tộc ta. Theo thống kê từ các địa phương bị nạn
đói hoành hành, chỉ trong thời gian ngắn, nạn đói đã cướp đi sinh mạng của
2 triệu người, bằng một phần mười dân số Việt Nam lúc bấy giờ. Các tỉnh
có số người chết nhiều là: Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình... có nơi chết
cả làng".
Nạn đói giai đoạn 1944 – 1945 xảy ra trên địa bàn 32 tỉnh, thành cũ
từ Quảng Trị trở ra. Dân số Việt Nam năm 1945 tại 32 tỉnh thành là trên 13
triệu người, còn toàn Việt Nam là khoảng trên 20 triệu người.
- Thái Bình là địa phương có số người chết đói lớn nhất – 280.000 người,
chiếm 25% dân số toàn tỉnh
- Nam Định có 210.000 người chết, Hà Nam >50.000 người chết, Ninh
Bình 38.000 người chết
Trong vòng chưa đầy 1 năm, từ tháng 10/1944 – 5/1945, số người chết
đói tại các địa phương là khoảng 2 triệu người, tương đương 10% dân
số.
Nhiều làng xã chết 50-80% dân số, nhiều gia đình, dòng họ chết không
còn ai…
- Làng Sơn Thọ, xã Thụy Anh (Thái Thụy, Thái Bình) có hơn 1.000 người
thì chết đói mất 956 người. Chỉ trong 5 tháng, số người chết đói toàn
tỉnh lên đến 280.000 người, chiếm 25% dân số Thái Bình khi đó. Lịch
sử đảng bộ Hà Sơn Bình cũ ghi rõ: "Trong nạn đói năm 1945, khoảng 8
vạn người (gần 10% dân số trong tỉnh) chết đói, nhiều nơi xóm làng xơ
xác tiêu điều, nhất là ở những nơi nghề thủ công bị đình đốn.
- Làng La Cả, Hoài Đức, Hà Nội, số người chết đói là >2000 trên tổng số
dân là 4800 người, trong đó có 147 gia đình chết không còn một ai
- Làng La Khê, Hoài Đức, Hà Nội, có 2100 người thì 1200 người chết
đói, chiếm 57% số dân

Đỉnh điểm của nạn đói là tháng 3-1945, từ lúc phải ăn rau dại, củ
chuối, vỏ cây, bán dần tài sản trong gia đình để mua lương thực cầm hơi
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – Nhóm 02

Trang số


Bài thảo luận – Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

đến lúc không còn gì để bán và không thể mua, rất nhiều người đã ngồi chờ
chết. Dân chúng bỏ làng lũ lượt kéo nhau đi mà không biết đi đâu, kiếm
được gì, xin được gì ăn nấy. Vì đông người xin quá nên cũng không có
nhiều người có để cho và thế là cứ lả dần đi và chết. Trong các bức ảnh của
nghệ sĩ Võ An Ninh, có những hình ảnh khi người con xin được chén cháo
cố đút cho bố nhưng miệng ông đã cứng đờ. Nhiều gia đình chết cả nhà, gia
đình tứ tán đi các nơi kiếm ăn và sau này cũng chết gần hết, có dòng họ chỉ
còn một vài người sống sót.
Cuốn Lịch sử tỉnh Hà Nam Ninh xuất bản năm 1988 cho biết, phủ
Nghĩa Hưng (Nam Định) mỗi ngày chết 400 người; huyện Kim Sơn (Ninh
Bình) cả vụ đói có 22.908 người chết; trong 6.161 hộ thì có 1.571 hộ chết
không còn người nào. Khi người đói kéo về các thành phố lớn, lúc đầu chết
còn được bó chiếu đem chôn, sau vì nhiều người chết quá nhà chức trách
đành phải chất xác lên xe bò, hất chung xuống hố. Nhân chứng kể lại rằng,
có người còn thoi thóp nhưng vẫn bị vứt lên xe đưa đi chôn, vì “trước sau
gì cũng chết”.
Tài liệu của Viện Sử học cũng cho biết, nhiều nhân chứng sống sót
kể lại gặp rất nhiều cảnh thương tâm khi người mẹ đã chết đói nhưng con
nhỏ vẫn cố sờ tìm núm vú đã teo đét và cứng đờ, lạnh ngắt của người mẹ
để ngậm. Có đứa trẻ còn thoi thóp đã bị vứt lên xe bò chở xác cùng với
người mẹ đã chết để đem hắt ra bãi tha ma…

So sánh nạn đói năm 1945 ở Việt Nam với tổn thất của các cuộc
chiến tranh Pháp - Đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nạn đói nguy hiểm
hơn nạn chiến tranh. Thí dụ trong 6 năm chiến tranh, nước Pháp chết một
triệu người, nước Đức chết chừng 3 triệu. Thế mà nạn đói nửa năm ở Bắc
Bộ, ta đã chết hơn 2 triệu người”

2.

Thực trạng nạn dốt ở nước ta năm 1945
Trong Bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Nạn
dốt là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai
trị chúng ta. Hơn chín mươi phần trăm đồng bào chúng ta mù chữ… Một
dân tộc dốt là một dân tộc yếu.”

ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – Nhóm 02

Trang số


Bài thảo luận – Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Ngay sau khi Tuyên bố độc lập (2/9/1945), nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa đã đứng trước một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt. Nền dân trí sau
hàng trăm năm dưới ách đô hộ của thực dân phong kiến khiến hơn 95% dân
số mù chữ. Toàn dân đứng trước nguy cơ phải hứng chịu một nạn đói mới
sau nạn đói khủng khiếp làm hàng triệu người chết, đối mặt với họng súng
của "thù trong giặc ngoài."
Đứng trước tình hình "ngàn cân treo sợi tóc" như vậy, Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã xác định đúng nguy cơ của từng loại kẻ thù, trong đó
kiên quyết diệt giặc dốt.

Theo thống kê, vào thời điểm đó, cứ 3.245 trẻ em mới có một
trường học mà cứ 1.000 dân thì có một nhà tù. Cứ trong 100 người dân
thì có 3 trẻ em từ 8 đến 16 tuổi được đi học và 2 người lớn biết chữ, còn
95 người không được đi học. Nếu đi sâu vào các làng mạc, các thôn xóm
xa thành thị và nhất là vùng núi thì có nơi không một người biết chữ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ý thức sâu sắc rằng “Một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu.” Nếu dân không biết đọc, không biết viết thì làm sao người
dân có thể nắm được thông tin Cách mạng, làm sao thực hiện được quyền
dân chủ.
Chính vì vậy, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời
(3/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó
“chiến dịch diệt giặc dốt” đóng vai trò quan trọng thứ hai, chỉ sau diệt giặc
đói. Khi dân trí được nâng cao sẽ tạo tiền đề, mở lối cho những tư tưởng
cách mạng thấm nhuần vào quần chúng, tôn thêm nền móng vững chãi để
chính quyền non trẻ vượt qua những thử thách sống còn.

AI LÀ THỦ PHẠM GÂY RA THẢM
CẢNH Ở NƯỚC TA 1945 ?

1.

Nguyên nhân của nạn đói 1945
Mùa thu năm 1940, phát-xít Nhật vào Đông Dương, thực dân Pháp
không những không bảo hộ được nhân dân Việt Nam như họ vẫn rêu rao,
mà từng bước đầu hàng, dần dần cấu kết với phát-xít Nhật để đàn áp nhân
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – Nhóm 02

Trang số



Bài thảo luận – Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

dân Việt Nam. Nhân dân Việt Nam rơi vào cảnh “một cổ hai tròng”, vừa bị
thực dân Pháp đàn áp, vừa bị phát-xít Nhật hành hạ. Đặc biệt, từ khi đến
Đông Dương, phát-xít Nhật đã thi hành hàng loạt chính sách để đánh vào
nền kinh tế: Buộc Pháp phải ký kết nhiều hiệp ước yêu cầu cung cấp lương
thực, giao nộp lúa, gạo cho Nhật hằng năm, cấm vận chuyển lương thực từ
nam ra bắc, kết hợp với chính sách bắt dân nhổ lúa trồng đay lấy nguyên
liệu phục vụ chiến tranh,… đã đẩy nhân dân Việt Nam đến nạn đói thảm
khốc năm 1945.
Việc vận chuyển thóc gạo từ miền nam ra bị Nhật cấm vận, cùng với
việc vơ vét thóc gạo ở miền bắc đã làm cho giá thóc gạo tăng cao quá sức
chịu đựng của người dân, nhiều người không đủ sức mua và phải chịu chết
đói. Trong Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(DCCH) ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án và nhắc lại sự
kiện bi thảm này “Mùa thu năm 1940, phát-xít Nhật đến xâm lăng Đông
Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng Minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối
đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích:
Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm
ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ, hơn hai triệu đồng bào
ta bị chết đói” (Hồ Chí Minh, toàn tập, Tập 4, NXB Chính trị quốc gia,
H.1995, tr.01).
Công trình nghiên cứu nạn đói năm 1945 của GS Văn Tạo và GS
Furuta Motoo chỉ rõ: Chính sách vơ vét thóc gạo của phát-xít Nhật và
thực dân Pháp lúc bấy giờ cùng với thiên tai, mất mùa ở nhiều tỉnh
đồng bằng Bắc Bộ là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thảm cảnh trên.
Nhiều công trình nghiên cứu khác nữa đã chứng minh chính thực dân
Pháp và phát-xít Nhật là thủ phạm chính gây ra thảm cảnh cho dân
tộc Việt Nam khi ấy. Bác sĩ Ngô Văn Quỹ trong một tham luận của mình
về nạn đói, cho biết: “Cuối năm 1944, quân số của Nhật ở Bắc Kỳ đã lên

tới gần 100.000 người. Bắc Kỳ lúc đó đã thiếu gạo, vì ba trận bão tàn phá
các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hải Dương và Bắc Ninh, làm cho vụ mùa bị
thất thu, lại bị cái họa phải nhổ lúa để trồng cây công nghiệp cho Nhật, nay
lại phải nuôi thêm 100.000 miệng ăn của quân đội Nhật. Theo tờ trình của
Thống sứ Bắc Kỳ Chauvet, thì vào năm 1944 ở Bắc Kỳ, diện tích trồng cây
công nghiệp đã lên tới 45.000 ha” (Nỗi đau lịch sử: Nạn đói 1945, Sđd,
tr.45).
Theo tài liệu của Viện Sử học thì: năm 1941 là 700.000 tấn gạo; năm
1942 là 1.050.000 tấn gạo và 45 tấn bột gạo; năm 1943 là 1.125.904 tấn;
năm 1944, mặc dù mất mùa song vẫn phải cung cấp cho Nhật 900.000 tấn.
Ngoài ra, Nhật còn cho Pháp xuất khẩu gạo sang các nhượng địa của Pháp
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – Nhóm 02

Trang số


Bài thảo luận – Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

ở Trung Quốc. Tham luận của bác sĩ Ngô Văn Quỹ cho biết, ngay trong
năm 1945, tức lúc nạn đói lên đến đỉnh điểm, vậy mà theo các tài liệu chính
thức của Pháp - Đông Dương đã thu hoạch được 2.700.000 tấn thóc, ước
tính nhu cầu của nhân dân chỉ là 1.600.000 tấn; vẫn còn dư ra 1.100.000
tấn. Và ông khẳng định “Thừa thóc, thừa gạo mà để dân chết đói đến 2
triệu người, trước lịch sử, đây quả là một tội ác “trời không dung, đất
không tha” (Nỗi đau lịch sử: nạn đói 1945).
Rất nhiều tài liệu nghiên cứu đều chỉ ra “đích danh thủ phạm” là
phát-xít Nhật và đồng phạm là thực dân Pháp. Giáo sư Văn Tạo cũng
cho biết: “Trong cuộc trao đổi với tôi ở Tokyo, ông Yuuji đã có lý khi nói:
“Nhật - Pháp tuy thống nhất với nhau vơ vét thóc gạo nhân dân Việt Nam,
nhưng chúng vẫn chuẩn bị diệt nhau. Việc Pháp thu thóc để cung cấp cho

Nhật là có, nhưng không phải không lợi dụng lấy thóc đó để dự trữ chống
Nhật” (Văn Tạo - Furuta Motoo). Và Giáo sư kết luận: “Thủ phạm gây ra
nạn đói khủng khiếp ở Việt Nam năm 1945 là Nhật - Pháp, mà Nhật là
kẻ chịu trách nhiệm chính”.
Cụ thể như sau:
• Chính sách của Pháp
Sau vụ khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 1930, Pháp quay lại với
chính sách bảo hộ mậu dịch và độc quyền khai thác Đông Dương theo
đường lối thực dân. Toàn thể dân Đông Dương phải ra sức nâng cao giá trị
kinh tế của khu vực, nhưng chỉ có người Pháp, một thiểu số rất ít người
Việt và người Hoa gần gũi với Pháp hay một số dân chúng thành thị được
hưởng lợi. Hậu quả là trước Đại chiến thế giới lần thứ hai, Việt Nam vẫn
chỉ là một xứ lạc hậu và nghèo đói so với nhiều quốc gia châu Á khác. Hệ
thống thuế nửa thực dân nửa phong kiến khiến cho các hộ nông dân phải
bán hết lương thực có được để nộp thuế khiến đa số nông dân không còn
lương thực dự trữ.
Khi Đại chiến thế giới bùng nổ, Pháp bị yếu thế. Tại Đông Á, Đế
quốc Nhật Bản bắt đầu bành trướng và nhìn vào Đông Dương như đầu cầu
tiến qua Nam Á và khống chế Trung Quốc. Giữa năm 1940, Pháp
bị Đức chiếm và Nhật Bản gây áp lực với Pháp để tiến vào Đông Dương.
Việt Nam bị cuốn vào nền kinh tế thời chiến, với việc Pháp và Nhật tranh
giành quyền kiểm soát kinh tế. Người ta nói đến lý do là Nhật Bản bắt dân
Việt Nam trồng đay thay trồng lúa gạo để phục vụ chiến tranh, nhưng thực
ra Pháp đã tiến hành việc ấy từ trước, cụ thể là thu hẹp diện tích canh tác
các hoa màu phụ như ngô, khoai, sắn, để trồng bông, đay, gai hay cây kỹ
nghệ. Sản lượng lúa gạo và hoa màu quy ra thóc tại miền Bắc giảm xuống
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – Nhóm 02

Trang số



Bài thảo luận – Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

rất mạnh do diện tích canh tác bị thu hẹp. Theo thống kê, năm 1940, diện
tích trồng đay là 5.000 ha nhưng đến năm 1944 đã tăng lên 45.000.
Tác động của Hoa Kỳ
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai Việt Nam bị Đế quốc Nhật Bản
chiếm đóng nên bị quân Đồng Minh - chủ yếu là Hoa Kỳ - thường xuyên
oanh tạc các tuyến đường vận tải để tấn công quân Nhật Bản. Kết quả là hệ
thống giao thông ở Đông Dương bị hư hại nặng. Tính vào thời điểm năm
1945 thì đường sắt Xuyên Đông Dương không còn sử dụng được nữa
và đường thiên lý Bắc Nam cũng bị phá hoại. Đường biển thì quân Đồng
minh đã gài thủy lôi ở cửa biển Hải Phòng khiến hải cảng chính ở Bắc
Kỳ cũng không thông thương được.


Chính sách thu gom gạo của Nhật Bản
Trong thế chiến thứ 2, lãnh thổ Việt Nam nằm dưới sự chiếm đóng
của quân đội Nhật. Gạo và cao su được quân Nhật thu gom, chở về nước
hoặc cung cấp cho quân Nhật đóng ở tiền đồn vùng biển phía Nam. Theo
tài liệu của chính quyền Pháp ở Đông Dương thì về gạo đã xuất ra nước
ngoài, năm 1941: 700.000 tấn, năm 1942: 1.050.000 tấn, năm 1943:
950.000 tấn, năm 1944: 900.000 tấn; về cao su và các khoản thương vụ
khác trong mấy năm đầu thập niên 1940 đã xuất số lượng tính ra bằng vàng
tổng giá trị là 32.620 kg (tính tròn), tương đương số tiền lúc đó là 22 tỷ
Franc.
Năm 1944, Việt Nam bị mất mùa nhưng Pháp và triều đình nhà
Nguyễn vẫn phải cung cấp cho Nhật hơn 900.000 tấn gạo để đáp ứng cho
nhu cầu chiến tranh, làm nguyên liệu để người Pháp nấu rượu, dùng đốt lò
thay cho than đá. Nhật cấm vận chuyển lúa từ miền Nam ra, vơ vét thóc ở

miền Bắc khiến giá thóc, gạo tăng vọt. Năm 1943, một tạ gạo giá chính
thức là 31 đồng bạc Đông Dương, giá chợ đen là 57 đồng; năm 1944 tăng
lên 40 đồng, giá chợ đen là 350 đồng, nhưng đến đầu năm 1945 thì giá
chính thức vọt lên 53 đồng còn giá chợ đen từ 700-800 đồng.
Vì chiến cuộc lượng gạo chở bằng thuyền từ trong Nam ra Bắc bắt
đầu giảm từ 126.670 tấn (1942) xuống còn 29.700 tấn (1943), và đến
năm 1944 chỉ còn 6.830 tấn. Tàu bè chở gạo ra bắc chỉ ra được đến Đà
Nẵng. Khi không quân Đồng minh mở rộng tầm oanh kích thì tàu chở gạo
phải cập bến ở Quy Nhơn rồi cuối cùng chỉ ra được đến Nha Trang. Năm
1945 Chính phủ Trần Trọng Kim phải huy động những phương tiện thô sơ
chuyển vận gạo từ Nam ra Bắc bằng xe bò hay thuyền nhỏ. Cùng lúc đó thì
lượng gạo tồn kho ở Sài Gòn lên cao vì không xuất cảng sang Nhật được
khiến chủ kho phải bán rẻ dưới giá mua. Hơn 55.000 tấn gạo phải bán tháo


ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – Nhóm 02

Trang số 10


Bài thảo luận – Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

cho các xưởng nấu rượu vì nguy cơ gạo ứ đọng sẽ mốc trong khi nạn đói
hoành hành ở ngoài Bắc.
Đối với Pháp và Nhật Bản thì cả hai đều chú tâm vào những mục
tiêu khác cho nhu cầu chiến tranh của họ. Chính Toàn quyền Đông Dương
Jean Decoux từ trước năm 1945 đã ra lệnh trưng thu thóc gạo để chở sang
Nhật theo thỏa thuận với Đế quốc Nhật Bản. Giá gạo thị trường lúc bấy giờ
là 200 đồng bạc Đông Dương một tấn nhưng nông dân chỉ được trả 25
đồng. Bản thân lực lượng quân quản Nhật cũng thi hành chính sách "Nhổ

lúa trồng đay", do cây đay là nguyên liệu quan trọng cho sản xuất quân
trang, quân phục
Tình hình càng khó khăn thêm khi Nhật đảo chính Pháp vào tháng 3
năm 1945 nên bộ máy chính quyền của Pháp nhanh chóng tan rã. Việc tiếp
vận và phân phối sau đó càng bị tê liệt. Nạn thiếu ăn biến thành nạn đói, đã
manh nha từ đầu năm 1944 nay càng thêm trầm trọng. Đế quốc Việt
Nam do Trần Trọng Kim làm thủ tướng ra chấp chính từ tháng 4 năm 1945
đã cố gắng huy động việc cứu đói cho dân ngoài Bắc nhưng những yếu tố
chính trị, phương tiện và nhân sự phần nhiều vẫn nằm trong tay người Nhật
nên Đế quốc Việt Nam không làm thuyên giảm được hậu quả ghê gớm của
nạn đói.
Đa phần các kho thóc có khả năng cứu đói trực tiếp tại miền Bắc khi
đó đều nằm trong tay quân đội Nhật. Người Nhật vì mục đích chiến tranh
đã thờ ơ trước sự chết đói hàng loạt của dân bản địa. Các kho lương thực
được tăng cường bảo vệ, hoạt động trưng thu và vận chuyển lương thực
được bảo vệ tối đa. Các kho thóc trở thành tâm điểm nơi người đói kéo về
nhưng không được cứu đói đã nằm chết la liệt quanh đó


Thiên tai

Ngoài bối cảnh chiến tranh, chính trị và kinh tế, tình hình thời tiết
ngoài Bắc cũng đã góp phần trong những động lực tạo ra nạn đói. Mùa
màng miền Bắc bị hạn hán và côn trùng phá hoại, khiến sản lượng vụ đôngxuân từ năm 1944 giảm sụt khoảng 20% so với thu hoạch năm trước. Sau
đó là lũ lụt xảy ra làm hư hại vụ mùa nên nạn đói bắt đầu lan dần. Mùa
đông năm 1944- 1945 khắc nghiệt thay cũng lại là một mùa đông giá rét
khiến các hoa màu phụ cũng mất, tạo ra những yếu tố tai ác chồng chất
giữa bối cảnh chiến tranh thế giới. Tháng 9/1944, lụt vỡ đê La Giang (Hà
Tĩnh), đê sông Cả (Nghệ An) cùng tình trạng mất mùa ở các tỉnh Bắc Bộ
cuối năm 1944 làm cho nạn đói diễn ra trầm trọng hơn. Theo những người

dân trải qua nạn đói ở Tây Lương (Thái Bình) thì vụ mùa năm 1944, lúa
trên các cánh đồng rộng hàng trăm mẫu đều bị rầy phá hoại.
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – Nhóm 02

Trang số 11


Bài thảo luận – Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

2.

Nguyên nhân gây ra nạn giặc dốt 1945
Bên cạnh các chính sách cực kỳ phản động trên tất cả các mặt kinh tế
- chính trị nhằm đem lại lợi nhuận tối đa cho Pháp như việc chia bộ máy
“chia để trị” khi chia đất nước ta thành 3 kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam
Kỳ, mỗi kỳ chúng lại thực hiện một chế độ riêng; hay, Thực dân Pháp đặt
ra đủ loại thứ thuế vô lý (thuế thân, thuế chợ, thuế đò,…) thì có những
chính sách về văn hóa-xã hội làm ảnh hưởng trực tiếp đến nhân dân ta. Đó
là:
– Thực dân Pháp thực hiện chính sách kìm hãm và nô dịch nhân dân ta về
văn hoá gây tâm lý tự ty vong bản, giam hãm và đầu độc nhân dân ta trong
bề tăm tối, làm cho nhân dân ta ngu để dễ bề cai trị.
– Thủ đoạn:

– Khuyến khích các tệ nạn xã hội, các luồng văn hoá ngoại lai đồi trụy
nhằm đầu độc nhân dân Việt Nam.
– Xây dựng nhà tù nhiều hơn trường học và bệnh viện
– Ngăn chặn sự ảnh hưởng của văn hoá tiến bộ vào Việt Nam kể cả văn
hoá tiến bộ Pháp.
Trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Thế mà hơn 80

năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp
đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và
chính nghĩa.”. Thực ra chính thực dân Pháp đã gây ra nạn đói, nạn dốt ở nước ta
để dễ bề cai trị quần chúng nhân dân, để dân ta không biết chữ, không biết đến
văn minh nhân loại, để cho dân tộc ta mãi lầm lũi trong cảnh lầm than, nô lệ. Thế
nên, “Ngu dân” là một trong những phương pháp thâm độc mà chế độ thực dân sử
dụng để cai trị nhân dân Việt Nam.

ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – Nhóm 02

Trang số 12


Bài thảo luận – Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

ĐẢNG TA ĐÃ LÀM GÌ TRONG TÌNH
HÌNH LÚC BẤY GIỜ ?


1.

Đường lối thực thi của Đảng để giải quyết nạn đói
Vậy ai đã cứu giúp nhân dân Việt Nam ra khỏi thảm cảnh này?
Không phải Pháp, chẳng phải Nhật, cũng chẳng phải triều đình nhà Nguyễn
mà là Việt Minh.
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – Nhóm 02

Trang số 13



Bài thảo luận – Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Ngày 2-9-1945, Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam DCCH ra
mắt quốc dân đồng bào. Một ngày sau đó, ngày 3-9-1945, Chính phủ họp
phiên đầu tiên. Một trong những nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ là cứu
đói để vực dậy một dân tộc đã và đang trải qua nạn đói kinh hoàng. Trong
phiên họp đầu tiên này, Chính phủ thống nhất với đề xuất của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về sáu nội dung cấp bách phải thực hiện, trong đó nội dung đầu
tiên chính là cứu đói.
Phát biểu tại phiên họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Hiện nay
những vấn đề gì là vấn đề cấp bách hơn cả. Theo ý tôi, có sáu vấn đề.
Một là, nhân dân đang đói. Ngoài những kho thóc của Pháp, Nhật vơ vét
của nhân dân, bọn Nhật, Pháp còn bắt đồng bào chúng ta giảm bớt diện tích
để trồng thầu dầu, đay và những thứ cây khác cần thiết cho cuộc chiến
tranh của chúng (…). Hơn hai triệu đồng bào chúng ta đã chết đói vì chính
sách độc ác này. Vừa rồi nạn lụt đã phá hoại tám tỉnh sản xuất lúa gạo (…).
Chúng ta phải làm thế nào để cho họ sống. Tôi đề nghị với Chính phủ là
phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất”. (Hồ Chí Minh, toàn tập,
Tập 4, NXB Chính trị quốc gia, H.1995, tr.7-8). Một trong những việc làm
đặc biệt ý nghĩa của Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam DCCH là tổ
chức lạc quyên cứu đói để kịp thời dập tắt nạn đói. Với quan điểm “Chống
đói cũng như chống ngoại xâm”, ngày 28-9-1945, Báo Cứu quốc đăng
thư của Hồ Chủ tịch gửi đồng bào cả nước kêu gọi mọi người nêu cao tinh
thần “nhường cơm, sẻ áo” cứu giúp đồng bào: “Lúc chúng ta nâng bát cơm
mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề
nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hiện trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn
một bữa, mỗi tháng nhịn ba bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu
dân nghèo” (Hồ Chí Minh, toàn tập, Tập 4, NXB Chính trị quốc gia,
H.1995, tr.31).
Trong cuộc vận động này, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người gương

mẫu thực hiện đầu tiên và triệt để, theo đó, nếu những buổi dùng cơm với
khách trùng vào ngày nhịn ăn, Người tự động nhịn bù vào ngày hôm sau.
Tại buổi khai mạc lễ phát động phong trào cứu đói được tổ chức tại Nhà
hát Lớn Hà Nội sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đem phần gạo nhịn ăn
của mình đóng góp trước tiên. Tiếp đó, Chính phủ lâm thời Việt Nam
DCCH còn áp dụng ngay một số biện pháp cụ thể như: cho phép vận
chuyển thóc gạo; nghiêm trị những kẻ đầu cơ, tích trữ thóc gạo; cấm dùng
gạo vào các công việc chưa thật sự cần thiết như nấu rượu, làm bánh; cấm
xuất khẩu gạo, ngô, đậu; cử một ủy ban lo việc vận chuyển gạo từ miền
nam ra miền bắc (công việc này bị đình trệ sau đó vì thực dân Pháp tái
chiếm Nam Bộ).
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – Nhóm 02

Trang số 14


Bài thảo luận – Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Ngày 2-11-1945, Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội Nguyễn Văn Tố - một
nhân sĩ nổi tiếng - quyết định thành lập Hội Cứu đói. Hội Cứu đói được tổ
chức xuống tận các làng. Ngày 28-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc
lệnh thiết lập Ủy ban tối cao tiếp tế và cứu tế. Ngoài Bộ Cứu tế, một số bộ
khác cũng có nhiệm vụ cứu tế và tiếp tế. Hưởng ứng lời kêu gọi tha thiết
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào thi đua cứu đói đã diễn ra rộng khắp
trên cả nước với rất nhiều sáng kiến, cách làm sáng tạo như tổ chức “Hũ
gạo cứu đói”, “Ngày đồng tâm nhịn ăn”, “Đoàn quân tiễu trừ giặc đói”.
Từ đó hàng vạn tấn gạo đã được nhân dân cả nước đóng góp, chia sẻ với
đồng bào đang chịu thảm họa của nạn đói, góp phần cứu giúp kịp thời.
Cùng với quá trình khẩn cấp cứu đói, để bảo đảm giải quyết căn cơ
và triệt để nạn đói, Chính phủ phát động toàn dân tăng gia sản xuất và

thực hành tiết kiệm với lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tăng gia
sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu
của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự
do, độc lập”. Trong tháng 10 và 11 năm 1945, Chính phủ ban hành nghị
định giảm 20% thuế ruộng đất, miễn thuế hoàn toàn cho những vùng lụt.
Bộ Quốc dân Kinh tế ra thông tri quy định việc kê khai số ruộng đất vắng
chủ, số ruộng công và ruộng tư không làm hết, tạm cấp cho nông dân
không có ruộng hoặc thiếu ruộng.
Ngày 19-11-1945, Chính phủ thiết lập Ủy ban Trung ương phụ
trách vấn đề sản xuất. Nhiều chính sách đã được triển khai đồng bộ lúc
này như việc ra báo để hướng dẫn nhân dân sản xuất, cho nhân dân vay
thóc, vay tiền để sản xuất, cử cán bộ thú y về nông thôn chăm sóc gia súc,
gia cầm, chi ngân sách sửa chữa các quãng đê bị vỡ, củng cố hệ thống đê
điều, đắp thêm một số đê mới. Phong trào tăng gia, sản xuất diễn ra sôi nổi
trong khắp cả nước kể từ Chủ tịch, Chính phủ đến mọi cán bộ cao cấp của
Đảng ngoài giờ làm việc chính thức đều tham gia. Với sự nỗ lực của toàn
Đảng, toàn dân, phong trào tăng gia sản xuất đã thu được kết quả to lớn.
Sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được khôi phục, nạn đói được đẩy lùi,
đời sống của nhân dân, đặc biệt là nông dân dần ổn định.
Ngoài ra, còn có một số biện pháp lâu dài như: tăng gia sản xuất
“Tấc đất tấc vàng”, “ Không một tấc đất bỏ hoang”; bỏ thuế thân và các
thứ thuế vô lý; Giảm tô, thuế ruộng đất 25%, chia lại ruộng đất công;…
2.

Đường lối thực thi của Đảng để giải quyết nạn đói
Ngày 8/9/1945, Nha Bình dân học vụ ra đời, nằm trong Bộ Quốc
gia giáo dục. Cùng ngày, Sắc lệnh số 19 - SL hạn trong 6 tháng làng nào,
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – Nhóm 02

Trang số 15



Bài thảo luận – Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

thị trấn nào cũng phải có ít nhất một lớp học bình dân và Sắc lệnh số 20 –
SL cưỡng bách học chữ quốc ngữ trong toàn quốc được ban hành.
Một ngày sau khi thành lập, để xác định cách tổ chức và hoạt động
cho phong trào, Nha Bình dân học vụ liên tiếp tổ chức các lớp huấn
luyện ở Hà Nội và các miền. Lớp học đầu tiên dành cho cán bộ phụ trách
ở các tỉnh mang tên "khóa Hồ Chí Minh" khai giảng ở Hà Nội, có sự tham
dự của Hồ Chủ tịch và lãnh đạo các bộ. Những người đầu tiên dự lớp học
này chính là nguồn cán bộ nền móng cho phong trào xóa mù chữ. Riêng
ở miền Nam, ngay sau khi Bình dân học vụ thành lập được nửa tháng thì
thực dân Pháp quay lại xâm chiếm. Dù Nha có cử một số cán bộ vào để gây
dựng cơ sở, nhưng vì hoàn cảnh khó khăn nên phong trào ở đây không
được duy trì đều đặn, mạnh mẽ như ở Bắc, Trung Bộ.
Bình dân học vụ đã dấy lên tinh thần say mê học chữ từ Bắc chí
Nam, từ đồng bằng đến miền núi. Trước đó, hoạt động của Hội truyền bá
chữ quốc ngữ đã để lại cho phong trào nhiều kinh nghiệm cũng như lực
lượng trí thức tình nguyện tham gia dạy học cho nhân dân. Công nhân học
trong xưởng thợ, thương binh học ở an dưỡng đường, ngư dân học ngay
trên thuyền chài, nông dân học trên cánh đồng, sân đình chùa, gốc đa, bến
nước, trẻ nhỏ học trên lưng trâu. Người dân ban ngày đi làm, ban đêm thắp
đèn dầu, đốt đuốc đến lớp.
Giáo viên bình dân học vụ thuộc đủ các giới, lứa tuổi, không có
lương bổng, hễ biết chữ là tham gia. Họ dạy học, dựng trường, tạo lớp,
tìm kiếm học phẩm, cổ động học viên. Có lớp có giáo viên, nhưng có lớp
giao cho người trong nhà dạy lẫn nhau, chồng dạy vợ, con dạy mẹ, anh chị
dạy em. Cách dạy cũng được cải biên cho phù hợp với tình hình dân trí lúc
bấy giờ, đó là đọc lên thành tiếng, chữ cái, vần được tạo thành câu thơ lục

bát, so sánh để dễ nhớ:
I, tờ ( i, t) giống móc cả hai
I ngắn có chấm, tờ dài có ngang.
O tròn như quả trứng gà
Ô thì đội mũ, Ơ thời thêm râu.
Dụng cụ học tập thiếu thốn, người học dùng chõng tre, cánh cửa làm
bàn; bảng viết là bức tường, cánh cửa, tấm phản dựng lên; phấn là gạch
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – Nhóm 02

Trang số 16


Bài thảo luận – Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

non, đất sét, than củi; lá chuối khô, mo cau thay giấy; còn mực thì dùng bất
cứ hoa, cây có thể làm màu.
"Bàn không có, người ta còn úp ngược thúng lên làm bàn học. Vở
ghi không có, người dân rải cát ra sân, cầm que tập viết chữ, viết xong rồi
xóa lại học viết chữ khác", ông Nguyễn Thìn Xuân, Chủ nhiệm Câu lạc bộ
Chiến sĩ diệt dốt, cán bộ của Nha Bình dân học vụ kể lại…Ông Xuân nhớ
rõ một kỷ niệm vui mà nhiều người vẫn truyền cho nhau nghe. Để kiểm tra
việc học chữ của người đi học, ban kiểm tra thường đứng ở đầu làng, bến
phà, nơi đông người qua lại. Ai đọc được chữ thì mới được đi qua. Có lần,
Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Văn Huyên đi xem tình hình các lớp bình dân
học vụ. Người của đội kiểm tra không biết bộ trưởng, kiên quyết giữ ông
lại hỏi xem thuộc chữ hay chưa. Cần vụ định nhắc nhở người thanh niên
kia, nhưng Bộ trưởng Huyên chỉ cười ngăn lại, trả lời trôi chảy rồi mới đi
qua.
Ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử đất nước, Bình dân học vụ
lại có những nhiệm vụ khác nhau. Sau ngày độc lập, Bình dân học vụ có

nhiệm vụ xây dựng và phát triển phong trào, dạy cho nhân dân biết chữ.
Chỉ trong một năm, từ tháng 8/1945 đến tháng 8/1946, Bình dân học vụ đã
dạy cho hơn 2,5 triệu người biết chữ, phát triển được gần 96.000 giáo
viên, mở được gần 75.000 lớp học.
Tháng 12/1946, cả nước bước vào kháng chiến chống Pháp, Chính
phủ chuyển lên Việt Bắc. Theo chủ trương kháng chiến, Bình dân học vụ
cũng phải ấn định kế hoạch làm việc mới, sửa đổi cho phù hợp với tình
hình. Các lớp học đi theo đồng bào tản cư kháng chiến, theo các đoàn dân
công tiếp vận. Những lớp học kháng chiến đã đi vào trong thơ của Tố Hữu
một cách tự nhiên “Nhớ sao lớp học i tờ/ Đồng khuya đuốc sáng những giờ
liên hoan...”(Việt Bắc).
Ở vùng tạm chiếm, các lớp học được tổ chức khác so với vùng tự do,
thường là những lớp học tư gia, không có bàn ghế, bảng, phấn. Thầy trò
ngồi xung quanh cái phản hay chiếu, mỗi người có một ống tre để đựng
sách. Ở ngoài có tự vệ canh gác, hễ có báo động thì sách vở cuộn bỏ vào
ống tre đem giấu ở ngoài bờ tre rồi thầy trò quay ra làm như trong một
xưởng thủ công nghiệp nhỏ. Cứ như vậy, Bình dân học vụ vẫn giữ được ở
nhiều vùng bị địch tạm chiếm, mạnh nhất là Hưng Yên, Hải Phòng, Nam
Định, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế…

ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – Nhóm 02

Trang số 17


Bài thảo luận – Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Là người khai sinh ra ngành học bình dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn dõi theo từng bước đi của phong trào. Người luôn động viên, thăm hỏi
kịp thời giáo viên, những cụ già, em bé chăm chỉ đến lớp. Trong sự nghiệp

giáo dục nói chung, Hồ Chủ tịch luôn quan tâm đến hiệu quả cuối cùng của
việc dạy và học để sau này tổng kết thành câu nói
"Vì lợi ích 10 năm trồng cây. Vì lợi ích trăm năm trồng người".
Theo ông Nguyễn Thìn Xuân, Bình dân học vụ đã để lại cho nền
giáo dục nước nhà nhiều bài học quý báu. Phong trào phát triển rộng khắp,
có sức sống lâu bền cả trong suốt thời kỳ kháng chiến vì được "dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Bình dân học vụ do Chính phủ lãnh đạo
nhưng cách tổ chức và hoạt động của phải dựa vào sức của nhân dân để
phát triển.
"Bình dân học vụ không chỉ xóa nạn mù chữ trong nhân dân, còn
giúp người dân có ý thức về quyền lợi và bổn phận của công dân một nước
động lập, đó là ngoài được tự do thì còn phải được học hành, mở mang
kiến thức. Phong trào góp thành tích lớn, là cơ sở để nâng cao dân trí nước
nhà, cùng với nhiều yếu tố khác làm nên sức mạnh đưa dân tộc bước qua
hai cuộc trường chinh kháng chiến", ông Xuân nói.

ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – Nhóm 02

Trang số 18


Bài thảo luận – Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

ĐÁNH GIÁ ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG
TA LÚC BẤY GIỜ



Giải quyết nạn đói


Với một loạt chính sách kịp thời đã triển khai, Đảng ta đã bước đầu xây
dựng được chính quyền dù còn non trẻ, đem lại nhiều đổi thay trong cuộc
sống nhân dân, trước mắt đã xóa được nạn đói và nạn dốt mà dân chúng đã
phải chịu nhiều đau thương trong những năm 1944-1945. Cụ thể như sau:
Nhiều chính sách được triển khai đồng bộ lúc này như việc ra báo
để hướng dẫn nhân dân sản xuất, cho nhân dân vay thóc, vay tiền để sản
xuất, cử cán bộ thú y về nông thôn chăm sóc gia súc, gia cầm, chi ngân
sách sửa chữa các quãng đê bị vỡ, củng cố hệ thống đê điều, đắp thêm một
số đê mới. Phong trào tăng gia, sản xuất diễn ra sôi nổi trong khắp cả nước
kể từ Chủ tịch, Chính phủ đến mọi cán bộ cao cấp của Đảng ngoài giờ làm
việc chính thức đều tham gia. Với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân,
phong trào tăng gia sản xuất đã thu được kết quả to lớn. Sản xuất nông
nghiệp nhanh chóng được khôi phục, nạn đói được đẩy lùi, đời sống
của nhân dân, đặc biệt là nông dân dần ổn định.
Chỉ trong năm tháng từ tháng 11 năm 1945 đến tháng 5 năm 1946,
sản lượng lương thực, chủ yếu là màu, đạt tương đương 506.000 tấn lúa,
đủ bù đắp số lương thực thiếu hụt của vụ mùa năm 1945. Đến hết năm
1946, nạn đói cơ bản đã được giải quyết. Đó cũng là điều mà ngày 2-91946, tại lễ kỷ niệm một năm độc lập - Quốc khánh 1946, đồng chí Võ
Nguyên Giáp - khi ấy là Chủ tịch quân sự, Ủy viên trong Chính phủ liên
hiệp, tuyên bố: “Cuộc cách mạng đã chiến thắng được nạn đói, thật là
một kỳ công của chế độ dân chủ”.
Trong tác phẩm Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX,
nhà sử học Lê Thành Khôi viết về các chính sách và việc đã làm của Chính
phủ mới để khắc phục nạn đói như sau: “Một nạn đói mới đang là mối đe
dọa cận kề nhất… Nhà nước tung ra một chiến dịch toàn quốc với khẩu
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – Nhóm 02

Trang số 19



Bài thảo luận – Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

hiệu “Tăng gia sản xuất” và “Không để hoang một tấc đất, một cánh tay
nhàn rỗi”. Một nghị định được ban hành sẽ trao đất hoang cho tất cả những
ai có thể khai thác. Nỗ lực của mọi người và sự thi đua yêu nước đã dựng
lại các con đê, tăng gia sản xuất các hoa màu phụ: khoai lang, ngô, sắn, đậu
nành; vụ gặt tháng 5 đảm bảo lương thực cho thời gian giáp hạt” (Lê Thành
Khôi, Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, NXB Thế giới).
Trong hồi ký của mình, cụ Vũ Đình Hòe, nguyên Bộ trưởng Bộ
Quốc gia Giáo dục và Tư pháp của nước Việt Nam DCCH đã đưa vào phần
phụ lục nội dung bài viết của Hoàng Văn Đức, Giám đốc Nha Nông chính
Bắc Kỳ với tựa đề “Hai thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Theo
Hoàng Văn Đức, hai thắng lợi đó là Tổng tuyển cử ngày 6-1-1946 và
chiến dịch chống nạn đói cuối năm 1945 đầu năm 1946 với dòng thật xúc
động: “Những người đó đã chiến thắng trên đồng ruộng. Động lực giải
phóng của Mặt trận Việt Minh, dân tộc Việt Nam nắm vững chủ quyền của
mình. Cách mạng đã thắng nạn đói” .


Xóa nạn mù chữ
Chỉ sau một năm hoạt động Bình dân học vụ (8.9.1945 - 8.9.1946)
đã mở được 74.957 lớp học, dạy được 2.520.678 người thoát nạn mù
chữ (dân số lúc đó là 22 triệu người) với 95.667 giáo viên dạy không
công. Phong trào Bình dân học vụ được sự quan tâm, chỉ đạo kịp thời
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Chính phủ ngày càng phát triển.
Tới năm 1948 đã có 6 triệu người thoát nạn mù chữ, năm 1954 có 10
triệu người, chiến dịch xóa nạn mù chữ cơ bản được hoàn thành. Bình
dân học vụ không những dạy người dân biết đọc, biết viết mà còn dạy
kiến thức khoa học thường thức, nâng cao dần trình độ dân trí. Thật là
một kỳ tích của nền giáo dục non trẻ.

Toàn quốc kháng chiến bùng nổ ngày 19.12.1946. Tại chiến khu Việt
Bắc, Bác nói: “Diệt giặc dốt như diệt giặc Pháp, dốt nát cũng là tên
địch. Địch dốt nát giúp cho địch ngoại xâm”(Báo Công Dân - 1948), và
thế là phong trào BDHV tiếp nối kinh nghiệm quý báu trong năm đầu
hoạt động. Các lớp học đi theo đồng bào tản cư kháng chiến, đi theo các
đoàn dân công tiếp vận.
Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, sau kế hoạch 3 năm (1956-1958),
tổng kết lại phong trào BDHV. Bác thay mặt Đảng và Nhà nước trao
cho thủ đô nhiệm vụ bổ túc văn hoá cho 6 vạn người. Bác phân tích:
“Thủ đô đã căn bản hoàn thành nhiệm vụ xoá mù chữ, nhưng căn bản
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – Nhóm 02

Trang số 20


Bài thảo luận – Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

nghĩa là chưa hoàn toàn. Cho nên phải làm nốt việc xoá nạn mù chữ,
rồi tiến lên bổ túc văn hoá cho mọi người…”
Đường lối của Đảng đối với chính sách chống giặc dốt ở trên là hoàn
toàn đúng đắn, không những kịp thời khắc phục được nạn mù chữ, nâng
cao dân trí mà còn một lần nữa khơi dậy được tinh thần ham học, đoàn kết
toàn dân tộc, thể hiện được tinh thần sức mạnh của toàn dân ta.

BÀI HỌC CHO THẾ HỆ TRẺ NGÀY
NAY

-

-


Tin những gì đã từng xảy ra trong lịch sử, đặc biệt là nạn đói và nạn dốt
1945 để có cái nhìn đúng đắn cho hiện tại và tôn trọng lịch sử.
Chúng ta ngày này cần phải quý trọng những gì mà những người nông
dân đã làm ra “phải một nắng hai sương, xay, giã, giần, sàng,…” để làm
ra hạt lúa ta ăn, quý trọng công sức, phải biết thực hành tiết kiệm, không
lãng phí. Tuy nước ta hiện nay đang là nước xuất hẩu gạo nhất nhì thế
giới nhưng không vì thế mà an phận bởi vì hạt lúa không phải là thứ duy
nhất giúp chúng ta giàu có, mà phải hướng Việt Nam xuất khẩu các mặt
hàng như: đồ điện tử, ô tô, máy tính,… ra thế giới.
Phải học hành chăm chỉ, giúp đỡ bạn bè trong học tập, cùng nhau tạo ra
một môi trường học tập có ích để giúp Việt Nam đang là một nước đã
phổ cập Tiểu học và THCS lên một quốc gia có những công dân trình độ
cao ở bậc Phổ thông và Đại học.

ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – Nhóm 02

Trang số 21


Bài thảo luận – Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

KẾT LUẬN

Nhân dân ta đã vượt qua được những khó khăn to lớn, củng cố và tăng cường sức
mạnh của chính quyền nhà nước, làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh chống
thù trong , giặc ngoài. Kết quả đạt được đã thể hiện bản chất cách mạng , tính ưu
việt của chế độ mới. Nó có tác dụng cổ vũ động viên nhân dân quyết tâm bảo vệ
chính quyền cách mạng, bảo vệ độc lập, tự do vừa giành được.
Từ bài học diệt giặc đói, giặc dốt của Bác trong những tháng năm cách mạng

Việt Nam “ngàn cân treo sợi tóc”, vấn đề đặt ra hiện nay, ngoài việc ban hành
những chủ trương, chính sách kịp thời về xóa đói, giảm nghèo cũng như về đầu
tư, điều kiện cần và đủ phải phân bổ nguồn lực đầu tư một cách hợp lý; tránh
bằng được căn bệnh đầu tư dàn trải, đầu tư sai mục đích, dẫn đến lãng phí ngân
sách đi liền đó là phải triệt để thực hành tiết kiệm.
Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng xã hội học tập; triển khai phát động các phong
trào thi đua yêu nước, thi đua thực hiện tốt Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới
căn bản giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế, nhất là dưới sự tác động to lớn, toàn diện và mạnh mẽ của cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0; sự phát triển của kinh tế tri thức. Thực hiện các phong trào thi
đua, không ngừng củng cố và tăng cường sức mạnh của nền quốc phòng toàn
dân, nền an ninh nhân dân, đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống
“diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ và mọi tình huống khác, bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam XHCN trong thời kỳ mới.

ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – Nhóm 02

Trang số 22


Bài thảo luận – Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.
2.
3.
4.
5.

6.

7.
8.

Bộ Giáo dục và đào tạo (2013); Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản
Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia.
Bộ Giáo dục và đào tạo (2013); Lịch sử 10, NXB Giáo dục.
"Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam – Tập II", Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia, phát hành năm 2008, trang 921
Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn độc lập, NXB Giáo dục
GS. Văn Tạo và GS. Futura Moto, Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam: Những
chứng tích lịch sử, Viện sử học Việt Nam, 2008.
Hồng Phúc, Nạn đói 1945: Sự thật lịch sử,
Báo Nhân dân Điện tử,
26/12/2016.
Lê Thành Khôi, Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, NXB
Thế giới,2008.
Ngoài ra còn sử dụng các video, hình ảnh từ mạng internet.

ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – Nhóm 02

Trang số 23


Bài thảo luận – Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam

ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM – Nhóm 02

Trang số 24




×