Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hút thuốc lá nơi công cộng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.04 KB, 27 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT

TỪ VIẾT TẮT

DIỄN GIẢI

1

PCTHTL

Phòng chống tác hại thuốc lá

2

VPHC

Vi phạm hành chính

3

XLVPHC

Xử lý vi phạm hành chính

4

HS

Học sinh



5

THPT

Trung học phổ thông

6

THCS

Trung học cơ sở

7

UBND

Uỷ ban nhân dân


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn bản quy phạm pháp luật trong nước
Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001)
Hiến pháp 2013
Bộ luật Dân sự 2015
Bộ luật Hình sự 2015
Luật xử lý vi phạm hành chính Số: 15/2012/QH13
Nghị định số 176/2013/NĐ-CP
Luật phòng - chống tác hại thuốc lá số: 09/2012/QH13
Nghị định 119/2011/NĐ-CP ngày 16/12/2011 về sửa đổi, bổ sung thủ tục hành

chính tại Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15 tháng 9 năm 2005 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh.
B. Danh mục sách, báo, tạp chí
9. Tin hoạt động nghành của sở y tế Cần thơ
10. Báo infonet.vn
11. Báo Cần thơ online
C. Danh mục trang thông tin điện tử
12.
13.
14. http://portal-app:2017/pages/vbpq.aspx
15. />A.
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.………………………………………………………….trang 1
PHẦN NỘI DUNG.……………………………………………………….trang 4
Chương 1. Lý luận chung về xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hút thuốc lá
nơi công cộng.……………………………………………………………..trang 4
Chương 2. Thực trạng quy định pháp luật xử phạt vi phạm hành chính về hành
vi hút thuốc lá nơi công cộng và một số giải pháp hoàn thiện.
…………………………………………………………………….…trang 8


PHẦN KẾT LUẬN ………………………………………………………trang 22


PHẦN MỞ ĐẦU

1.

Lý do chọn đề tài
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Có thể nói rằng bên cạnh các chất gây nghiện nặng như: ma túy, heroin,

thuốc lắc,… bị cấm sử dụng trên thị trường thì thuốc lá cũng có thể được liệt kê vào
danh sách chất gây nghiện ảnh hưởng nghiêm trọng đối với đời sống và kinh tế của
con người, nhưng lại được nhà nước cho phép lưu hành với mức thuế rất cao trên
thị trường và được tiêu thụ với số lượng rất lớn và ngày càng tăng qua các năm.
Khoa học và thực tiễn đã chứng minh rằng nếu một người hút thuốc lá
thường xuyên thì tuổi thọ của họ sẽ giảm đi rất nhiều so với người không hút thuốc
lá. Khói thuốc lá có tác hại rất lớn đối với sức khỏe con người, không chỉ người hút
mà còn cả người xung quanh hít phải khói thuốc, họ có khả năng bị bệnh cao gấp
10 lần người hút thuốc, đặc biệt là trẻ em và phụ nữ có thai, và không ai khác đó
chính là bạn bè, người thân trong gia đình ta.
Xử lý kiên quyết và triệt để hành vi hút thuốc lá nơi công cộng bằng hình
thức xử phạt hành chính là vấn đề được đặt ra hiện nay. Đây là biện pháp hiệu quả
để có thể kiểm soát và quản lý được tình hình hút thuốc lá một cách tràn lan như
hiện nay của đất nước ta. Tuy nhiên trên thực tế, việc áp dụng pháp luật còn gặp rất
nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập đặt ra cho các nhà quản lý cũng như các chủ
thể thực thi pháp luật. Do đó, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của
xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hút thuốc lá nơi công cộng là một yêu cầu
cấp thiết hiện nay.
1.2. Thực trạng quản lý nhà nước trong lĩnh vực xử phạt vi phạm hành

chính về hành vi hút thuốc lá nơi công cộng


Luật phòng chống tác hại của thuốc lá hiện hành đã quy định cụ thể về
những địa điểm cấm hút thuốc lá. Luật đã có hiệu lực từ ngày 01 tháng 5 năm 2013
theo điều 33 luật phòng, chống tác hại của thuốc lá, nhưng đến nay, tình trạng vi
phạm hút thuốc lá tại nơi công cộng vẫn diễn ra phổ biến. Đây là thách thức lớn
trong việc thực hiện mục tiêu môi trường không khói thuốc ở nước ta.
2.

Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu
2.1. Mục đích
Trên cơ sở tìm hiểu những quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành

chính về hành vi hút thuốc lá nơi công cộng với thực tiễn tại Việt Nam để từ đó tiểu
luận đưa ra được những điểm tích cực, những vướng mắc, bất cập trong việc thực
hiện công tác này. Trên cơ sở đó, phân tích nguyên nhân, đề ra giải pháp để góp
phần hoàn thiện cơ chế pháp lý trong xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hút
thuốc lá nơi công cộng.
2.2. Nhiệm vụ
Xuất phát từ mục đích trên, tiểu luận có nhiệm vụ làm sáng tỏ vấn đề lý luận
về xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hút thuốc lá nơi công cộng, phân tích
những quy định hiện hành , thực tiễn áp dụng tại Việt Nam từ đó nêu ra được
những vấn đề bức thiết cần hoàn thiện đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm góp
phần hoàn thiện hệ thống pháp luật trong xử phạt vi phạm hành chính về hành vi
hút thuốc lá nơi công cộng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận là vấn đề xử phạt vi phạm hành chính về
hành vi hút thuốc lá nơi công cộng trên địa bàn Cần Thơ.

3.2. Phạm vi nghiên cứu


Phạm vi nghiên cứu trong giới hạn nghiên cứu của một tiểu luận tốt nghiệp,
chỉ tập trung nghiên cứu một số quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính về hành vi hút thuốc lá nơi công cộng như: nguyên tắc, thẩm quyền, hình
thức, trình tự, thủ tục xử phạt. Từ đó phân tích thực tiễn, nêu ra những hạn chế, bất
cập và đề xuất hoàn thiện. Thực tiễn nghiên cứu của đề tài được giới hạn cụ thể là
xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hút thuốc lá nơi công cộng trong 6 năm gần
đây tại Việt Nam, cụ thể là tại Thành phố Cần Thơ. Từ những thực trạng trên đưa ra
những đề xuất hoàn thiện chung cho tình hình của cả nước.
4.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật về việc xử lý vi phạm hành

chính và tình hình thực tế về việc xử lý vi phạm hành chính về hành vi hút thuốc lá
nơi công cộng trên địa bàn Cần Thơ, Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu tổng hợp
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
5. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo và mục
lục, nội dung của Tiểu luận được kết cấu thành 02 chương sau đây:
-

Chương 1: Lý luận chung về xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hút

thuốc lá nơi công cộng.

- Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật xử phạp vi phạm hành chính về
hành vi hút thuốc lá nơi công cộng và một số giải pháp hoàn thiện.


PHẦN NỘI DUNG

Chương 1. Lý luận chung về xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hút thuốc
lá nơi công cộng
1.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính
Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng
hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện
hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính.
1.2. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hút thuốc lá nơi công
cộng
Xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hút thuốc lá nơi công cộng là việc
người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu
quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi hút thuốc lá nơi công cộng theo quy
định của Luật phòng, chống tác hại của thuốc lá và nhiều văn bản thi hành khác.
1.3. Đặc điểm của vi phạm hành chính về hành vi hút thuốc lá nơi công cộng


Là hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm
hình sự.



Mức độ gây thiệt hại nhỏ hơn mức độ thiệt hại được quy định trong Bộ luật
hình sự.




Công cụ, phương tiện, thủ đoạn thực hiện hành vi vi phạm là thuốc lá và nó
không được coi là hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại.


1.4. Đặc điểm xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hút thuốc lá nơi công
cộng
1.4.1. Cơ sở để xử phạt vi phạm hành chính là vi phạm hành chính.
Không có VPHC thì không có trách nhiệm hành chính, cũng như cơ sở của trách
nhiệm hình sự là tội phạm, của trách nhiệm dân sự là vi phạm quan hệ dân sự, của
trách nhiệm kỷ luật là vi phạm kỷ luật.
1.4.2. Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính chủ yếu do các cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và do đó được áp dụng theo
thủ tục hành chính do các quy phạm thủ tục hành chính quy định. Vì VPHC là
những vi phạm nhỏ và phổ biến nên việc xử phạt vi phạm hành chính không
theo thủ tục tư pháp như đối với truy cứu trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân
sự, mà theo thủ tục hành chính và chủ yếu do các cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền thực hiện. Không phải bất kỳ cơ quan quản lý nhà nước nào cũng có
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính mà chỉ có một số cơ quan nhất định trong
số đó được nhà nước trao quyền hạn này. Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính,
cũng như việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính nói chung, nằm ngoài
hoạt động xét xử của Tòa án. Còn các biện pháp trách nhiệm hình sự, dân sự được
thực hiện theo trình tự xét xử của Tòa án. Tuy nhiên, Tòa án cũng có thẩm quyền
xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp ngoại lệ đặc biệt (đó là đối với những
hành vi gây rối trật tự tại phiên tòa). Thủ tục XPVPHC đơn giản hơn so với thủ tục
áp
dụng
cưỡng
chế

hình
sự
và dân
sự.
1.4.3. Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính không chỉ nhằm đảm bảo thực
hiện, bảo vệ các quy phạm vật chất của ngành luật hành chính mà còn bảo đảm
thực hiện và bảo vệ các quy phạm vật chất của các ngành luật khác (như luật tài
chính,
ngân hàng,
đất
đai,
môi
trường…)
1.4.4. Giữa cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền thực hiện xử phạt vi
phạm hành chính và chủ thể bị áp dụng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính
không có
quan
hệ
trực
thuộc.
Đây là đặc điểm quan trọng phân biệt việc áp dụng biện pháp xử phạt vi phạm hành
chính và các biện pháp cưỡng chế kỷ luật – dạng cưỡng chế mà cơ quan quản lý
nhà nước cũng có quyền áp dụng rộng rãi trong hoạt động của mình. Giữa chủ thể


có thẩm quyền áp dụng cưỡng chế kỷ luật và người bị áp dụng biện pháp cưỡng chế
đó phải có quan hệ trực thuộc.
1.5. Vai trò, ý nghĩa của xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hút thuốc lá nơi
công


cộng
Theo Khoản 7, Điều 2, Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá quy định: Địa

điểm công cộng là nơi phục vụ chung cho nhu cầu của nhiều người. Việc cấm hút
thuốc lá nơi công cộng là rất cần thiết vì các lý do sau:
Địa điểm công cộng là nơi phục vụ chung cho nhu cầu của nhiều người, do vậy có
nhiều người hút thuốc lá, làm cho những người khác sẽ bị hút thuốc lá thụ động.
Hút thuốc lá thụ động là nguy cơ lớn ảnh hưởng tới sức khỏe. Khói tỏa ra từ đầu
điếu thuốc đang cháy độc hơn khói thuốc do người hút hít vào vì có chứa nhiều
chất độc hại hơn gấp 26 lần do cháy ở nhiệt độ cao và không qua bộ phận lọc. Khói
thuốc thụ động là một trong các tác nhân gây nên các bệnh: Tim mạch, phổi, làm
giảm các chức năng hô hấp và ảnh hưởng tới chức năng sinh sản của cả nam và nữ.
Do đó, quy định cấm hút thuốc lá tại nơi công cộng là rất cần thiết.
Điều 11, Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá quy định như sau: Địa điểm
cấm hút thuốc lá hoàn toàn trong nhà và trong phạm vi khuôn viên bao gồm: Cơ sở
y tế; Cơ sở giáo dục, trừ các cơ sở quy định tại các địa điểm như trường cao đẳng,
đại học, học viện; Cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng, vui chơi, giải trí dành riêng cho trẻ
em; Cơ sở hoặc khu vực có nguy cơ cháy nổ cao…
Địa điểm công cộng, trừ các địa điểm quy định cấm hút thuốc lá hoàn toàn
trong phạm vi khuôn viên và các địa điểm cấm hút thuốc lá trong nhà nhưng được
phép có nơi dành riêng cho người hút thuốc lá gồm khu vực cách ly của sân bay,
quán bar, karaoke, vũ trường, khách sạn và cơ sở lưu trú, du lịch; phương tiện giao
thông công cộng là tàu thủy, tàu hỏa…
1.6. Cơ quan quản lý nhà nước về hành vi hút thuốc lá nơi công cộng
Căn cứ vào điều 5 Luật phòng chống tác hại của thuốc lá số 09/2012/QH13 thì:




Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về phòng, chống tác hại của thuốc lá.

Bộ Y tế chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về



phòng, chống tác hại của thuốc lá và có các nhiệm vụ, quyền hạn sau này:
+

Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành và ban hành theo thẩm quyền

văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, chính sách, kế hoạch về phòng, chống tác
hại của thuốc lá, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về thuốc lá;
+

Chỉ đạo và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, chính

sách, kế hoạch về phòng, chống tác hại của thuốc lá;
+

Tổ chức thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống tác hại của thuốc lá;

+

Tổ chức bồi dưỡng và tăng cường nhân lực tham gia phòng, chống tác hại của

thuốc lá;
+

Tổ chức nghiên cứu, tư vấn, phòng ngừa, chẩn ñoán, ñiều trị nghiện thuốc
lá;


+

Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý hành vi vi phạm pháp

luật trong phòng, chống tác hại của thuốc lá theo thẩm quyền;
+

Hằng năm tổng hợp, báo cáo Chính phủ về kết quả phòng, chống tác hại của

thuốc lá;
+

Hợp tác quốc tế về phòng, chống tác hại của thuốc lá.

Các bộ, cơ quan ngang bộ khác trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình



có trách nhiệm chủ động thực hiện nhiệm vụ về phòng, chống tác hại của thuốc lá;
phối hợp với Bộ Y tế thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống tác hại của thuốc
lá.


Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực
hiện quản lý nhà nước về phòng, chống tác hại của thuốc lá; chủ trì tổ chức, chỉ đạo
và chịu trách nhiệm thực hiện các quy định về địa điểm cấm hút thuốc lá tại địa
phương.


Chương 2. Thực trạng quy định pháp luật xử phạt vi phạm hành chính về

hành vi hút thuốc lá nơi công cộng và một số giải pháp hoàn thiện
2.1. Quy định về xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hút thuốc lá nơi công
cộng
2.1.1. Các điều luật xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hút thuốc lá nơi công
cộng
Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14-11-2013 của Chính phủ, quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế, trong đó có các điều khoản về việc vi
phạm quy định về địa điểm cấm hút thuốc lá và vi phạm quy định về việc bán thuốc
lá. Theo đó, nếu có sự vi phạm quy định về địa điểm cấm hút thuốc lá, bán thuốc lá
thì hành vi đó có thể bị xem xét xử phạt vi phạm hành chính theo quy định pháp
luật.


Việc xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm quy định về địa điểm cấm hút
thuốc tại Điều 23 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP như sau:
1. Cảnh

cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một
trong các hành vi sau đây:
a) Hút

thuốc lá tại địa điểm có quy định cấm. Trường hợp hút thuốc lá trên tàu
bay thực hiện theo quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
hàng không dân dụng;

b) Bỏ

mẩu, tàn thuốc lá không đúng nơi quy định khi hút thuốc lá tại những địa
điểm được phép hút thuốc lá.
2. Phạt


tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các
hành vi sau đây:
a) Không

treo biển có chữ hoặc biểu tượng “cấm hút thuốc lá” tại địa điểm cấm
hút thuốc lá;

b) Không yêu cầu người vi phạm chấm dứt việc hút thuốc lá trong cơ sở của mình;


c) Không tổ chức thực hiện, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc thực hiện đúng quy định
về cấm hút thuốc lá tại địa điểm thuộc quyền quản lý, điều hành.
3. Phạt

tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các
hành vi sau đây tại nơi dành riêng cho người hút thuốc lá:
a) Không

có phòng và hệ thống thông khí tách biệt với khu vực không hút thuốc

lá;
b) Không có dụng cụ chứa mẩu, tàn thuốc lá;
c) Không có biển báo tại vị trí phù hợp, dễ quan sát;
d) Không có thiết bị phòng cháy, chữa cháy.


Việc xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm quy định về bán thuốc lá
tại Điều 24 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP như sau:
1. Cảnh


cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với hành vi
sử dụng thuốc lá khi chưa đủ 18 tuổi.
2. Phạt

tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong các
hành vi sau đây:
a) Trưng

bày quá một bao hoặc một tút hoặc một hộp của một nhãn hiệu thuốc

lá;
b) Bán thuốc lá không ghi nhãn, không in cảnh báo sức khỏe trên bao bì thuốc lá
theo quy định của pháp luật.
3. Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc thu hồi thuốc lá không ghi nhãn,
không in cảnh báo sức khỏe trên bao bì thuốc lá đối với hành vi quy định tại điểm
b, khoản 2 điều này.
2.1.2. Thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hút thuốc lá

̶

nơi công cộng
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hút thuốc lá nơi công cộng:


Nghị định 176/2013/NĐ-CP quy định lực lượng tham gia xử phạt vi phạm hành
chính về phòng, chống tác hại của thuốc lá là thanh tra y tế, chiến sĩ công an đang
thi hành nhiệm vụ, Chủ tịch xã (phường).
Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hút thuốc lá nơi công cộng:
̶


Vì việc hút thuốc lá nơi công cộng sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000
đồng đến 300.000 đồng theo khoản 1 điều 23 Nghị định 176/NĐ-CP/2013 cho nên
thủ tục xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hút thuốc lá nơi công cộng sẽ căn cứ
vào điều 54, pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 đã sữa đổi bổ sung năm
2007, năm 2008 thì thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đơn giản như sau:
Trong trường hợp xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 10.000 đồng đến 200.000
đồng thì người có thẩm quyền xử phạt quyết định xử phạt tại chỗ. Việc xử phạt tại
chỗ không phải lập biên bản, trừ trường hợp vi phạm hành chính được phát hiện
nhờ sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ.
Quyết định xử phạt phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, địa chỉ của
người vi phạm hoặc tên, địa chỉ của tổ chức vi phạm; hành vi vi phạm; địa điểm
xảy ra vi phạm; họ, tên, chức vụ của người ra quyết định; điều, khoản của văn bản
pháp luật được áp dụng. Quyết định này phải được giao cho cá nhân, tổ chức bị xử
phạt một bản. Trong trường hợp người chưa thành niên bị phạt cảnh cáo thì quyết
định xử phạt cảnh cáo còn được gửi cho cha mẹ, người giám hộ của người đó hoặc
nhà trường nơi người chưa thành niên vi phạm đang học tập.
Trường hợp phạt tiền thì trong quyết định phải ghi rõ mức tiền phạt. Cá nhân, tổ
chức vi phạm có thể nộp tiền phạt tại chỗ cho người có thẩm quyền xử phạt. Người
có thẩm quyền xử phạt phải giao biên lai thu tiền phạt cho người bị xử phạt.
2.1.3. Thời hạn, thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hút thuốc lá nơi
công cộng
Theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính
năm 2012 thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường là 02 năm tính từ ngày thực hiện hành vi vi phạm. Nếu quá thời hạn nêu trên
thì không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nhưng vẫn ra quyết định áp
dụng biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định tại khoản 2 Điều 65 Luật Xử lý vi


phạm hành chính và Nghị định số 179/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính

phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
2.1.4. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hút thuốc lá nơi công
cộng
Căn cứ theo điều 21 Luật xử lý vi phạm hành chính số: 15/2012/QH13 thì
hình thức xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hút thuốc lá nơi công cộng sẽ bao

̶

gồm:
̶

Cảnh cáo;
̶

Phạt tiền;
Tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm
hành chính.
2.2. Thực trạng về xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hút thuốc lá nơi công
cộng
2.2.1. Những mặt thuận lợi trong vấn đề xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hút
thuốc lá nơi công cộng
Nếu như trước đây, trong các cơ sở y tế thường thấy hình ảnh hút thuốc lá
diễn ra phổ biến tại các phòng bệnh và khuôn viên bệnh viện thì hiện nay tình trạng
này hầu như không còn. Đến bất cứ một bệnh viện hay cơ sở y tế nào trên địa bàn
thành phố, chúng ta cũng dễ dàng bắt gặp những biển thông báo “Cấm hút thuốc
lá” được treo dán ở những nơi dễ quan sát nhất. Sự nỗ lực, quyết tâm của ngành y
tế trong công tác phòng chống tác hại thuốc lá thời gian qua đã mang lại nhiều hiệu
quả tích cực.
Ngay từ đầu năm, các đơn vị trong ngành đều xây dựng và ban hành kế hoạch
PCTHTL với mục tiêu tăng cường thực thi Luật PCTHTL và các văn bản hướng

dẫn có liên quan; đồng thời nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức,
người bệnh và người nhà bệnh nhân về lợi ích của môi trường không khói thuốc lá,
tác hại của thuốc lá tiến đến giảm dần tỷ lệ hút thuốc lá và tỷ lệ bệnh tật, tử vong có
liên quan đến thuốc lá, tạo môi trường làm việc không khói thuốc lá.


Điển hình như Bệnh viện Đa khoa TP Cần Thơ, Ban Giám đốc đã xây dựng kế
hoạch, thành lập Ban Chỉ đạo Phòng chống tác hại thuốc lá nhằm đưa ra định
hướng, chỉ đạo và giám sát việc xây dựng môi trường Bệnh viện không khói thuốc
lá. Bệnh viện cũng yêu cầu tất cả công chức, viên chức không được hút thuốc lá tại
đơn vị, ký cam kết và chịu trách nhiệm trước Trưởng khoa, phòng, Ban Giám đốc.
Quy định không hút thuốc lá cũng được đưa vào tiêu chuẩn trong đánh giá thi đua
hàng tháng và cả năm cho cá nhân và tập thể khoa, phòng.
Tương tự ở Bệnh viện Lao và Bệnh phổi TP Cần Thơ, theo BS Hứa Trung Tiếp,
Phó Giám đốc Bệnh viện, nhằm nâng cao ý thức chấp hành nghiêm quy định không
hút thuốc lá tại nơi làm việc, bệnh viện cũng đã triển khai vận động 100% cán bộ,
viên chức, người lao động trong bệnh viện ký cam kết: “Xây dựng cơ quan, đơn vị
không khói thuốc lá”. Nếu vi phạm quy định hút thuốc lá tại nơi làm việc lần đầu
thì nhắc nhở, phạt tiền (50.000 đồng); lần hai, mức phạt hành chính cao hơn
(100.000 đồng), lần ba trở đi tiếp tục phạt hành chính và hạ bậc thi đua. Bên cạnh
đó, công tác truyền thông cũng được tăng cường như: treo biển “Cấm hút thuốc lá”
tại khoa, phòng, khu vực buồng bệnh, khu vực chờ khám bệnh, nơi công cộng trong
khuôn viên bệnh viện; tuyên truyền, cung cấp thông tin về tác hại của việc sử dụng
thuốc lá, Luật PCTHTL cho cán bộ, viên chức, người lao động và bệnh nhân trong
các cuộc họp giao ban, sinh hoạt câu lạc bộ hội đồng người bệnh, phát thanh nội
viện…
Với nhiều biện pháp cụ thể, đội ngũ cán bộ, người lao động trong ngành đã nhận
thức đầy đủ hơn về tác hại của thuốc lá đối với sức khỏe, nhiều cán bộ, nhân viên y
tế bỏ hẳn thuốc lá; 100% công chức, viên chức, người lao động y tế không còn hút
thuốc trong phòng làm việc. Không chỉ tuân thủ quy định, các y, bác sĩ, nhân viên y

tế, lực lượng bảo vệ ở các bệnh viện còn thường xuyên giám sát, nhắc nhở người
nhà bệnh nhân không hút thuốc lá trong bệnh viện. Theo thống kê của Bệnh viện
Đa khoa TP Cần Thơ năm 2015, bệnh viện đã phát hiện một số trường hợp thân
nhân người bệnh lén lút hút thuốc lá và đã lập 214 biên bản vi phạm. Ngoài ra, các
bệnh viện cũng nghiêm cấm việc mua bán thuốc lá trong bệnh viện, yêu cầu căn
tin, bách hóa, siêu thị cam kết không được phép quảng cáo và mua bán thuốc lá
trong bệnh viện.
Xây dựng bệnh viện không khói thuốc góp phần tạo môi trường xanh - sạch - đẹp trong lành, cũng chính là bảo vệ sức khỏe cán bộ y tế và người bệnh, giúp giảm tỷ


lệ sử dụng thuốc lá, chi tiêu cho thuốc lá, giảm chi phí vệ sinh môi trường và phòng
chống, hạn chế nguy cơ cháy, nổ… Để thực hiện phong trào này ngày càng hiệu
quả, trong thời gian tới, ngành Y tế sẽ tiếp tục đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền,
phổ biến Luật PCTHTL, thường xuyên đôn đốc, nhắc nhở, giám sát việc thực hiện
quy định về PCTHTL tại đơn vị, đặc biệt nghiêm khắc xử phạt các trường hợp vi
phạm, đảm bảo tuân thủ quy định về PCTHTL.
Không những chỉ có các cơ sở y tế, để nâng cao nhận thức cho thanh, thiếu
niên về tác hại thuốc lá, thời gian qua, Ban chỉ đạo PCTHTL thành phố phối hợp
chặt chẽ với Sở Giáo dục và Đào tạo, các trường cao đẳng, đại học, THPT, THCS
trong thành phố, đẩy mạnh các biện pháp tuyên truyền PCTHTL như: tổ chức mít
tinh, huy động sự tham gia của học sinh (HS), sinh viên; lắp đặt pano, áp phích,
bảng cấm hút thuốc lá, phát tờ rơi, tổ chức các buổi nói chuyện, tuyên truyền về
Luật PCTHTL, tác hại việc hút thuốc lá và hút thuốc lá thụ động; xây dựng các mô
hình trường học không khói thuốc. Đồng thời, tổ chức các lớp tập huấn phổ biến
Luật PCTHTL, tác hại thuốc lá ảnh hưởng sức khỏe con người, lợi ích môi trường
không khói thuốc và xây dựng môi trường không khói thuốc lá cho giáo viên tại
các buổi chính trị hè; nghiên cứu khoa học về tình hình triển khai Luật PCTHTL.
Các trường học chủ động triển khai kế hoạch PCTHTL tại đơn vị; đẩy mạnh tuyên
truyền, phát huy tốt vai trò xung kích của Đoàn thanh niên.
Trường THPT Bình Thủy xây dựng kế hoạch PCTHTL rất sớm, thông qua việc

thành lập Ban chỉ đạo, phân công nhiệm vụ cụ thể, tăng cường tuyên truyền về tác
hại thuốc lá, nghiêm cấm hút thuốc lá đối với giáo viên và HS. Bà Trần Thị Ngọc
Sương, Hiệu trưởng nhà trường, cho biết: "Để xây dựng môi trường học đường
không khói thuốc, Ban Giám hiệu nhà trường đưa quy định cấm hút thuốc lá trong
khuôn viên trường đối với giáo viên, HS; đưa nội dung PCTHTL vào kế hoạch hoạt
động hằng năm, quy chế nội bộ và tiêu chuẩn xét danh hiệu thi đua, khen thưởng
cuối năm. Đồng thời, tổ chức ký cam kết không tàng trữ, không hút, không sử dụng
các chất gây nghiện, trong đó có thuốc lá. Nhà trường tổ chức tuyên truyền không
hút thuốc lá cho HS thông qua các buổi sinh hoạt dưới cờ, sinh hoạt lớp, công tác
tư vấn tâm lý học đường... Đoàn trường thường xuyên giám sát, kiểm tra các góc
khuất, nhà vệ sinh, kịp thời nhắc nhở HS không hút thuốc lá. Hiện nhà trường có
gắn 10 camera quan sát từ xa. Bảo vệ nhà trường nhắc nhở phụ huynh không được
hút thuốc lá trước cổng trường, trong khuôn viên trường khi đón con. Nhờ kết hợp


nhiều biện pháp giáo dục và hình thức tuyên truyền, góp phần hạn chế HS, giáo
viên hút thuốc lá trong trường".
Nhờ được nâng cao nhận thức, HS còn tuyên truyền cho người thân, hàng xóm về
tác hại thuốc lá. Em Phan Nguyễn Phát, học sinh lớp 12A1, chia sẻ: "Qua các buổi
truyền thông, em hiểu hơn về tác hại thuốc lá đối với sức khỏe. Em thường khuyên
các chú ở xóm em nên bỏ thuốc lá để bảo vệ sức khỏe".
Theo bà Trần Thị Ngọc Sương, bên cạnh sự giáo dục, quản lý của nhà trường, các
bậc phụ huynh nên dành nhiều thời gian để hướng dẫn, giáo dục và răn đe con em
tránh xa thuốc lá và tệ nạn xã hội; xây dựng lối sống lành mạnh; dành thời gian
luyện tập thể thao, rèn luyện sức khỏe và tham gia các hoạt động tình nguyện ngoài
cộng đồng.
Ban chỉ đạo PCTHTL thành phố tiếp tục phối hợp tổ chức nhiều hoạt động tuyên
truyền, từng bước tạo chuyển biến trong nhận thức, hành động của giáo viên, HS về
tác hại thuốc lá đối với sức khỏe và môi trường.
2.2.2. Khó khăn, mâu thuẫn trong vấn đề xử phạt vi phạm hành chính về hành vi

hút thuốc lá nơi công cộng
Trên thực tế, mặc dù mức độ tuyên truyền về những tác hại từ thuốc lá đối
với người hút trực tiếp và người hút thụ động đã phủ khá dày đặc trên các phương
tiện thông tin đại chúng nhưng tình trạng hút thuốc lá nơi công cộng vẫn diễn ra
nhiều nơi. Đáng nói hơn, Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá năm 2012 và việc
xử phạt hành vi hút thuốc lá ở những nơi bị cấm đã được quy định tại Nghị định
176/2013/NĐ-CP ngày14/11/2013 của Chính phủ, quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực y tế, nhưng hầu như việc thực hiện quy định xử phạt vi phạm
nhìn chung chưa được thực hiện triệt để.
Thứ nhất, thực hiện quy định xử phạt hành vi vi phạm hút thuốc lá chưa triệt để
Thực tế cho thấy, vi phạm liên quan đến hút thuốc lá nơi công cộng là rất phổ biến,
ngay cả những địa điểm theo quy định tại Điều 11 của Luật Phòng, chống THCTL,
bị cấm hút thuốc lá hoàn toàn, như: Cơ sở y tế; Cơ sở giáo dục; Cơ sở chăm sóc,


nuôi dưỡng, vui chơi, giải trí dành riêng cho trẻ em; Khu vực có nguy cơ cháy, nổ
cao và địa điểm cấm hút thuốc lá trong nhà (nhưng được phép có nơi dành riêng cho
người hút thuốc lá) như: khu vực cách ly của sân bay, quán bar, karaoke, vũ trường,
khách sạn; cơ sở lưu trú du lịch, phương tiện giao thông công cộng là tàu thủy, tàu
hỏa, ô tô… rất nhiều người vẫn thản nhiên hút thuốc lá nơi có biển “Cấm hút
thuốc”. Tại các bệnh viện, người dân vẫn cứ vô tư hút thuốc lá tại khu vực chờ
khám bệnh, trong nhà WC, khuôn viên vườn hoa,... Khi bị nhắc nhở, một số người
tìm sang khu vực khác khuất tầm nhìn để tiếp tục hút thuốc, hoặc hút trở lại sau khi
nhân viên đi khỏi. Điều đáng nói là tại nhiều khu vực công cộng, mà theo quy định
bắt buộc đến thời điểm này vẫn chưa bố trí khu vực dành riêng cho người hút thuốc
lá. Mặt khác, tình trạng các doanh nghiệp sử dụng lực lượng nữ xinh đẹp để tiếp thị
thuốc lá trực tiếp tới người tiêu dùng tại các quán ăn, nhà hàng vẫn phổ biến. Chính
vì vậy, dường như quy định cấm và xử phạt vi phạm hành chính đối với người hút
thuốc lá ở nơi công cộng gần như chỉ được thực hiện ở khâu tuyên truyền trên các
phương tiện truyền thông đại chúng. Hàng loạt nguyên nhân được nêu ra như đối

tượng sử dụng thuốc lá rất nhiều và đa dạng, không gian lại rộng trong khi cơ quan,
đơn vị chức năng thiếu lực lượng làm nhiệm vụ kiểm tra để xử phạt hoặc người vi
phạm không có tiền nộp phạt,…. Một điểm nữa cũng phải thấy đó là thuốc lá điếu
hiện nay được bán với giá quá rẻ, việc mua cũng rất dễ dàng, nên đấy cũng là
nguyên nhân dẫn đến người hút thuốc nhiều và hút ở mọi nơi. Bên cạnh đó, lực
lượng thanh tra chuyên ngành y tế và UBND các cấp là những đơn vị có thẩm
quyền xử phạt người hút thuốc lá nơi công cộng, nhưng với lực lượng thanh tra y tế
ít ỏi hiện nay, việc xử lý các trường hợp vi phạm là điều vô cùng nan giải. Trong khi
đó, lãnh đạo các cấp chính quyền nhất chính quyền cấp xã, phường gần như buông
lỏng công tác đôn đốc, kiểm tra, tiến hành xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm
quyền phân cấp. Còn việc xây dựng những phòng dành riêng cho người hút thuốc ở
nơi công cộng, tuy pháp luật có quy định, nhưng với tình hình quỹ đất như hiện nay,
chẳng mấy ai muốn thực hiện quy định đó, còn việc xử lý sai phạm của các cơ quan
chức năng về việc này đa phần chỉ dừng lại ở mức nhắc nhở! Một thực tế khác, theo
quy định đối tượng là cán bộ, người lao động trong cơ quan hành chính nhà nước,
đơn vị lực lượng vũ trang vi phạm quy định cấm hút thuốc tại nơi làm việc vẫn bị
xử phạt vi phạm hành chính như các cá nhân khác khi có hành vi vi phạm. Tuy
nhiên, theo phân cấp về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng biện
pháp khắc phục hậu quả theo quy định tại Chương II Luật Xử lý vi phạm hành chính
năm 2012 từ Điều 38 đến Điều 51, mà theo đó, rất nhiều chủ thể là người đứng đầu


cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang lại không được giao thẩm
quyền xử phạt này nên không thể tiến hành biện pháp xử phạt vi phạm hành chính
về về hành vi hút thuốc lá tại nơi làm việc, trong phạm vi khuôn viên cơ quan, đơn
vị lực lượng vũ trang. Trong khi đó các chủ thể khác có thẩm quyền, như chiến sĩ
công an nhân dân khi thi hành công vụ, Chủ tịch UBND xã phường,…lại không thể
tiến hành xử phạt vi phạm, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do không thuộc
phạm vi quản lý của cấp mình! Đây là bất cập, tạo nên sự bất bình đẳng, dù cùng là
hành vi vi phạm hành chính hút thuốc lá tại nơi cấm hút thuốc lá, nhưng với người

dân bình thường thì chịu chế tài hành chính, trong khi đó với đối tượng là cán bộ,
công chức, người lao động trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị lực lượng vũ
trang chỉ bị nhắc nhỡ rút kinh nghiệm theo quy chế nội bộ. Như vậy, nếu quy chế
của cơ quan, đơn vị có quy định về các hình thức xử lý kỷ luật đối với cán bộ, người
lao động vi phạm quy định cấm hút thuốc thì người đứng đầu có thẩm quyền xử lý
kỷ luật, nhưng nếu lãnh đạo, chỉ huy cơ quan, đơn vị đó không kiên quyết đưa việc
cấm hút thuốc lá tại nơi làm việc, trong phạm vi khuôn viên quản lý của cơ quan,
đơn vị mình thì tình trạng hút thuốc lá tại những nơi đó vẫn cứ tồn tại như chưa từng
có quy định cấm!.
Thứ hai, những trở ngại trong áp dụng thẩm quyền xử phạt liên quan đến hút
thuốc lá
Theo quy định pháp luật thì khi phát hiện vi phạm liên quan đến thuốc lá thì người
có thẩm quyền phải đình chỉ ngay. Đình chỉ vi phạm là công việc đầu tiên cần làm
nhằm đảm bảo ngăn chặn kịp thời vi phạm tiếp diễn. Tuy nhiên, lực lượng chủ yếu
phát hiện các vi phạm này là nhân viên làm nhiệm vụ bảo vệ tại những nơi công
cộng; nhân viên y tế tại các bệnh viện; chiến sĩ công an nhân dân đang thi hành công
vụ,… Điểm đặc biệt trong Nghị định 176/2013/NĐ-CP, mà theo đó, tất cả các chiến
sỹ công an nhân dân đang thi hành công vụ đều có quyền phạt cảnh cáo; phạt tiền
đối với các hành vi vi phạm nhưng theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 39 Luật
Xử lý VPHC, lực lượng này không có quyền xử phạt trên mức 500.000 đồng. Trong
khi đó, mức tiền phạt đối với nhiều hành vi vi phạm liên quan đến hút thuốc lá
thường lên đến từ vài triệu đến vài chục triệu đồng. Ví dụ: Một người vừa có hành vi
hút thuốc lá tại địa điểm có quy định cấm vừa có hành vi bỏ mẩu, tàn thuốc lá bừa
bãi thì rõ ràng vượt quá thẩm quyền xử phạt tại chỗ không cần lập biên bản vi phạm
của chiến sỹ công an nhân dân khi làm nhiệm vụ. Hay với các hành vi như
bán thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi; bán thuốc lá không ghi nhãn, không in cảnh
báo sức khỏe trên bao bì thuốc lá… đều có mức tiền phạt từ 1.000.000 đồng
đến 2.000.000 đồng. Nếu phát hiện hành vi này thì chiến sĩ công an hoặc kiểm soát



viên thị trường chỉ có thể lập biên bản rồi chuyển lên cấp trên để ra quyết định xử
phạt. Một khi chưa ra được quyết định xử phạt thì không thể áp dụng các hình thức
phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả như: tịch thu tang vật vi phạm, buộc
thu hồi sản phẩm, khắc phục hậu quả vi phạm. Điều đó có nghĩa là những hành vi
này vẫn có khả năng được tiếp diễn. Đây là bất cập cần được xem xét để sửa đổi cho
phù hợp với tình hình thực tế.
Mặt khác, tại điểm đ khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý VPHC quy định: “Người có thẩm
quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá nhân, tổ chức bị
xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình
không vi phạm hành chính”. Đối với vi phạm hành chính liên quan đến thuốc lá thì
nguyên tắc này được hiểu rằng, các cơ quan nhà nước có nghĩa vụ chứng minh lỗi
của người vi phạm. Nếu các cơ quan nhà nước không chứng minh được cá nhân, tổ
chức có lỗi thì không được xử phạt họ. Không thể phủ nhận đây là một nguyên tắc
rất nhân văn và là đảm bảo pháp lý quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, tuy nhiên, đối với nhiều hành vi vi phạm liên quan đến thuốc lá thì
nguyên tắc này lại tạo ra những khó khăn cho người thực thi công vụ. Cụ thể, để xử
phạt hành vi hút thuốc lá tại địa điểm có quy định cấm, điều cần thiết là phải bắt quả
tang. Thế nhưng, người ta chỉ hút thuốc trong thời gian rất ngắn là xong. Thậm chí
có người châm lửa đốt điếu thuốc lá chủ yếu để ngửi mùi khói thuốc một lúc là đủ
mà không cần hút. Hành động này thường bắt gặp nhiều nhất ở các quán bar, vũ
trường, khi mà các cô gái muốn tạo dáng, tay cầm bật lửa, tay cầm điếu thuốc đưa
lên đốt rất “sành điệu”, nhưng rất ít khi nhìn thấy họ hút thuốc lá thật sự. Vậy trong
trường hợp này liệu có đủ căn cứ để áp dụng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23
Nghị định 176/2013/NĐ-CP để ra quyết định xử phạt vi phạm không? Hoặc khi phát
hiện lực lượng chức năng, họ vứt luôn điếu thuốc đang cầm trên tay nên trong những
trường hợp như thế, lực lượng chức năng rất khó khăn trong việc chứng minh vi
phạm, điều này một phần do phương tiện chuyên dụng phục vụ cho việc ghi hình
(camera), máy chụp ảnh trang bị cho lực lượng thi hành công vụ còn thiếu nhiều. Do
vậy chỉ khi nào tại nơi có biển cấm hút thuốc lá, bắt quả tang người vi phạm trên tay
đang cầm điếu thuốc lá đang cháy và miệng còn phì phà khói thuốc lá thì mới có thể

xử phạt vi phạm về hành vi này. Bởi, theo quy định hiện hành chỉ cấm hành vi hút
thuốc lá tại một số nơi, chứ không cấm việc đốt thuốc lá nơi công cộng. Khi lực
lượng chức năng tiến hành xử phạt mà việc chứng minh vi phạm trở nên phức tạp,
khó khăn thì điều rất dễ nhận thấy là đa số sẽ lựa chọn cách hành xử nhẹ nhàng nhất
là “cho qua”. Điều đó có nghĩa, vi phạm liên quan đến thuốc lá vẫn tiếp diễn ra và
ngang nhiên thách thức các chế tài xử phạt.
Thứ ba, các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính về thuốc lá còn
nhiều bất cập


Theo khoản 2 Điều 9 Luật PCTHTL năm 2012 quy định hành vi bị cấm là: “Quảng
cáo, khuyến mại thuốc lá; tiếp thị thuốc lá trực tiếp tới người tiêu dùng dưới mọi
hình thức” nhưng chế tài xử lý vi phạm lại được quy định trong 03 nghị định khác
nhau. Cụ thể, hành vi quảng cáo thuốc lá bị xử phạt theo quy định tại điểm a khoản
1 Điều 50 Nghị định 158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ, quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo với
mức phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng; “Phạt tiền từ 2.000 000
đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi không thực hiện đúng quy định về trưng
bày thuốc lá tại điểm bán hàng.”, theo quy định tại khoản 3 Điều 32 Nghị định
185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ, quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng; riêng về hành vi “Tiếp thị thuốc lá trực tiếp tới người tiêu
dùng dưới mọi hình thức;” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 27 Nghị định
176/2013/NĐ-CP, chế tài xử phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.
Theo quan điểm của người nghiên cứu, xét về kỹ thuật lập pháp thì việc thiết kế các
chế tài như trên là không hợp lý, thật sự gây khó khăn cho người dân khi tìm hiểu
các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động quảng cáo, kinh doanh mặt hàng
thuốc lá điếu. Mặt khác, thực tế đó cũng là trở ngại trong quá trình xem xét, xử lý
cũng như công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật của cơ quan chức năng, chính
quyền địa phương.

Một bất cập khác cũng đang tồn tại, đó là: Tại khoản 6 Điều 9 Luật PCTHTL có quy
định hành vi bị cấm là: “Bán, cung cấp thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi”. Hành vi
bán thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi nếu bị phát hiện có thể bị phạt tiền từ
1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 32 Nghị
định 185/2013/NĐ-CP. Tuy nhiên, hành vi “cung cấp thuốc lá cho người chưa đủ 18
tuổi” thì lại không tìm thấy chế tài tương ứng trong các nghị định của Chính phủ.
Như vậy có thể thấy rằng, hành vi “cung cấp thuốc lá cho người chưa đủ 18
tuổi” không thể đồng nhất với hành vi “bán thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi” vì
“bán thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi” phải kèm theo yếu tố trao đổi ngang giá
giữa vật – tiền. Trong khi đó, “cung cấp thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi” thì
không cần yếu tố này. Do đó, nếu một người có hành vi cung cấp thuốc lá điếu cho
người dưới 18 tuổi để hút thì căn cứ vào quy định nào để xử phạt? Đây có lẽ là nội
dung rất cần được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sớm nghiên cứu bổ sung vào
chế tài quy định hiện hành, nhằm tạo thuận lợi hơn cho việc áp dụng pháp luật vào
thực tiễn ngày càng chính xác và chặt chẽ hơn, bởi thực tế hiện nay nhiều cơ sở thu
mua đóng gói nông sản; cơ sở chế biến của các làng nghề truyền thống; …tại đó thu
hút lượng lớn lao động trẻ dưới 18 tuổi nhất là ở các vùng ven đô thị, vùng nông
thôn vào cao điểm mùa vụ, để “giữ” người làm, chủ cơ sở sẵn sàng phục vụ miễn phí
24/24 các loại bánh hộp, mì ăn liền, nước uống đóng chai kể cả thuốc lá điếu. Vậy


trong trường hợp này, hành vi của chủ cơ sở cung cấp thuốc lá cho người chưa đủ 18
tuổi để hút là vi phạm pháp luật, nhưng lại thiếu chế tài để xử phạt vi phạm.
2.3. Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động xử phạt vi phạm hành chính về hành
vi hút thuốc lá nơi công cộng
Để khắc phục tình trạng hút thuốc nơi công cộng, theo quan điểm của tôi thì
Việt Nam nên học tập kinh nghiệm các nước đã thành công trong việc cấm hút
thuốc nơi công cộng. Ở các nước này, bên cạnh việc phạt tiền người vi phạm quy
định nơi cấm hút thuốc, cần xử phạt chủ của nhà hàng, quán bar, khách sạn, quán
ăn, quán cà phê,… người có trách nhiệm quản lý nơi công cộng vì đã để việc này

xảy ra. Như vậy, những người có trách nhiệm mới tích cực nhắc nhở người dân
không hút thuốc tại nơi có quy định cấm. Hiếm có thành phố nào trên thế giới này
mà thuốc lá và lệnh cấm hút thuốc lá lại được thực hiện nghiêm như ở Singapore.
Điều này là một thực tế đã được kiểm chứng nếu ai đã có một lần đến hòn đảo này
và xung quanh câu chuyện về thuốc lá ở đây có vô số điều để nói. Đầu tiên là
chuyện xử phạt.Vứt đầu mẩu thuốc lá không đúng nơi qui định nếu bị phát hiện,
người vi phạm lập tức bị lập biên bản tại chỗ và xử phạt ngay với mức phạt tùy
theo hành vi và thái độ sau vi phạm của người vi phạm. Tuyệt đối không có nhắc
nhở hay khiển trách mà chỉ có phạt và phạt. Mức phạt cho lần đầu không kể người
vi phạm là ai và từ đâu đến là từ 200 đến 300 SGD. Trường hợp không nộp phạt
trong vòng 7 ngày, người vi phạm sẽ bị đưa ra tòa án để xét xử. Và 100% là người
vi phạm sẽ bị giữ nguyên mức phạt hay thậm chí là tăng thêm vì như cách giải
thích của dân Singapore là xử phạt cao hơn cho người vi phạm nhớ và hơn nữa tăng
mức phạt vì làm mất thời gian của nhân viên công vụ. Cũng theo quy định pháp
luật Singapore, người bán thuốc lá điếu phải xin giấy phép được bán thuốc lá từ cơ
quan quản lý môi trường quốc gia và không được bán thuốc lá cho người dưới 18
tuổi. Nếu vi phạm, sẽ bị phạt 500 SGD và bị đóng cửa một tháng.

Một số kiến nghị


Một là, để phát huy trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan công sở
hành chính nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nói chung trong việc thực hiện
nghiêm quy định cấm hút thuốc lá theo Điều 11 Luật PCTHTL trong khâu tuyên
truyền phổ biến giáo dục pháp luật cũng như đề ra các biện pháp quản lý chặt chẽ
hơn, kiên quyết hơn, mạnh mẽ hơn với tình trạng vi phạm quy định hút thuốc lá tại
nơi làm việc, trong phạm vi khuôn viên cơ quan đơn vị thuộc quyền quản lý của họ,
cần có chế tài phạt hành chính hoặc chế tài kỷ luật cụ thể hơn đối với người đứng
đầu những cơ quan, đơn vị nói trên nếu thông qua cơ quan truyền thông hoặc người
dân cung cấp được bằng chứng, chứng minh rằng cán bộ, công chức, người lao động

thuộc quyền của họ đã có hành vi hút thuốc lá tại nơi làm việc, trong phạm vi khuôn
viên cấm hút thuốc lá do họ quản lý. Bên cạnh đó, lực lượng chức năng cần tăng
cường công tác kiểm tra nếu phát hiện có người hút thuốc lá hoặc có nhiên viên đang
tiếp thị thuốc lá cho khách hàng tại những nơi, như tàu hỏa, quán bar, khách sạn, nhà
hàng, quán ăn,… thì ngoài việc xử phạt người vi phạm, căn cứ vào điểm b khoản 2
Điều 23 Nghị định 176/2013/NĐ-CP lập biên bản xử phạt chủ cơ sở hoặc người trực
tiếp quản lý do“Không yêu cầu người vi phạm chấm dứt việc hút thuốc lá trong cơ
sở của mình” là mới bảo đảm tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật.
Hai là, để đảm bảo tính khả thi hơn trong thực tiễn áp dụng, đề nghị:
+ Bổ sung hành vi “sử dụng thuốc lá” tại nơi có quy định cấm vào quy định tại điểm
a khoản 1 Điều 23 Nghị định 176/2013/NĐ-CP. Mà theo đó, sau khi bổ sung điểm a
khoản 1 Điều 23 Nghị định 176/2013/NĐ-CP được viết lại như sau: “Hút, sử dụng
thuốc lá tại địa điểm có quy định cấm. Trường hợp hút thuốc lá trên tàu bay thực
hiện theo quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân
dụng;”
+ Sửa đổi mức phạt tiền hiện hành đối với hành vi bán thuốc lá cho người chưa đủ
18 tuổi (điểm a khoản 2 Điều 32 Nghị định 185/2013/NĐ-CP) lên mức từ 2.000.000
đồng đến 3.000.000 đồng thay vì từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng như hiện
nay.
+ Bổ sung hành vi bị coi là vi phạm hành chính “cung cấp thuốc lá điếu cho người
chưa đủ 18 tuổi” và mức phạt tiền tương ứng với hành vi bán thuốc lá cho người
chưa đủ 18 tuổi (sau khi đã được sửa đổi) vào điểm a khoản 2 Điều 32 Nghị định
185/2013/NĐ-CP.
+ Bổ sung quy định mới về cấm bán thuốc lá tại các quầy, căn –tin trong khuôn viên
của các cơ sở y tế; cơ sở giáo dục; cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng, vui chơi, giải trí
dành riêng cho trẻ em , vào điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định 176/2013/NĐ-CP.
Đồng thời bổ sung biện pháp tạm đình chỉ hoạt động cơ sở vi phạm thời gian từ 01
đến 03 tháng vào khoản 3 Điều 24 của Nghị định này, nếu số lượng vi phạm từ dưới
100 gói trở xuống .



Ba là, do tính phổ biến của loại hành vi vi phạm này có thể diễn ra ở mọi lúc
mọi nơi, do vậy để góp phần nâng cao hiệu quả công tác xử phạt hành chính liên
quan đến hút thuốc lá thì rất cần việc đầu tư phương tiện kỹ thuật hiện đại, như:
Camera, máy chụp ảnh, máy quay phim,...nhằm phục vụ cho lực lượng thực thi công
vụ khi tác nghiệp. Bởi nhờ có các trang thiết bị hỗ trợ đó mà những chủ thể làm công
tác thanh tra, kiểm tra, giám sát sẽ nhanh chóng phát hiện ra các vi phạm để kịp thời
xử lý nghiêm minh. Có thể lắp đặt máy ghi hình cố định tại những nơi thường xuyên
xảy ra việc vi phạm hút thuốc lá. Thiết nghĩ, nếu có sự hỗ trợ của các phương tiện
nghiệp vụ kỹ thuật hiện đại này thì việc chứng minh các vi phạm của cá nhân, tổ
chức sẽ trở nên thuận lợi, minh bạch hơn.
Bốn là, như đã trình bày, hiện nay các chế tài xử phạt liên quan đến thuốc lá
nằm trong quá nhiều các văn bản pháp luật khác nhau. Điều này là không hợp lý và
không tạo điều kiện thuận lợi cho công tác giáo dục, phổ biến, tuyên truyền, xử lý
các vi phạm liên quan đến thuốc lá. Do vậy, rất cần văn bản hợp nhất của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền tập hợp các quy định liên quan đến quản lý thuốc lá, nhằm
tạo điều kiện cho người dân có nhu cầu tiếp cận khi tìm hiểu cũng như cán bộ thực
thi nhiệm vụ cũng dễ tra cứu, trả lời thắc mắc của người dân.
Năm là, đối với hầu hết các vi phạm liên quan đến hút thuốc lá thì hình thức
xử phạt là cảnh cáo hoặc phạt tiền. Tuy nhiên, như đã trình bày với tình trạng xử
phạt cảnh cáo thì không có tác dụng răn đe, còn phạt tiền thì nhiều người vi phạm
đưa ra đủ mọi lý do để né tránh việc nộp tiền phạt. Do vậy, để bảo đảm tính răn đe
phòng ngừa vi phạm, tác giả đề xuất biện pháp bảo đảm tính nghiêm minh và công
bằng trong xử phạt sau:
+ Trường hợp người vi phạm bị bắt quả tang và không có tiền nộp phạt tại chỗ theo
quy định tại Điều 56 Luật XLVPHC, thì người có thẩm quyền xử phạt được quyền
tạm giữ bất kỳ một loại giấy tờ tùy thân của người vi phạm để bảo đảm việc thi hành
quyết định xử phạt sau này. Việc cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm sẽ trả lại
cho người vi phạm giấy tờ đã tạm giữ sẽ được thực hiện sau khi thi hành xong quyết
định xử phạt vi phạm.

+ Trường hợp người vi phạm bị bắt quả tang, không có tiền nộp phạt và cũng không
mang theo người bất kỳ giấy tờ tùy thân nào, thì người thi hành công vụ được quyền
chụp ảnh, lấy dấu vân tay và những thông tin cần thiết của người vi phạm. Ảnh, dấu
vân tay và những thông tin của người vi phạm đó được cơ quan chức năng chuyển về
địa phương nơi cư trú, đưa lên phương tiện truyền thông và cổng thông tin điện tử
của địa phương. Việc gỡ bỏ những nội dung này chỉ được cơ quan có thẩm quyền
thực hiện chậm nhất là 24 giờ kể từ khi người vi phạm thực hiện xong quyết định xử
phạt vi phạm.


+ Trường hợp người vi phạm bị phát hiện qua hệ thống camera giám sát, cơ quan
chức năng được quyền trích xuất hình ảnh người vi phạm đưa lên phương tiện truyền
thông, như: Các Đài truyền hình địa phương, Đài truyền hình các khu vực Cần Thơ,
Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hà Nội. Việc gỡ bỏ hình ảnh người vi phạm khi
đã hoàn thành xong việc nộp phạt theo quyết định xử phạt vi phạm. Với trường hợp
này, nếu người vi phạm vẫn cố tình không nộp phạt quá thời hạn 03 tháng, kể từ
ngày hình ảnh vi phạm được đưa lên các phương tiện phát sóng, thì được áp dụng
tình tiết tăng nặng quy định tại điểm k khoản 1 Điều 10 Luật Xử lý VPHC, khi ban
hành quyết định xử phạt vi phạm.
Những biện pháp này tuy cũng chưa thật sự là triệt để trong việc khắc phục khó khăn
trong việc xử phạt người vi phạm hành chính do hút thuốc lá nơi có quy định cấm
mà vì nhiều lý do họ chưa thể nộp phạt ngay tại chỗ. Nhưng theo tác giả rất kỳ vọng
vì sẽ góp phần đáng kể thể hiện tính quyết liệt nhằm hạn chế và tiến đến chấm dứt
tình trạng vi phạm quy định hút thuốc lá nơi có quy định cấm như hiện nay, đồng
thời khắc phục tình trạng nhờn luật của người vi phạm.

KẾT LUẬN
Như vậy, qua quá trình nghiên cứu và khảo sát thực tế để làm nên bài Tiểu
luận này thì tôi có thể rút ra được kết luận như sau:
Từ khi Luật phòng, chống tác hại thuốc lá năm 2012 có hiệu lực thì việc xử

phạt vi phạm hành chính về hành vi hút thuốc lá nơi công cộng đã được các cơ quan
tổ chức ban nghành đưa vào áp dụng và có những chỉ thị hướng dẫn thi hành cũng
như nhiều chương trình, kế hoạch đề ra để giảm thiểu tình trạng hút thuốc lá nơi
công cộng trong suốt bao năm qua.
Tuy nhiên việc xử phạt hành vi hút thuốc lá nơi công cộng còn gặp rất nhiều
khó khăn cho các chủ thể xử phạt vi phạm hành chính bởi việc thực hiện quy định
xử phạt chưa được triệt để, những trở ngại trong áp dụng thẩm quyền xử phạt liên
quan đến hút thuốc lá và các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính về
thuốc lá còn nhiều bất cập.
Mặc dù tình trạng hút thuốc lá nơi công cộng hiện nay vẫn đang là điều đáng
lo ngại cho xã hội và các biện pháp khắc phục chưa có hiệu quả cao. Thế nhưng các


×