Tải bản đầy đủ (.docx) (59 trang)

CƠ sở KHOA học PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN lực nữ TRONG xây DỰNG NÔNG THÔN mới ở bến TRE HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.66 KB, 59 trang )

CƠ SỞ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC NỮ TRONG XÂY DỰNG NÔNG
THÔN MỚI Ở BẾN TRE HIỆN NAY


Cơ sở lý luận
Một số khái niệm cơ bản
Khái niệm về nguồn nhân lực, nguồn nhân lực nữ và
phát triển nguồn nhân lực nữ.
Nguồn nhân lực là một vấn đề hết sức quan trọng của sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở bất kỳ quốc gia nào. Việt
Nam đang từng bước xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn thì việc chú trọng phát triển nguồn
nhân lực là vấn đề hết sức cần thiết.
Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc: “Nguồn nhân lực
là trình độ lành nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ
cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm năng để phát
triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng” [16, tr.18].
So với các nguồn lực khác thì việc quản lý, sử dụng
nguồn lực con người là hết sức khó khăn, phức tạp, bởi con
người là một thực thể sinh vật rất nhạy cảm với vấn đề tác
động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra trong môi trường sống của họ.


Theo David Begg: “Nguồn nhân lực là toàn bộ quá
trình chuyên môn mà con người tích luỹ được, nó được đánh
giá cao vì tiềm năng đem lại thu nhập trong tương lai. Cũng
giống như nguồn lực vật chất, nguồn nhân lực là kết quả đầu
tư trong quá khứ với mục đích đem lại thu nhập trong tương
lai” [31, tr.282].
Theo GS.TS Phạm Minh Hạc: “Nguồn nhân lực là tổng


thể các tiềm năng lao động của một nước hoặc một địa
phương, tức nguồn lao động được chuẩn bị (ở các mức độ
khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó,
tức là những người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói
chung), bằng con đường đáp ứng được yêu cầu của cơ chế
chuyển đổi cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa” [30, tr.269].
Theo Tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng: “Nguồn nhân lực được
xem xét dưới hai góc độ năng lực xã hội và tính năng động xã
hội. Ở góc độ thứ nhất, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp
sức lao động cho xã hội, là bộ phận quan trọng nhất của dân
số, có khả năng tạo ra giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội.
Xem xét nguồn nhân lực dưới dạng tiềm năng giúp định
hướng phát triển nguồn nhân lực để đảm bảo không ngừng


nâng cao năng lực xã hội của nguồn nhân lực thông qua giáo
dục, đào tạo, chăm sóc sức khoẻ. Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại
ở dạng tiềm năng thì chưa đủ. Muốn phát huy tiềm năng đó
phải chuyển nguồn nhân lực sang trạng thái động thành vốn
nhân lực, tức là nâng cao tính năng động xã hội của con
người thông qua các chính sách, thể chế và giải phóng triệt
để tiềm năng con người. Con người với tiềm năng vô tận nếu
được tự do phát triển, tự do sáng tạo và cống hiến, được trả
đúng giá trị lao động thì tiềm năng vô tận đó được khai thác
phát huy trở thành nguồn vốn vô cùng to lớn” [29, tr.5].
Từ khái niệm trên cho thấy nguồn lực con người bao
gồm sức mạnh về thể chất, trí tuệ, tinh thần của các cá nhân
trong một cộng đồng, một quốc gia, hay nói cách khác là
nguồn nhân lực là tiềm năng về trí tuệ, thể lực và tâm lực của

con người trong độ tuổi lao động, là nguồn cung cấp sức lao
động cho xã hội.
Tóm lại, định nghĩa nguồn nhân lực: là tổng thể số lượng và chất lượng con người với tổng hoà các tiêu chí về trí
lực, thể lực và những phẩm chất đạo đức - tinh thần tạo nên
năng lực mà bản thân con người và xã hội đã, đang và sẽ huy


động vào quá trình lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến
bộ xã hội.
Nguồn nhân lực nữ được hiểu theo 2 nghĩa như sau:
Theo nghĩa rộng: “Nguồn nhân lực nữ bao gồm tổng
hòa các tiêu chí của bộ phận dân số nữ đang có khả năng
tham gia vào quá trình lao động xã hội và các thế hệ phụ nữ
nối tiếp sẽ phục vụ xã hội” [33, tr.27].
Theo nghĩa hẹp: “Nguồn nhân lực nữ với tư cách là lực
lượng lao động của xã hội, bao gồm nhóm phụ nữ trong độ
tuổi lao động có khả năng lao động. Pháp luật Việt Nam qui
định độ tuổi lao động đối với nữ (nữ từ đủ 15 tuổi đến hết 55
tuổi, nam từ đủ 15 tuổi đến hết 60 tuổi) ” [33, tr.28].
Khi nghiên cứu về nguồn nhân lực nữ, chúng ta cần chú
ý một số vấn đề sau:
Thứ nhất, nguồn nhân lực nữ là lực lượng lao động quan
trọng, tham gia trực tiếp vào quá trình phát triển của đất nước,
có vai trò và ý nghĩa rất lớn để xây dựng kinh tế của từng địa
phương. Mặt khác, phụ nữ chiếm một nữa dân số nên việc tìm
hiểu và đưa ra khái niệm về nguồn nhân lực nữ theo hai cách


trên chưa mang tính toàn diện mà chỉ mang tính chất tương
đối, nó còn phải dựa vào việc điều chỉnh quá trình phát triển

kinh tế xã hội.
Thứ hai, điều đáng chú ý là chúng ta cần phải có cách
thức tiếp cận đúng đắn, quán triệt quan điểm về giới và phát
triển. Quan điểm về “giới” xem phụ nữ như là những tác
nhân của sự biến đổi hơn là những người nhân sự giúp đỡ của
phát triển một cách thụ động, với quan điểm này vấn đề phụ
nữ không nghiên cứu một cách trách rời mà luôn chú trọng
đến các mối liên hệ giới khi đề ra các biện pháp để giúp đỡ
họ. Khi nghiên cứu về nguồn nhân lực nữ chúng ta phải đặc
trong mối quan hệ giữa nam và nữ.
Phát triển nguồn nhân lực nữ,
Phát triển “nguồn nhân lực” hay “con người”, là phạm
trụ triết học nhằm chỉ sự vận động, biến đổi về chất của con
người - thực thể tự nhiên - xã hội cả mặt thể chất và tinh thần,
đạo đức và tài năng với tất cả nhu cầu, lợi ích và tất cả những
tiềm năng của nó phù hợp với yêu cầu phát triển xã hội này
định như một quá trình lịch sử tự nhiên, khách quan.


Phát triền nguồn nhân lực nữ: là quá trình chúng ta tạo ra
số lượng và chất lượng nguồn nhân lực nữ và số lượng và chất
lượng phụ nữ ấy phải mang lại hiệu quả cao, chất lượng công
việc cụ thể, nhằm đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội chung của đất nước, là việc chúng ta phải đề cao vị thế,
vai trò của phụ nữ trong sự phát triển của đất nước.
Tóm lại: “Phát triền nguồn nhân lực nữ là sự kết hợp
giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan nhằm tạo ra
sự gia tăng về số lượng, chất lượng và cơ cấu; đồng thời tạo
sự bình đẳng về giới để đóng góp ngày càng tốt hơn cho sự
phát triển bền vững của đất nước [33, tr.37].

Để thực hiện thì trước hết cần phải có tạo được quyền cơ
bản cho phụ nữ như: được bình đẳng trong học hành, được
quan tâm chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong thu nhập, trong
các mối quan hệ xã hội, quyền chia sẽ những gánh nặng công
việc gia đình, tiếp cận nguồn vốn, khoa học công nghệ và các
nguồn lực sản xuất khác, bình đẳng trong chế độ chính sách
và trong tiếng nói chung của xã hội.
Để phát triền được nguồn nhân lực nữ thì vai trò của
Đảng và Nhà nước rất quan trọng, cần phải thực hiện tốt công


tác bình đẳng giới, làm sao để mọi người hiểu rõ là nam giới
và phụ nữ đều có quyền hạn như nhau trong xã hội. Phụ nữ
cũng có quyền của mình và thụ hưởng những thành quả từ
việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước mang lại.
Khái niệm về nông thôn, nông thôn mới và xây dựng
nông thôn mới.
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Đảng ta
khẳng định: “Khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới
để phát triển sản xuất hàng hóa lớn với năng suất, chất
lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao. Tăng nhanh sản
lượng và kim ngạch xuất khẩu nông sản, nâng cao thu nhập
và đời sống nông dân, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực
quốc gia. Xây dựng mô hình sản xuất kinh doanh phù hợp với
từng loại cây giống. Khuyến khích tập trung ruộng đất; phát
triển gia trại, trang trại, doanh nghiệp, nông nghiệp phù hợp
về quy mô và điều kiện của từng vùng”. Đây chính là sự chỉ
đạo nhất quán về tư duy và hành động góp phần thúc đẩy sự
phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.



Nông thôn: Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, cho rằng: “Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội
thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi
cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã”. Bến Tre nói
đến nông thôn có nghĩa là nơi không phải thành thị, thị trấn là
nơi có những hàng dừa xanh tấp, có những con đường cong
cong ôm lấy những bờ đê, những cánh đồng xanh biên biết, có
những cánh cò trắng tung bay, là nơi có lũy tre làng, những
con trâu đang ăn cỏ ...
Nông thôn mới: trước hết phải là nông thôn, không phải
là thị trấn, thị xã, thành phố được các cơ quan chính quyền địa
phương công nhận đạt tiêu chí của Trung ương quy định về
nông thôn mới. Có thể nói một cách khái quát: “là địa bàn
nông thôn có kinh tế, hạ tầng phát triển, làng xã văn minh,
môi trường sạch đẹp, đời sống của người dân phát triển và
nâng cao, truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc được giữ
gìn và phát huy, an ninh chính trị được giữ vững”.
Và “Mô hình nông thôn mới là tổng thể những đặc
điểm, cấu trúc tạo thành một kiểu tổ chức nông thôn theo tiêu
chí mới, đáp ứng yêu cầu mới đặt ra cho nông thôn trong điều
kiện hiện nay, là kiểu nông thôn được xây dựng so với mô


hình nông thôn cũ ở tính tiên tiến về mọi mặt”(Nguồn: Quyết
định 800/QĐ-TTg ngày 4/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ).
Như vậy, chúng ta thấy rằng muốn có nông thôn mới
phải đảm bảo được các yêu cầu cơ bản là: thực hiện được 19
tiêu chí của Trung ương ban hành.

Nông thôn mới là phải có diện mạo nông thôn xanh –
sạch – đẹp, có kết cấu hạ tầng từng bước hiện đại, đáp ứng
yêu cầu sản xuất phát triển và cuộc sống văn minh, hiện đại
của người dân, không những phải có những công trình, điện,
đường, trường, trạm, giao thông, thủy lợi, công trình văn hóa,
thể thao, du lịch hợp vệ sinh, môi trường có chất lượng theo
tiêu chuẩn, mà trong từng nhà dân cũng phải được chỉnh trang
lại, nhà ở, công trình vệ sinh, chăn nuôi, chuồng trại, cải tạo
vườn tạp, ăn ở gọn gàng, ngăn nắp, sạch đẹp ...
Nông thôn mới phải làm cho dân giàu, nước mạnh, xã
hội dân chủ, ở đó không ngừng tăng thêm việc làm, thu nhập
và có điều kiện để vươn tới một cuộc sống sung túc về cả vật
chất và tinh thần, đoàn kết xóm làng, văn minh, hiện đại.
Tóm lại, xây dựng nông thôn mới là: cuộc cách mạng
toàn dân cùng tham gia xây dựng phát triển triển sản xuất


toàn diện cả về nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, có môi
trường xanh, sạch, đẹp, nhà cửa khang trang, kinh tế hạ tầng
nông thôn đảm bảo, thu nhập người dân tăng lên, đời sống
vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao, giúp cho
người dân có niềm tin, động lực và chăm chỉ làm việc, làm
cho gia đình phát triển, xã hội ngày càng dân chủ, văn minh.
Quan điểm của Đảng và Hồ Chí Minh về nguồn nhân
lực nữ
Quan điểm của Đảng về nguồn nhân lực nữ
Đảng và Nhà nước ta ban hành nhiều văn bản về công
tác phụ nữ. Nghị quyết số 04-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày
12/7/1993 về: “đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ
nữ trong tình hình mới”, với tinh thần thực hiện đề ra mục

tiêu: “cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người phụ
nữ; nâng cao địa vị xã hội; nâng cao nhận thức về quyền bình
đẳng của phụ nữ”. Với Nghị quyết này Đảng ta mong muốn
có sự thay đổi về công tác phụ nữ, tạo điều kiện cho phụ nữ
phát triển, nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò của phụ
nữ, mọi người trong xã hội không phân biệt đối xử với phụ
nữ, phải có nhận thức đúng về vai trò của người phụ nữ trong


xã hội, đảm bảo sự bình đẳng cho phụ nữ trong tất cả các lĩnh
vực đời sống xã hội.
Trong công tác cán bộ, đều chú trọng đến việc đề bạt cán
bộ nữ, lên án việc xem thường, những biểu hiện khắc khe, hẹp
hòi trong đánh giá cũng như trong quá trình đề bạt cán bộ nữ.
Chỉ thị 37-CT/TW của Ban Bí thư ngày 16/5/1994 về công tác
cán bộ nữ trong tình hình mới đã nhấn mạnh: “Chống những
biểu hiện lệch lạc coi thường phụ nữ, khắt khe, hẹp hòi trong
đánh giá, đề bạt cán bộ nữ”, đề ra chỉ tiêu “có ít nhất 20%
phụ nữ tham gia ở các vị trí cấp cao, hình thành các chính
sách để phát triển kỹ năng phụ nữ, xây dựng kế hoạch tập
huấn cho cán bộ nữ, tăng số phụ nữ có việc làm...”. Chỉ thị
này Trung ương coi trọng vai trò phụ nữ trong công tác cán
bộ, vai trò phụ nữ trong các cơ quan Đảng và Nhà nước ngày
càng có vị trí nhất định. Ngày 4 tháng 10 năm 1997, Chính
phủ phê duyệt: “chiến lược quốc gia vì sự phát triến bộ của
phụ nữ Việt Nam đến năm 2010”. Với vấn đề cần thiết là:
“cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho phụ nữ, đảm bảo
cho phụ nữ thực hiện chức năng của họ và sự tham gia bình
của phụ nữ trong mọi hoạt động, đặc biệt là trong lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Để tạo được sự bình đẳng



cho phụ nữ trong tất cả các lĩnh vực, Quốc hội khóa XI, kì
họp thứ 10, đã thông qua: “Luật Bình đẳng giới” và có hiệu
lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2007. Quốc hội khóa
XII, kì họp thứ 2 ngày 21 tháng 11 năm 2007 đã thông qua:
“Luật Phòng chống bạo lực gia đình”, từ đó quy định được
về trách nhiệm và quyền hạn của tất cả mọi người trong xã
hội thực hiện.
Những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước về công tác phụ nữ đã làm cho phụ nữ bình
đẳng về mọi mặt, đóng góp hết sức lực của mình vào sự
nghiệp đổi mới của đất nước. Để đáp ứng tình hình nhiệm vụ
cách mạng và thực tiễn phong trào phụ nữ trong giai đoạn
hiện nay, Bộ Chính trị khóa X đã ban hành Nghị quyết số 11NQ/TW về: “công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước”. Nghị quyết đã thể hiện sự quan
tâm của Đảng đối với công tác phụ nữ nhằm phát huy hơn nữa
vai trò của phụ nữ trong thời kì phát triển mới của đất nước.
Nghị quyết đã kế thừa và phát triển những quan điểm, chủ
trương, chính sách được xác định trước đó về công tác phụ
nữ. Nghị quyết số: 11-NQ/TW thể hiện tập trung nhất, đầy đủ,
sâu sắc những nhiệm vụ, giải pháp để phát triển phụ nữ trong


giai đoạn hiện nay, để giúp cho phụ nữ tham gia đóng góp
một cách chủ động, tích cực là điều kiện khơi dậy sự phấn đấu
của phụ nữ vào sự phát triển chung của đất nước. Chính vì
những quan điểm của Đảng về đề cao vai trò phụ nữ cho nên
trong xây dựng nông thôn mới hiện nay vai trò của phụ nữ
ngày càng được đề cao, những biểu hiện coi nhẹ thiếu quan

tâm hoặc quan tâm theo kiểu chiếu cố, quan tâm trên lời nói,
quan tâm một cách hình thức mà không có những chủ trương,
chính sách và việc làm thiết thực, cụ thể và hiệu quả đều trái
với quan điểm của Đảng.
Quan điểm này xác định rõ lực lượng phụ nữ nước ta rất
đông đảo, hoạt động trong mọi lĩnh vực, vùng miền và đã phát
huy tinh thần làm chủ, tiềm năng sáng tạo; nhưng trên thực tế
cũng đang gặp nhiều khó khăn, thách thức nhất định. Do đó,
công tác phụ nữ cần có khéo léo làm tốt công tác vận động.
Cán bộ nữ là một bộ phận quan trọng cần coi trọng công tác
quy hoạch, cán bộ nữ, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp, cán bộ
trẻ để tạo nguồn kế cận. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ
Hội, đặc biệt là cán bộ cơ sở, vùng có nhiều phụ nữ tôn giáo
để chị em có đủ tiêu chuẩn, trình độ chính trị, bản lĩnh và


năng lực, giàu nhiệt tình với công tác Hội và sự nghiệp bình
đẳng giới.
Trên cơ sở các văn bản của Trung ương về phụ nữ,
Quyết định số: 800/QĐ- TTg ngày ngày 04 tháng 6 năm 2010
của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt: “chương trình mục tiêu
Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020”,
trên cơ sở đó Tỉnh ủy Bến Tre đã ban hành Nghị quyết số 03NQ/TU về: “xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011- 2015
và định hướng đến năm 2020”, phát huy mọi nguồn lực xây
dựng nông thôn mới. Nghị quyết chỉ đạo các sở, ban ngành
trong tỉnh phải phấn đấu xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn,
tham gia công tác kiểm tra, giám sát, thực hiện, đóng góp vào
ngân sách của địa phương với tinh thần tự nguyện, tự giác,
tham gia trực tiếp vào việc bảo vệ môi trường, nâng cao đời
sống về vật chất và tinh thần cho người dân. Vì thế, để thực

hiện thành công mục tiêu trên thì vai trò của phụ nữ trong xây
dựng nông thôn mới là vô cùng to lớn.
Ðặc biệt là Ðề án số: 01-ÐA/TU, ngày 12 tháng 6 năm
2012 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về: “xây dựng, bố trí, sử
dụng cán bộ nữ, cán bộ trẻ giữ chức danh lãnh đạo, quản lý
trong hệ thống chính trị của tỉnh giai đoạn 2011 - 2015 và


định hướng đến năm 2020”. Đề án đã đề ra các mục tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp để tăng tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ giữ
các chức danh lãnh đạo, quản lý của tỉnh và triển khai thực
hiện trong toàn Ðảng bộ. Các cấp ủy Ðảng, lãnh đạo các
ngành, các cấp luôn quan tâm chăm lo công tác cán bộ nữ, đã
phát hiện, mạnh dạn giới thiệu nhiều cán bộ nữ ưu tú, có năng
lực, triển vọng phát triển để kết nạp vào Ðảng, đưa vào quy
hoạch, bổ nhiệm giữ các chức danh lãnh đạo, quản lý.
Quán triệt Quyết định số: 1600/QĐ-TTg về phê duyệt:
“chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới
giai đoạn 2016-2020”, các cấp Hội đã triển khai thực hiện,
tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác Hội từ tỉnh đến cơ
sở. Từ đó, đã vận động quần chúng trong giai đoạn mới nhằm
thúc đẩy phong trào xây dựng nông thôn mới ở địa phương.
Nghị quyết Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ XII nhiệm
kỳ 2017-2022 về “xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”, gắn
với: “chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn
mới”, Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Bến Tre chỉ
đạo Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp triển khai lồng ghép và
nhân rộng việc vận động: “Xây dựng gia đình 5 không, 3



sạch” gắn với việc thực hiện phong trào: “xây dựng nông
thôn mới và đô thị văn minh”, tại địa phương.
Công tác phụ nữ là một vấn đề hết sức quan trọng trong
hoạt động lãnh đạo của Đảng, là việc làm thường xuyên của
các cấp, các ngành và cả hệ thống chính trị.
Các cấp Hội tham mưu, đề xuất và trực tiếp tổ chức, tập
hợp, động viên đông đảo các tầng lớp phụ nữ, có sự quyết tâm
cao để thực hiện có hiệu quả về công tác phụ nữ.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực nữ
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến phụ
nữ và luôn đánh giá cao vai trò của phụ trong xây dựng và
phát triển đất nước. Người nhấn mạnh: “non sông gấm vóc
Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cùng già, ra sức dệt thêu mà tốt
đẹp, rực rỡ”. Đánh giá rất cao vai trò phụ nữ trong xây dựng
và bảo vệ tổ quốc. Người còn khẳng định: “nhân dân ta anh
hùng là nhờ có các mẹ Việt Nam anh hùng”.
Cũng chính tinh thần yêu nước, thương dân, đau lòng
trước sự áp bức bất công của kẻ thù, nhìn thấy sự cơ cực, khổ
sở của người dân nhất là phụ nữ, Bác đã ra đi tìm đường cứu


nước. Người luôn luôn khát khao giải phóng áp bức cho dân
tộc, đặc biệt là phụ nữ. Người khẳng định: “....đàn bà con gái
cũng nằm trong nhân dân, nếu cả dân tộc được tự do, đương
nhiên họ cũng được tự do. Ngược lại nếu dân tộc còn trong
cảnh nô lệ thì họ và con cái họ cũng sống trong cảnh nô lệ”
[45, tr112]. Người còn khẳng định: “xem trong lịch sử cách
mệnh chẳng có lần nào là không có đàn bà con gái tham gia”
[45, tr.443]
Đánh giá được tầm quan trọng của nguồn nhân lực nữ

đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn nhìn nhận, đánh gía đúng năng lực của nguồn nhân lực
nữ. Người đã thu phục động, viên phụ nữ tham gia xây dựng
đất nước. Trong cách mạng Bác đánh giá cao vai trò của lực
lượng nữ: “lực lượng cách mạng của phụ nữ là trọng yếu.
Nếu quảng đại quần chúng phụ nữ không tham gia vào những
cuộc đấu tranh cách mạng thì cách mạng không thể thắng lợi
được” [43, tr.167-168].
Người cho rằng: Đảng và Nhà nước ta cần mãi mãi ghi
nhớ công ơn to lớn của các bà mẹ Việt Nam, những người phụ
nữ đã sinh ra và cống hiến những người con ưu tú, kiên cường
đã chiến đấu, hy sinh anh dũng bảo vệ non tổ quốc.


Bác luôn luôn tìm ra con đường giải phóng phụ nữ, phải
cởi trói cho phụ nữ. Trong hoàn cảnh nào Bác luôn khát khao
giải phóng áp bức, bóc lột bất công cho người dân nhất là giải
phóng phụ nữ, Người luôn: động viên, nhắc nhở chị em cố
gắng học tập, sáng tạo vươn lên để khẳng định bản thân, phải
tự lực, tự cường đấu tranh để giải phóng cho mình. Phụ nữ
phải cố gắng phát huy nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Người kêu gọi: “chị em phụ nữ nông thôn thi đua góp sức
hoàn thành tốt cải cách ruộng đất, thi đua hoàn thành tốt
nhiệm vụ của mình, những chị em trí thức nên thi đua phát
triển văn hóa, thi đua học hành và xung phong trong mọi
công việc”. Trong Hiến pháp năm 1946, người kêu gọi: “….
phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông để
được hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân” [45,
tr.228].
Người đã phê bình: “phụ nữ ta còn có nhược điểm như

là lúng túng bỡ ngỡ, thiếu tự tin vào chính mình”, không vượt
qua được khó khăn của bản thân như: gia đình, con cái...
Người căn dặn: tất cả phụ nữ phải nhìn thấy được trách nhiệm
của mình đối với bản thân, gia đình, xã hội và đối với đất
nước, phải thi đua lao động và phát huy bản thân tham gia vào


sản xuất, xây dựng nước nhà. Vì thế để thực hiện được thì phụ
nữ phải tự tin, dũng cảm, không trông chờ, ỷ lại vào Đảng vào
chính quyền mà phải tự học, tự rèn luyện nâng cao trình độ
bản thân.
Cơ sở thực tiễn
Đặc điểm của nguồn nhân lực nữ ở Bến Tre hiện nay
Những mặt tích cực của nguồn nhân lực nữ ở Bến Tre
hiện nay
Phụ nữ Bến Tre có đặc điểm giống như phụ nữ Đồng
bằng Sông Cửu Long và phụ nữ Việt Nam là có tinh thần yêu
nước nồng nàn, nhân hậu, đảm đang, thương yêu chồng con,
hi sinh tất cả vì gia đình, cần cù, chịu thương chịu khó.
Phụ nữ Bến Tre có truyền thống tốt đẹp là giàu lòng yêu
nước, có ý chí vươn lên vượt qua khó khăn, thách thức để
hoàn thành nhiệm vụ, làm chủ được bản thân, gia đình và xã
hội. Bên cạnh đó, với sự lãnh đạo, hỗ trợ của Đảng và Nhà
nước, của các ban ngành, đoàn thể xã hội trong đó là sự hỗ trợ
của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh đã động viên phụ nữ hăng hái
thi đua, tích cực tham gia phong trào lao động sản xuất, khắc


phục khó khăn giúp nhau phát triển kinh tế, đã đem lại cho
quê hương Bến Tre ngày càng thêm giàu đẹp, thực hiện thắng

lợi Nghị quyết đại hội toàn quốc lần thứ XII và Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ X đề ra.
Hiện nay trong các gia đình phụ nữ nông thôn phần lớn
đã xóa bỏ được tư tưởng trọng nam, khinh nữ, các thành viên
gia đình sống hòa thuận, chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau trong
công việc, làm cho người phụ nữ về cơ bản giảm bớt gánh
nặng công việc gia đình, phụ nữ có điều kiện học hỏi, trao đổi
những kinh nghiệm và tham gia làm chủ gia đình, chăm sóc
con cái, tham gia xây dựng kinh tế nông thôn và hưởng thụ
phúc lợi từ nông thôn mang lại, tham gia vào công tác bảo vệ
môi trường, phòng ngừa tệ nạn xã hội, xây dựng gia đình,
làng xóm yên vui, hạnh phúc.
Đến nay, phụ nữ còn thể hiện quyền làm chủ của mình
thông qua việc hỗ trợ của các cấp Hội phụ nữ, đã góp phần
tạo động lực cho người phụ nữ thể hiện vị thế của mình trong
xã hội.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Bến tre đã làm tốt việc chỉ đạo và
liên kết, phối hợp các ngành chức năng ban hành và tổ chức


nhiều kế hoạch nhằm giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi
nhất để phụ nữ phát triển kinh tế bằng việc vận động, quản lý
nguồn tiết kiệm tại chi hội nhiệm kỳ 2012-2017 và triển khai
đến 100% huyện, thành phố và cơ sở.
Theo Cục thống kê tỉnh Bến Tre có diện tích đất nông
nghiệp khá lớn, chiếm 75, 99% diện tích đất của tỉnh, cho nên
dân số sống ở nông thôn chiếm tỷ lệ lớn dân số Bến Tre khá
đông, năm 2016 là 1.265.217 người, trong đó nữ cao hơn nam
chiếm hơn 50%, đặc biệt Bến Tre, do đặc điểm vị trí, địa lý
nên dân cư tập trung đông ở nông thôn, số lượng phụ nữ ở

nông thôn hiện nay cao hơn nam giới, từ đó có thể khẳng định
rằng: phụ nữ nông thôn ở Bến Tre hiện nay có vai trò quan
trọng trong phát triển kinh tế nông nghiệp và là lực lượng
thiết yếu nhất trong xây dựng nông thôn mới hiện nay.
Năm 2016, Bến Tre có tỷ lệ nữ chiếm 50,9%, nam giới
chỉ chiếm 49,1%, dân số. Từ đó, cho thấy nguồn lao động nữ
nông thôn ở Bến Tre dồi dào về số lượng, nếu chúng ta đào
tạo và phát huy tốt nguồn nhân lực nữ này thì công cuộc xây
dựng nông thôn mới ở Bến Tre sớm hoàn thành.


Chính vì thế, các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương
đã xây dựng nhiều dự án và triển khai thực hiện tạo điều kiện
cho phụ nữ phát triển, với nhiều chính sách giúp nhau phát
triển kinh tế. Thực tế, trong những năm vừa qua đã có rất
nhiều phụ nữ thoát nghèo và đã làm giàu chính đáng, phụ nữ
được hỗ trợ vay vốn làm ăn và thoát nghèo. Hiện nay, cuộc
sống của phụ nữ đặc biệt là nông thôn ổn định, theo cục thống
kê tỉnh Bến Tre, “thu nhập của phụ nữ nông thôn trung bình
năm 2016 là 2.378.000 đồng, thành thị là 2.99400 đồng, tất
cả các xã trong tỉnh đều có điện thấp sáng” [9, tr.4].
Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh tiếp tục chỉ đạo Hội các cấp
tiến hành rà soát thu thập số lượng lao động nữ có trình độ
thấp đưa đi đào tạo, học bổ túc văn hóa hoặc học nghề, tổ
chức các lớp học bổ túc văn hóa buổi tối, những ngày nghỉ
làm việc để thu hút sự tham gia của phụ nữ nông thôn. Các
trung tâm dạy nghề, Trường Cao đẳng của tỉnh thường xuyên
mở lớp dạy nghề cho phụ nữ, lực lượng lao động đã nhanh
chóng tiếp cận những tiến bộ khoa học kỹ thuật và đã ứng
dụng tốt có hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh, nghiên cứu

khoa học, rèn luyện chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề, mạnh
dạn đầu tư phát triển kinh tế, nâng chuỗi giá trị vật nuôi, cây


trồng, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, liên kết kinh
doanh, tiêu thụ sản phẩm tham gia ngày càng nhiều vào các
chương trình phát triển ở từng địa phương góp phần tích cực
thực hiện phong trào xây dựng nông thôn mới. Bình đẳng giới
đối với phụ nữ được quan tâm, địa vị phụ nữ ngày càng nâng
cao, phụ nữ đã tham gia tích cực rộng rãi tất cả các lĩnh vực,
giúp tăng thu nhập, ổn định cuộc sống, từ năm 2011 đến
2016, trong việc tham gia xây dựng nông thôn mới phụ nữ
Bến Tre đã thể hiện vai trò tích cực của mình trên tất cả các
lĩnh vực hoạt động sau:
Một là, trong quá trình lao động sản xuất: các doanh
nghiệp nữ trong tỉnh mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng duy
trì hoạt động sản xuất kinh doanh, thu nhập ngày phát
triển“Với sự nỗ lực không ngừng phụ nữ Bến Tre ngày càng
khẳng định phẩm chất, năng lực, trình độ, tình nguyện, xung
kích trong mọi phong trào hành động cách mạng và hoạt
động Hội Phụ nữ thể hiện trong nghiên cứu khoa học và lao
động sản xuất” [8, tr.13]. Trên các lĩnh vực quản lý, sản xuất
nhiều tấm gương tập thể, cá nhân tiêu biểu được tôn vinh và
vinh danh trong tổng kết các phong trào thi đua “Phụ nữ tích
cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”;


“Giỏi việc nước, đảm việc nhà”, phụ nữ sản xuất kinh doanh
giỏi; phụ nữ nuôi con khỏe, dạy con ngoan của các cấp Hội.
Hai là, tham gia thực hiện tốt lĩnh vực văn hoá - xã hội:

Phụ nữ ngành giáo dục, y tế chiếm tỷ lệ cao trên 76.4 %. Bên
cạnh đó, lao động nữ trong ngành giáo dục đã có cống hiến
lớn trong việc nâng cao hoạt động giáo dục, đào tạo ở các cấp
học, bậc học và các loại hình học tập; thành tựu phổ cập giáo
dục trung học cơ sở, trung học phổ thông. Hoạt động trên mặt
trận văn hoá, thể dục thể thao đã thu hút số lượng lớn nữ tham
gia và có nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật, văn nghệ quần
chúng được đánh giá cao cũng như đạt huy chương vàng
trong các giải thể thao cấp toàn quốc và Đông Nam Á.
Ba là, ý thức tham gia bảo vệ quốc phòng - an ninh: tích
cực tham gia phong trào an ninh trật tự địa phương. Nữ cán
bộ, chiến sỹ, sỹ quan lực lượng vũ trang, dân quân tự vệ đã
năng động, sáng tạo xây dựng nhiều mô hình, cách làm hay
trong phục vụ nhân dân. Trong lĩnh vực quân đội nhiều chị đã
thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được sự tín nhiệm của nhân
dân và lòng tin của cấp chỉ huy và được giữ những vị trí quan
trọng trong ngành.


×